Mục Ðích Hành Trì & Kết Quả
Chân Nguyên
--o0o--
 
            Mục đích của sự hành trì, tu tập theo tinh thần Phật Giáo trước sau gì cũng hướng tới kết quả là giác ngộ & giải thoát, nhưng giải thoát theo quan niệm Phật Giáo là Tâm Giải thoát và Tuệ giải thoát. Nói cách khác, mục đích tu học là để giải thoát cái tâm khỏi mọi chấp trước, để nó có thể an trụ nơi cảnh giới vô ngại. Như vậy thì mục đích của sự hành trì, có thể nói chủ yếu là ở sự thu nhiếp tâm. Theo trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật đã từng dạy:
- Trong tất cả các pháp,
Tâm làm chủ, tâm dẫn đầu
Tâm tạo tác tất cả
Nếu ta nói,
Nghe hay làm với tâm lương thiện
Thì phuớc báo sẽ đi theo ta
Như bóng với hình
Ngược lại:
- Nếu ta nói,
Nghe hay làm với tâm không lương thiện
Thì nghiệp báo sẽ đi theo ta
Như bánh xe lăn theo chân con vật
Như vậy chúng ta thấy bản chất của tâm có nhiều tác dụng, và chi phối kiếp người trong nhiều khía cạnh, cho nên muốn giải thoát cái tâm khỏi mọi chấp trước, muốn thu nhiếp và chế ngự nó thì chúng ta cũng phải hiểu biết ít nhất về căn bản tâm và phải biết xử dụng mọi phương tiện để chế ngự tâm.
            Về tâm thì thiên hình vạn trạng, nhưng những căn bản để dẫn tâm đến việc tạo tác nghiệp nhân xấu có thể là những nguyên nhân như sau:
A-  Năm Cánh Cửa Quan Trọng
Năm cánh cửa chúng tôi nói quan trọng ở đây là muốn nói đến năm căn. Năm căn là cơ quan tiếp xúc với thế giới bên ngoài, nên năm căn là nguyên nhân gây ra sự rối loạn trong tâm, nếu chúng được chế ngự, tâm hồn sẽ yên tịnh. Tuy nhiên, phải làm như thế nào để chế ngự năm căn? Phật bảo:
- Mắt nhìn sắc không dính vào tướng của nó, không đắm vào mùi vị của nó, cho đến tai, mủi, thân, ý đối với tiếng, hương, mùi vị, va chạm.. v.. v.. cũng như thế.
            Con người thường do nơi cái biết, cái thấy, nghe, của hoàn cảnh chung quanh nếu tốt đẹp thì sanh lòng ái nhiễm, nếu không tốt đẹp thì sanh tâm chán ghét, chê trách. Nghĩa là con người ai cũng đều lấy ngã chấp, ngã dục làm căn bản. Do đó, khi thấy, nghe mà không để cho ý yêu, ghét chi phối thì đó là nghĩa nhiếp căn.
Trong giáo lý của Ðức Phật không giống như những trường phái tu hành khác. Những trường phái của ngoại đạo họ bảo rằng nhiếp căn là mắt không nhìn vật, tai không nghe tiếng mà trong khi thấy, nghe phải trừ khử những ý niệm yêu ghét, khổ vui, như thế mới là thấy, nghe chân thực, đó là nhiếp căn đệ nhất nghĩa. Có lần một đệ tử của ngoại đạo nói với Phật :
            - Thầy tôi dạy chúng tôi rằng tu pháp nhiếp căn là mắt không nhìn vật, tai không nghe tiếng.
            Phật bảo:
            - Nếu thế thì những người mù và điếc là những người tu pháp nhiếp căn của các người là bậc nhất.
            Theo sự tu tập của ngoại đạo cho chúng ta thấy hướng ngoại và miễn cưỡng chế ngự các căn, trong khi đó phương pháp nhiếp căn của Phật là hoàn toàn hướng nội và không phải ức chế các cơ quan cảm giác một cách miễn cưỡng. Như vậy, sự chế ngự cảm giác là tự tu dưỡng nội tâm, nhưng nó lại đặc biệt được thích dụng với các cơ quan nhận thức bên ngoài do đó mới có tên là nhiếp căn.
            Như vậy muốn chế ngự cảm giác điều kiện đầu tiên là sự nhiếp tâm.
B- Hướng Nội Tìm Cầu
Ðể đạt được mục đích hành trì cho hữu hiệu, việc công phu luyện tập ở giai đoạn nầy là chuyên tu nội tâm, chúng ta thử chia ba phương diện:
            - Trí
            - Ý
- Tình
01- Phương Diện Lý Trí
Trước hết hãy xem xét về phương diện lý trí. Ðứng về mặt tu dưỡng mà nói, có lẽ kiến thức phổ thông của thế gian không cần thiết lắm, bởi vì nó sẽ làm chướng ngại cho sự tu đạo, do đó đối với cái gọi là tri thức biện chứng Ðức Phật thường bác bỏ. Theo tinh thần Phật Giáo những kiến thức nầy lấy ngã chấp, năm dục làm nền tảng, mà đã có liên quan đến ngã chấp, ngã dục thì dĩ nhiên không phải là cái biết giải thoát.
Nói như vậy không có nghĩa là Ðức Phật coi thường trí thức. Thật sự Ðức Phật rất coi trọng trí thức, nhưng trí ở đây là do phán đoán giá trị của thế giới nội tâm của chúng ta một cách chính xác mà có, trong đó có sự có mặt của: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Niệm.. v..v..     
            Nhưng vấn đề được đặt ra ở đây là:
- Làm cách nào mà tu luyện được cái trí đó.
Nói một cách vắn tắc, trước hết phải làm sao cho tâm hồn tỉnh lặng, rồi bắt đầu tư duy quán sát chân tướng của cuộc đời để tìm cầu giải thoát. Trong tinh thần nầy, pháp môn Tứ Ðế và Mười Hai Nhân Duyên đều là những đề mục tu tập, đều là những công án để luyện trí quán. Trong số các đề mục đó, việc quán sát lý Tứ Ðế là sự tu trí đặc biệt cần thiết nhất, rất được coi trọng. Bởi vì tất cả chỉ là bất tịnh, không, vô thường, vô ngã. sự phán đoán giá trị của thế giới hiện thực nhờ đó mà được chính xác. Ngoài ra còn có mười niệm, mười tưởng cũng là những pháp tư duy được đặt ra cho mục đích tu trí:
a- Mười Niệm
01- Niệm Phật
      02- Niệm Pháp
      03- Niệm Tăng
      04- Niệm Giới
      05- Niệm Thí
      06- Niệm Thiện
Nghĩa là tự mình nghĩ cũng nên tu nghiệp lành trông được phước báo của cõi Trời mà tu.
07- Niệm Hưu Túc
Tức là niệm ngưng nghỉ, nghĩa là buộc lòng phải tưởng rằng mỗi lúc chẳng quên chỗ tịch tịnh là nơi tu tập chánh đạo.
08- Niệm An Bát
Tức là niệm hơi thở, thở ra thở vào
09- Niệm Thân
Là nghỉ đến cái thân mình do nhân duyên hoà hợp, rốt cuộc không thật có.
10- Niệm Tử
Nghĩa là nghĩ các căn không lâu, rốt cuộc rời cũng tan nát.
b- Mười Tưởng
01- Vô Thường Tưởng
Cái tư tưởng cho rằng chúng sanh và các pháp đều là Vô Thường, biến đổi không bền
02- Khổ Tưởng
Cái tư tưởng cho rằng các pháp hữu vi đều là khổ, hoặc chứa đựng sự khổ.
03- Vô Ngã Tưởng:
Cái tư tưởng cho rằng tất cả các pháp hữu vi đều vô ngã, không có cái thật thể thật tánh.
04- Yếm Ly Thực Tưởng
Cái tư tưởng chán lìa các thức ăn
05- Nhất Thiết Thế Gian Khả Lạc Tưởng
Cái tư tưởng không thích không vui thích mọi việc thế gian
06- Tử Tưởng
Cái tư tưởng xét đến chỗ chết, mạng người chỉ là một hơi thở thôi.
07- Ða Quá Tội Tưởng
Cái tư tưởng thấy nhiều tội lỗi trong tam giới.
08- Ly Tưởng:
Cái tư tưởng xa lìa tam giới
09- Diệt Tưởng
Cái tư tưởng dứt trừ tam giới
10- Vô Ái Tưởng
Tức là cái tư tuởng không có lòng trìu mến.
Nói tóm lại, mặt quán cái chân tướng của cuộc đời là khổ đế cho trí thức thoát khỏi vòng nô lệ của phiền não, đồng thời mặt khác, xác nhận rõ cái cảnh giới lý tưởng thanh tịnh, vi diệu, đó là ý nghĩa căn bản của sự tu luyện trí tuệ. Nhưng sự chuẩn bị quan trọng nhất để đi đến đích thì thường ở cái được gọi là: Dẫn dụ tâm. Tức là đừng để cho tâm phiền loạn vì những ý niệm xôn xao, tư tưởng rối bời và cái biết hổn tạp, mà mãi chuyên chú vào một sự kiện, cứ thế theo đà diễn tiến của tuệ quán mà những tác dụng của trí tạp nhạp bị tiêu diệt, tâm sẽ trở nên tĩnh lặng trong sáng, đó là Xả Niệm Thanh Tịnh. Ðạt được đến đây gọi là Vô Lậu Tịnh Nghiệp.
2- Phương Diện Ý Chí
Thứ đến là phương diện tu luyện ý chí. Ðứng trên lập trường tiêu cực mà nói, ý nghĩa quan trọng nhất trong việc tu đạo về phương diện nầy là sự ức chế ý dục của ngã chấp, không để cho nó phát động, nghĩa là phải điều phục ba nghiệp Thân, Miệng, Ý vì nhờ thế mà nghiệp của thân, miệng, ý mới được kiểm soát không bị buông thả.
Kế đến Tự Ngã là ông chủ của chính mình, tự ngã là nơi quy thú của chính mình, bởi thế phải khéo léo điều phục tự ngã cũng như người dạy ngựa khéo điều phục con ngựa.
Giới luật và các đề mục tu tập được Ðức Phật chế ra nhằm vào công việc chinh phục ý chí. Cho nên vì mục đích tu trí, Phật đã đánh giá rất cao đời sống tự kềm chế bản thân, Ðức Phật tuy bác bỏ khổ hạnh, nhưng để luyện ý chí, cuộc sống nghiêm túc đã được Phật đặt lên hàng đầu. Nếu ý chí của con người cho buông thả tự nhiên, thì những hành động bạo ngược tương tự như những sinh vật khác sẽ rất có thể xảy ra, sẽ chỉ hành động theo bản năng, hoàn toàn bị dục nhiểm chi phối, ngược lại nếu nó được chế ngự bằng lối sống khắc kỷ thì chính cái ý chí đó sẽ tự biến thành con đường giải thoát.
Tuy nhiên, khắc phục ý chí không phải chỉ có nghĩa là ước thúc những hoạt động của thân, tâm một cách tiêu cực mà trái lại có thể nói, chinh phục ý chí là một việc rất tích cực, nó là sự khẳng định ý dục còn mạnh hơn cả những ý dục thông thường Phật gọi là Pháp dục, tức là cứ lần lượt mong cầu tiến lên cảnh giới cao hơn, và như thế nó biến thành cái dục vĩnh viễn thường hằng.
Như thế thì sự sinh hoạt hằng ngày ở thế gian dĩ nhiên có thể ứng dụng vào phương pháp tu tập có ý thức, nghĩa là cuộc sống không ham muốn của những người xuất gia, hoặc các phật tử tu tại gia giữ năm giới, mười giới thiện, và Bồ Tát Giới cũng hoàn toàn dựa theo ý nghĩa nầy mà tôi luyện ý chí.
Ðức Phật bảo nguời phàm phu vì sự ham muốn nhỏ mọn trước mắt trói buộc mà mất tự do, còn những người tu đạo thì lấy đại dục tuyệt đối vô hạn làm mục tiêu hành trì, dẳm lên trên những ham muốn nhỏ mọn trước mắt, quyết tâm và nổ lực đi lên để tiến thẳng đến mục đích giải thoát an lạc. Ðó là nghĩa căn bản của phương pháp tu dưỡng ý chí. Bởi thế trong khi tu tập, thực tế không phải chỉ nhắm vào phương diện ức chế, mà là theo ánh sáng của trí tuệ, và tích cực phát động ý chí, dĩ nhiên đây cũng là phương pháp tu dưỡng thiết yếu. Chẳng hạn ngoài việc lánh ác ra, còn phải tích cực làm thiện, tuy không nói những lời nói ác, nhưng phải hết sức bác bỏ những điều phi lý. Do đó nếu phê phán rằng chủ trương vô dục của Phật chỉ là phương pháp tu luyện ý chí hoàn toàn có tính cách tiêu cực là điều sai lầm lớn.
Tóm lại, theo Phật sự tu dưỡng ý chí phải được thực hiện về cả hai phương diện, tích cực và tiêu cực tức là trước hết dựa vào ánh sáng trí tuệ để xác lập lý tưởng vĩnh viển, tối cao, sau đó y theo ý chí, dục vọng hiện tiền mà dần dần thuần hoá nó để tiến lên phương hướng của ý chí tuyệt đối. Dùng ý chí một cách chuyên nhất, không gián đoạn, hăng hái và bền bỉ nhắm đi tới phương hướng lý tưởng. Ðó là một trong những mục đích đã được Ðức Phật hết sức đề cao. Nhưng cái phương cách tu tập ý chí quan trọng nhất là về bề ngoài, lý sự nghiêm trì giới luật, về bề trong là năng lực thiền định tam muội. Bởi vậy muốn hướng dẫn ý chí làm cho nó phát sinh hỷ lạc chân chính, người ta không thể không dựa vào sự tu luyện thiền và giới.
3- Phương Diện Tình Cảm,
Sau hết là sự khảo sát về phương diện tình cảm. Ðức Phật nói cảm tình là khổ, cho nên mới ngăn ngừa sự sinh hoạt phóng túng tình cảm. Vì tình cảm của con người thường liên quan chặt chẻ với ý dục, ý dục được thoả mãn thì vui, không thoả mãn thì khổ, thành thử ý dục càng bị những tình cảm vui khổ ràng buộc bao nhiêu thì càng trở nên buồn khổ nhiều bấy nhiêu.
Ngay như trong những căn bản phiền não là ba nọc độc: tham, sân, si. Ít ra, tham sân cũng thuộc phạm vi tình cảm. Rồi đến cái tôi, cái của tôi, nếu đứng trên bình diện lý trí mà quan sát thì đó là một nhận thức sai lầm, nhưng chính nó cũng lại là một loại tình cảm. Cho nên người ta không còn lạ lùng khi thấy Ðức Phật chủ trương chế ngự tình cảm.
Tuy nhiên thái độ của Phật đối với thái độ tu dưỡng tình cảm cũng giống như đối với sự tu dưỡng ý chí. Nghĩa là một mặc hết sức chế ngự tình cảm, đồng thời mặc khác lại cố gắng bồi đắp những tình cảm, vì đó là sự cần thiết cho việc tu đạo chẳng hạn như việc bồi đắp những cảm tình tôn giáo, cảm tình đạo đức và cảm tình thẩm mỹ.. v...v.. vì những cảm tình căn bản của nó là lấy khổ vui mà được thành lập, nhưng khi những tình cảm ấy được tịnh hoá thì chúng siêu việt cả khổ vui. Và rồi có khả năng đi đến chỗ chuyển hoá cả ngã chấp, ngã dục, cứ nhìn vào khía cạnh nầy chúng ta cũng thấy được pháp tu dưỡng tình cảm trong đạo Phật.
a- Tình Cảm Tôn Giáo
Trước hết là hãy xét về tình cảm tôn giáo. Dĩ nhiên Phật lấy sự hiểu biết chân chính thanh tịnh và sự thực hành làm điểm then chốt cho mục đích hành trì, tu đạo. Nhưng Phật cũng bảo cần phải xa rời lý trí và tinh thần tùy thuộc vào tín nguỡng. Cho nên Ðức Phật xác định năm căn, năm tín là bước đầu của việc tu đạo. Tín ngưỡng ở đây là muốn nói đối với Tam Bảo, lấy Phật làm trung tâm, tức là trọn đời chí tâm quy y, tin tưởng một cách thuần khiết, không một mảy may hoài nghi. Khi có một niềm tin như thế thì cái chấp ngã nhỏ nhen sẽ tự tiêu diệt, và tâm không còn sợ hãi, luôn luôn được bình thản và an ổn. Ðức Phật thường bảo mọi người rằng:
- Nếu có điều gì sợ hãi các người cứ nghĩ đến Tam Bảo là sợ hãi tiêu diệt ngay.
Trong tín ngưỡng Tam Bảo, Phật Bảo là năng lực lớn nhất, vì các đệ tử Phật và những tín đồ  thuần thành đều cho Phật là sự tồn tại siêu tự nhiên. Vậy đối với Phật phát khởi lòng tin và tuyệt đối quy y Tam bảo thì có thể hòa đồng cái ta nhỏ bé của mình với cái nhân cách vĩ đại của Ðức Phật. Trong kinh Phật có dạy:
- Này các Tỳ Kheo, nếu các hữu tình trọn đời chỉ nghĩ nhớ một Pháp thôi thì ta biết chúng nhất định sẽ được quả Bất Hoàn. Một Pháp đó là  niệm Phật. Hết thảy các loài hữu tình chỉ vì không niệm Phật nên cứ phải đi lại mãi trong các ngã ác mà chịu khổ sống chết vậy.
Chỉ hành trì một Pháp niệm Phật, với tâm chí thành thôi mà cũng chứng được quả Tư Ðà Hoàn, không còn lăn lộn trong vòng sanh tử nữa. Ðó là ý của đoạn văn trích dẫn trên đây. Về sau Ðại Thừa lấy Phật A Di Ðà làm trung tâm để phát động phong trào tín ngưỡng tha lực nếu nhận xét về phương diện tư tưởng bao hàm trong phật Giáo Nguyên Thủy, thì tín ngưỡng tha lực của Ðại Thừa cũng chỉ là sự tiếp nối tư tưởng trên đây mà thôi. Tức là kết quả sẽ là lấy việc nhớ nghĩ đến nhân cách của Phật; làm nội dung của Thiền để mà tư duy rồi về phương diện khách quan thì lại lập đi nhân cách ấy là chủ thể tiếp độ chúng sanh.
b- Tình Cảm Ðạo Ðức:
            Tình cảm đạo đức cũng được Ðức Phật hết sức đề cao. Sự thành lập đạo đức có hai phương diện:
- Nói một cách tiêu cực là ở chỗ tiêu diệt ngã chấp, ngã dục, hy sinh tự kỷ.
- Nhưng nói một cách tích cực thì lại ở chỗ mở rộng lòng vô ngã coi mình và người là một thể, bất cứ nhận xét về khía cạnh nào đạo đức cũng đều là con đường giải thoát cái ta hẹp hòi.
Ðến cái phương pháp diệt trừ phiền não sân hận thì sự bồi đắp tình cảm đạo đức lại càng trở nên trọng yếu hơn nữa. Nhờ vào từ niệm nguyện cho hết thảy chúng sanh đều được tốt lành mà cái tâm bị sân hận làm nhơ bẩn sẽ được trong sạch. Ðây là lời Phật thường nói.
Hai chữ Từ Niệm mang trọn đủ ý nghĩa thương yêu. Tình thương ở đây cũng như tình thương của người mẹ hiền thương con, cảm tình của người yêu đối với tình nhân, tức là cảm tình thương yêu kẻ khác mà tuyệt đối không màng đến lợi hại. Nếu di chuyển cái tình cảm nầy sang lãnh vực Thiền Ðịnh để tư duy, thì đó là niềm ước mơ đem lòng thương yêu vô hạn rải khắp cho mọi người để hoàn thành pháp tu Tứ Vô Lượng Tâm là Từ, Bi, Hỷ, Xả:
            Từ có nghĩa là vui với cái vui của người, bi là buồn của cái buồn của người, cả hai đều là sự tu dưỡng từ bi vô lượng, đối với hết thảy chúng sinh trong khắp mọi chân trời đều để tâm đồng tình tuyệt đối, và tâm thương người tuyệt đối, nhờ thế mà gột rửa được thành kiến phân biệt mình, người một cách nhỏ nhen để đạt đến lãnh vực giải thoát. Ðối với pháp tu nầy, Phật rất quý trọng và nhiệt liệt tán dương.
            Tất cả các phúc nghiệp, nếu so với sự giải thoát do tu Tâm Từ mà đạt được, thì trong một nơi hữu tình nào đó, nếu cũng tu Tâm Từ thì phước đức đó vô biên, huống chi trong tất cả các nơi đều tu như vậy thì thế giới nầy sẽ hoà bình. Như vậy đủ thấy cái giá trị của sự giải thoát do tu tâm từ bi mà có được lớn lao vô cùng. Không những chỉ trong thời gian tu dưỡng, mà ngay cả sau khi giác ngộ rồi cái tác dụng từ tâm còn trực tiếp biểu hiện bằng hành động để cứu độ chúng sanh:
- Tình thương bao la của Phật chính là do sự tu dưỡng ấy mà có.
Cho nên nếu đổi thành tu dưỡng trong thời kỳ tu hành thì đó chính là đại thệ nguyện cứu độ vô biên chúng sinh của Bồ Tát.
            c- Phương Diện Mỹ Cảm
Sau hết nói về phương diện mỹ cảm. Nhờ cảnh đẹp thiên nhiên mà xu hướng tới đạo giải thoát cũng là một phương pháp tu dưỡng tình cảm rất rõ rệt.
            Tất cả những câu trên đây đều diễn tả sự lắng tâm thanh tịnh trước vẻ đẹp thiên nhiên mà ca tụng niềm vui tu đạo. Ðiều nầy cũng cho chúng ta thấy cái lý do cắt nghĩa tại sao Phật và đệ tử của Ngài đều lấy A Lan Nhã làm nơi tu đạo, vì chỉ có những nơi vắng vẻ và gần với thiên nhiên như thế mới giúp chúng ta lắng đọng tâm tư một cách hiện hữu nhất. Cái mỹ cảm thuần chân là con đường siêu thoát hiện tại, vì một khi đứng trước cảnh đẹp thiên nhiên, thì người ta thấy mình là một cá thể riêng biệt có thể hoà đồng với thiên nhiên, và đó là một hoàn cảnh thích hợp nhất để khám phá cái ta nhỏ bé của mình. Về sau ngành mỹ thuật Phật Giáo rất phát đạt, thật ra cũng không ngoài việc kết hợp với tôn giáo để ứng dụng mỹ cảm vào việc tu đạo, nhất là tại Trung Quốc và Nhật Bản các nhà Thiền Học phần nhiều đều đắm mình vào cảnh trời mây non nước mà tu luyện thiền quán.
            Như vậy chúng ta thấy những phương diện của tâm ứng dụng vào mục đích hành trì là để đạt đến quả vị giải thoát đều mang một mầu sắc và đặc thù của riêng nó. Tuy nhiên, đây không phải là cách phân loại toàn diện của mục đích hành trì, mà ngoài ra còn có nhiều phương thức hành trì khác để đạt tới kết quả là tự thân chứng nghiệm vào trạng thái Niết Bàn an lạc. Trong phạm vi nhỏ của bài pháp hôm nay chúng tôi, thử gợi ý những phương pháp mới để gọi là một chút đóng góp trong việc hành trì
Nhận xét chung theo các phương diện vừa trình bày, chúng ta thấy khi tu đạo thực tế, đạo phẩm nào cũng là phương pháp tu luyện toàn thể tâm. Nếu nhận xét ở một phương diện khác thì tùy theo căn cơ bất đồng của những người tu đạo mà cái phương pháp tu đạo cũng lại khác nhau, tức là có phương pháp chuyên đặc nặng ở lý trí, có những cách chuyên đặc nặng về tình cảm.. v.. v... Do đó khi đạt tới quả vị giải thoát thì đại khái tuy là một, nhưng cái phương cách thì không giống nhau, cho nên cũng là danh từ biểu thị giải thoát mà có tâm giải thoát, tuệ giải thoát, từ tâm giải thoát và tín giải thoát ..v ..v...
Về sau đến đại thừa Phật Giáo có người chuyên chú trọng vào việc tu luyện ý chí, như phương pháp tu đạo Thiền Tôn, có người chú trọng về Mật Tôn, có người chuyên tu về Tịnh Ðộ Tôn, nhưng mục đích của sự hành trì, tu tập theo tinh thần Phật Giáo cuối cùng cũng hướng tới kết quả là giác ngộ và giải thoát.
 
            Tài Liệu Tham Khảo
            - Thanh Tịnh Ðạo
            - Phật Học Phổ Thông
            - Phật Học Tinh Hoa
            - Nẻo Vào Thiền Học
            - Con Ðường Chuyển Hóa
-- o0o --