-
Khổ Nhưng Mà Vui
-
Bài thuyết pháp tại Chùa Dược Sư
-
Diệu Anh Ghi
-
--o0o--
-
-
Hôm nay là ngày 05 tháng 04 năm 2003
-
Bài pháp hôm nay, để trợ duyên cho những ai muốn hướng đời
mình về nẻo giác, chúng tôi xin được giới thiệu đến đại chúng
bài pháp: Khổ Nhưng Mà Vui.
-
Chúng tôi xin đọc bài thơ không rõ xuất xứ cho đại chúng nghe:
-
-
Thế sự đua nhau nói khổ vui
-
Có chi là khổ có chi vui
-
Vui trong tham dục vui rồi khổ
-
Khổ để tu hành khổ hóa vui
-
Nếu biết có vui rồi có khổ
-
Thà rằng đừng khổ cũng đừng vui
-
Mong sao giữ mãi đừng vui khổ
-
Mới thoát ra ngoài cái khổ vui
-
Hôm nay chủ đề: Khổ Nhưng Mà Vui được thu gọn trong hai câu:
-
-
Vui trong tham dục vui rồi khổ
-
Khổ để tu hành, khổ hóa vui.
-
Trước tiên là nói đến những trạng thái:
-
01- Vui Trong Tham Dục Vui Rồi Khổ
-
Quan niệm về Khổ, Ðức Phật thường dạy:
-
-
Ðời là biển khổ.
-
Và Ðức Phật đã khẳng định rằng đời người có những cái khổ:
-
01- Khổ của việc sanh ra(sanh khổ),
-
02- khổ của già suy(lão khổ),
-
03- Khổ lúc gặp bịnh
-
04- Khổ của lúc chết mất(tử khổ),
-
05- Khổ lúc gặp người mình oán hờn(oán tắng hội khổ),
-
06- Khổ lúc cùng người yêu thương chia rời (ái biệt ly khổ)
-
07- Khổ vì sự vật muốn được ngược lại không thể đến tay (cầu
bất đắc khổ)...
-
Quả thật, đời là biển khổ, khổ nhiều vui ít, người nghèo thì
chắc chắn khổ rồi, nhưng người giàu cũng khổ. Lúc bận rộn khổ,
và ngay cả lúc nhàn rỗi cũng khổ. Khổ mỗi hình thái, mỗi việc,
mổi loại khác nhau và rất nhiều trong cuộc sống hàng ngày
trong xã hội loài người. Khổ của sinh, lão, bệnh, tử trên nhục
thể. Khổ trên tinh thần từng loại từng món. Tuy nhiên vì không
biết nên con người lấy khổ làm vui và đã trở thành thói quen,
cho nên cho đó là việc bình thường. Khổ vui do nơi quan niệm
sống của mỗi người không đồng, do đó đối với sự nhận biết và
các thứ lớp của bản chất khổ vui, mỗi việc cũng khác nhau.
Theo thông thường người đời phần nhiều lấy dục lạc của năm căn
làm vui, rồi nhân đó mà truy cầu tìm kiếm những cảm giác khoái
lạc, vui vẻ, rồi cũng từ nơi cái gọi là khoái lạc, vui vẻ đó
mà dẫn đến khổ đau tuyệt vọng.
-
Tóm lại trong kiếp sống con người, khổ đau và vui vẻ nương
nhau mà thành. Khổ là trạng thái mà người đời ai cũng sợ, cũng
nhàm chán, nhưng người đời rốt cuộc không tránh khỏi khổ đau.
Vui, là chỗ tìm cầu của người đời, nhưng cái vui mà mọi người
tìm cầu lại không tồn tại lâu dài, ngược lại nó lại quá ít ỏi
và ngắn ngủi, tạm bợ nhưng chúng ta cứ mãi muốn, tìm cầu bỏ
khổ tìm vui. Ðây là nguyên nhân do cái nhìn của mỗi người có
chỗ không đồng. Người đời cảm thọ khổ và vui chẳng qua là căn
cứ trên sự thuận và nghịch của thân tâm, tổn hại hay ích lợi
mà nói, tuy nhiên y cứ theo cái nhìn của người học Phật. Khổ
mà người đời nói, là cái khổ thật sự. Nhưng nói là vui, ngược
lại chưa chắc là thật vui. Thế nhưng có người thường nói:
-
-
Tôi muốn tìm vui.
-
Rồi tìm cầu cả một đời, lao mình vào cờ bạc rượu chè, ăn chơi
trác táng để thú vui đó là cái vui của dục lạc, của năm căn.
Chúng ta là người học Phật phải thực tập ghi nhận:
-
-
Khổ chơn thật là khổ, vui chơn thật là vui,
-
Có ghi nhận chính xác như vậy, để rồi chúng ta mới có thể sanh
khởi niệm yêu thích, và qui hướng về với chánh pháp để tìm
nguồn vui vĩnh cửu. Khi ghi nhận cái khổ một cách vững chải
thì chúng ta cần phải thoát ly, từ bỏ cái khổ thế gian, xa lìa
luân hồi ở ba cõi sáu đường, để cầu vui giải thoát. Ðây là sự
nổ lực và nhận thức chân chính nên có của người học Phật. Ðây
cũng chính là mục đích chính của Ðức Phật xuất hiện ở thế
gian, để đẫn chúng ta lấy việc lìa khổ đau của cuộc đời, để
tìm niềm vui chân chánh giải thoát làm tiền đề của Phật pháp.
Phật pháp là phương pháp đứng trên căn bản hướng dẫn chúng ta,
và có thể dẹp trừ khổ đau, để thành tựu được an lạc chân thật.
Chỉ có tu trì Phật Pháp, tín thọ phụng hành, hành trì không
gián đoạn, tự nhiên sẽ đạt được sự đầy đủ và vui vẻ sống một
cuộc sống thảnh thơi.
-
Tóm lại, khổ về các loại, các dạng rất nhiều, như không an,
không vui vẻ cũng là khổ! Như có lần chúng tôi đã nói, con
người ở trên đường đời, cứ mài miệt tìm niềm vui trong tham
dục, cho nên không thể nào thỏa mãn được, điều này giống như
người ăn một viên thuốc hoàn liên, lăn áo đường ở bên ngoài.
Vì bên ngoài bọc đường nên bên ngoài thì ngọt, nhưng bên trong
thì đắng. Phật pháp chỉ ra mấy cái khổ này, để giúp chúng ta
nhận thức được rằng cái khổ đó không phải người khác đem đến
cho chúng ta, mà là tự chúng ta không rõ thị phi, rồi mờ mắt
tìm cầu, gom góp những tham ái, vướng mắc vỡ vụn trong cuộc
đời để làm gia tài cho mình, thì tất nhiên quả khổ do tự chúng
ta tạo ra chớ không ai có thể cho chúng ta cả.
-
Phải ý thức rằng, đời người không có sự nhẹ nhàng và thoải mái
tuyệt đối, cũng không có sự thống khổ và phiền não vĩnh hằng,
người đời nhân nơi khổ mà tìm cầu vui, ngược lại nhân nơi vui
mà dẫn đến khổ đau. Ðời người gặp gỡ thường xuyên là vui vẻ ít
mà buồn đau thì nhiều, lý do khổ não của đời người vô cùng, vô
tận. Người có trí tuệ, trước khi làm một việc, phải hiểu rõ
trước, sau khi hiểu rõ, mới khẳng định sự việc nào nên làm và
sự việc nào không nên làm. Có như vậy khi bắt tay vào việc thì
chúng sẽ không có một chút e dè lo sợ. Nhất là người học Phật
đối với mọi người, công việc cứ y trên đạo đức mà làm, y cứ
trên trí tuệ mà xử lý tất cả công việc. Thái độ này cũng là
chỗ chú trọng của Phật Giáo, cho nên Phật Giáo luôn luôn
khuyến khích tín đồ làm bất cứ một việc làm gì cũng đều dựa
trên:
-
-
Trí Tín
-
Trí tín tức là niềm tin dựa trên lý trí, không phải là mờ mắt
dùng cảm tình mà tin. Lý do, trước khi chúng ta làm việc gì,
thì chúng ta, cần phải hiểu rõ. Sự tu học cũng vậy, khi chúng
ta bắt tay vào việc thực hành thì chúng ta phải hiểu vì sao
chúng ta cần phải tu hành. Phật giáo lấy đời sống thực tế của
con người làm tiêu chuẩn, để ý thức được khổ như: Sanh Khổ,
Bệnh Khổ, Lão Khổ, Tử Khổ, Cầu Bất Ðắc Khổ... Tóm lại, trong
một đời người đầy đủ các loại dạng khổ! Nói như thế sẽ có
người sẽ phản đối, hiện tại ta đang cảm thọ được rất vui vẻ,
sự vui vẻ như thế này thì làm sao gọi là khổ. Kỳ thật kiến
giải của người đời phần nhiều có sai lệch. Bởi vì đối với
chúng ta cho là vui, nhưng trong con mắt người có trí tuệ
nhìn, tức chính là khổ! Sau khi vui vẻ qua đi, khổ sẽ đến. Vì
vui và khổ nối nhau mà đến, cũng như ban ngày và ban đêm, sau
khi ngày qua đi đêm tối sẽ đến. Do đó, đời người là khổ, xác
thật và không thể phủ nhận. Vậy thì chúng ta phải làm như thế
nào để thoát ly được khổ, đó chính là việc gấp rút trước tiên
con người chúng ta phải làm.
-
Cần phải làm thế nào để thoát ly đau khổ, đây là điều mà mọi
người đang suy tư. Thật sự điều này không có lạ khi chúng ta
giữ tâm yên tịnh, chúng ta sẽ thấy lời Ðức Phật ở trong bốn
Thánh Ðế đã dạy rằng:
-
-
Khổ do Tập mà có.
-
Tập chính là ý tứ các món phiền não, hoặc và nghiệp; do nơi
nghiệp con người mới có khổ. Nghiệp tuy là vô hình, nhìn không
thấy, rờ không được, ngược lại là chủ tể của con người. Muốn
tiêu diệt khổ thì phải đoạn trừ nguyên nhân của nó. Muốn đoạn
trừ nguyên nhân thì không nên tạo nghiệp, không có nghiệp thì
không có nguyên nhân sanh ra khổ. Nghiệp là hành vi của chúng
ta làm nên một cá nhân. Thân tâm không thể không có hoạt động,
có hoạt động rồi thì có hành vi, có hành vi rồi thì có nghiệp.
Sở dĩ nói không tạo nghiệp ở đây là muốn nói đến việc không
làm ác nghiệp, nghĩa là những gì không liên quan đến thiện
nghiệp thì không làm. Vì không tạo ác nghiệp, hành thiện là
điều tất yếu. Chúng ta hy vọng hành vi chính mình là hành vi
thiện. Tiến đến có thể làm được điều không tạo ác nghiệp, đối
với thiện nghiệp cũng không chấp trước. Như vậy thì có thể lần
lượt thoát ly khổ. Căn cứ Phật pháp mà nói:
-
-
Giải thoát phiền não, trong tâm thanh tịnh, an tường, tự tại,
tinh thần thoải mái, tương lai có khả năng thoát khỏi sinh tử.
-
Phật pháp dạy con người cần phải dùng nhãn quan trí tuệ mà xem
tình đời. Với con mắt của người trí tuệ thì phú quý như khói
mây qua nơi mắt, dùng tâm tri túc để lấy và bỏ muôn vật, tâm
thanh tịnh này không bị sự trói buộc của vật bên ngoài. Ðây là
dùng tâm tùy duyên hành xử với thuận và nghịch cảnh. Tâm địa
tự bình ổn thì không bi lụy đối với vật bên ngoài. Nếu chúng
ta y cứ theo đây mà chí thành tu hành, thì có thể đạt được
niềm vui lớn Niết bàn. Có thể nói chỉ cần nương nơi Phật Pháp
tu hành, sửa đổi hành vi không tốt đẹp của chúng ta. Trong
hành vi của chúng ta không tạo nhân khổ, mà đối với việc thiện
lại không chấp trước, hơn nữa thiện ác không lập, trong tâm
không có nghiệp, tự tánh thanh tịnh hiện tiền, thì khổ lập tức
tiêu mất. Thực hành được như vậy mới gọi là cứu cánh. Như vậy
trong công cuộc sửa đổi hành vi, thì từ ngữ tu hành là mỗi một
người quyết định dứt khoát chuyên cần theo đường hướng thiện
do chính mình vạch ra, rồi tự mình khởi tâm tưởng xa lìa đau
khổ để được an vui , cái niềm vui chân thật chứ không phải
niềm vui giả tạm.
-
Có xác định tính trọng yếu của vấn đề tu hành, thì sự tu học
của chúng ta mới tiến bộ. Có xác định tính trọng yếu của vấn
đề tu hành thì chúng ta mới có can đảm chấp nhận:
-
-
Ðời người là khổ.
-
Khổ không phải do tạo hóa, người đời đem đến cho chúng ta mà
do nơi chính chúng ta, nghĩa là sau khi tạo nghiệp thành thì
chúng ta do nghiệp cảm báo mà có. Vì con người không nhận chân
được sự khổ đau nên cứ mãi tạo các nhân ác, nhóm các nghiệp ác
cho nên mới cảm thọ quả khổ. Mỗi cá nhân đều không thích khổ,
nhưng lại cứ đi tìm khổ đó là cái bệnh của chúng sanh, để rồi
theo nghiệp trôi chảy mà chịu quả báo, do đó mới có sáu nẻo
luân hồi sanh tử tử sanh, trôi nổi nơi ba cõi, vĩnh viễn không
có kỳ hạn.
-
Truy cứu nguồn cội của khổ là do niệm không giác ngộ là đầu
của tai họa, cho nên cần phải dứt khổ, thoát khổ, cần phải đem
niệm không giác ngộ mà chặt đứt hoàn toàn, chuyển niệm không
giác ngộ này thành tỉnh thức mới được. Như vậy thì làm thế nào
để chúng ta chuyển niệm không giác ngộ thành niệm tỉnh thức,
đây là điểm then chốt để chúng ta giải quyết. Kỳ thật, niệm
không giác ngộ là niệm tưởng hư vọng. Ðứng trên bản thể mà
nhìn, cội gốc của thất niệm không tồn tại, nhưng đối với chúng
sinh mới hiểu và chưa hiểu mà nói, do ở chổ không xa lìa khỏi
hư vọng, thì sẽ dẫn đến thất niệm. Cũng như trong hư không vốn
không có bông hoa, mà cái tai hại là do có người bệnh loạn
thị, nên thấy trong hư không đầy tràn bông hoa. Khi mà bệnh
hoạn chưa tiêu trừ, chúng ta có nói với người loạn thị trong
hư không không có bông hoa trăm ngàn lần, thì cũng không thể
khiến người ấy tin được. Muốn cho người ấy tin, trước tiên
chúng ta cần phải trị bệnh cho con mắt của người ấy, sau đó
bệnh tiêu thì tướng huyễn mới được trừ. Cũng vậy, muốn hướng
dẫn những con người lầm đường lạc lối, chúng ta cần phải có
phương pháp, có khả năng khiến giúp cho chúng sinh thoát ly hư
vọng, khi trong tâm không có vọng niệm làm chướng ngại, thì
tâm tu sẽ sáng suốt Chánh niệm là Chơn Tâm, từ trước về sau,
mới có thể thấy được gốc của thất niệm không tồn tại. Ðiểm này
tương tự như bầu trời mây tiêu, sương tan, ánh sáng mặt trời
sẽ hiện ra. Làm được như thế chính là chúng ta đã chuyển vô
minh thành chánh niệm, chánh niệm có mặt thì chúng ta hoàn
toàn thoát ly khổ. Vì vậy chúng ta cần phải thoát ly hư vọng
trước.
-
Phải biết rằng, hư vọng từ tâm mà sinh ra, do ở nơi tâm vô
chủ, mất đi sự khống chế, cho nên vọng tưởng lăng xăng. Từ xưa
đến nay sản sinh ra vọng tưởng là tác dụng của tâm thể, đây là
lẽ thường không phải là việc xấu, vấn đề đáng ghi nhận là vì
trong tâm không chủ, không có khả năng tác dụng khống chế,
việc đáng nên làm thì làm, đáng nên dừng thì dừng lại. Ở nơi
vọng tưởng hỗn loạn không thể đình chỉ được, không những
chướng ngại đối với chính mình, mà còn khiến cho tâm mất đi
công năng hành xử tốt đẹp đối với những người chung quanh
chúng ta.
-
Ðức Phật thường dạy:
-
-
Tâm là chủ của con người cho đến tất cả,
-
Do đó khi chúng ta nhận thức rõ tâm của chúng ta, là đời của
chúng ta đã có người hướng dẫn, có một vị Thầy khả kính. Từ sự
nhận thức về tâm, chúng ta cũng sẽ biết được nguyên nhân tâm
mất đi sự mẫu mực ở chỗ nào, thì chúng ta sẽ đem chỗ mất mẫu
mực đó ra điều chỉnh sửa đổi, thì tâm sẽ trở nên bình thường,
nghĩa là hồi phục hoạt động và những gì mà chúng ta có từ
trước. Lúc dó chúng ta sẽ ghi nhận: Tâm của chúng ta lúc này
và cái tâm của ngày trước tuy là một cái tâm, nhưng không
đồng; do đó theo quan điểm Thiền tông mà nói thì:
-
-
Người khai ngộ không khác với con người cũ, nhưng khác hành vi
của con người cũ.
-
Quả thật như vậy, tâm lúc này là tâm chân chánh thường hằng,
tâm lúc nầy là tâm biết được việc đáng nên làm thì làm, đáng
nên dừng thì dừng, hoàn toàn có thể làm chủ. Ðối ở việc tiếp
xúc được tất cả, nó đều rõ ràng trong sáng, tuyệt không thể bị
dối lừa; nó biết thế nào nên làm, làm việc đáng làm, không thể
làm sai lầm, cho nên sẽ không đau khổ, khi biết sâu xa qua các
hoạt động, trong khi chúng ta có thể làm chủ cho chính mình.
Do đó tiêu trừ tưởng niệm hư vọng trong tâm, vọng tưởng tiêu
trừ thì chuyển niệm bất giác thành giác ngộ.
-
02- Khổ Ðể Tu Hành, Khổ Hóa Vui
-
Muốn được như vậy thì chỉ có con đường duy nhất phải dùng
phương pháp tu tập, tức là trì tụng một pháp ở trong tâm không
gián đoạn. Một trong các pháp đó là:
-
-
Kinh giáo,
-
-
Tham thiền, chỉ quán, quán tưởng,
-
-
Trì chú,
-
-
Niệm Phật,...
-
Nghĩa là lấy nhất niệm thống suất vạn niệm, làm cho niệm này
cũng xả đi, như vậy, trong tâm lại hoàn toàn thoát ly hư vọng.
Vọng niệm không còn thì lúc bây giờ trong tâm chỉ là ý nghĩ và
việc làm thuần lương, thiện căn sâu dày, ý chí kiên cường sẽ
không khó; nhưng đối với con người đại đa số nói thì dễ, nhưng
làm thì không phải là dễ. Nói dễ mà làm thì khó là vì người
đời cho rằng tu hành là khổ, nên không có được bao nhiêu người
chịu dấn thân thực hành, nhưng chúng ta đâu biết rằng có chịu
khổ rèn luyện thân tâm, thì chúng ta mới có khả năng vuợt qua
mọi phong ba bảo tố thử thách trên đường đời, cho nên nói:
-
- Khổ để tu hành, khổ hóa vui
-
Xin xác nhận rằng là khổ vui, cũng không thật có, mà là do vì
tập khí, nhiều năm cho đến nhiều đời trở lại, đều là tập quán
đối với tâm mà sinh ra niệm tưởng hư vọng mà có. Tương tự như
một con ngựa hoang lưu lạc, một lúc nào đó bắt về nuôi dưỡng ở
trong nhà, thì làm sao có thể dứt được thói quen, trừ khi chủ
nhân là người có năng lực thuần phục cực lớn, có thể chế phục
tánh hoang của nó. Tu hành cũng như vậy, những thành tựu chắc
chắn phải do chính chúng ta mới có thể khắc phục được tập khí
và có thể thành tựu tuy rằng có vất vả, do đó mà niệm tu là
cần thiết. Lẽ tất nhiên cần phải biết phối hợp giữa sinh hoạt
thường ngày và công tác tu hành, và phải theo suốt thời gian
dài, từng bước từng bước bỏ đi tập khí, sửa đổi lỗi lầm, thì
những hành vi của chúng ta trở nên thuần nhất, tu trì mới dễ
thành tựu. Tuy nhiên trong lúc chúng ta chưa thành tựu đạo
nghiệp, để có được những niềm vui khích lệ, thì việc không tạo
nghiệp, không cảm thọ quả khổ thì đời người của chúng ta cũng
sẽ an lạc rất nhiều rồi.
-
Như thế vấn đề chính là phải biết tu chính hành vi hư xấu của
chúng ta. Hành vi của chúng ta bao quát cả hai phương diện:
Hữu hình và vô hình; cũng tức là ba nghiệp: Thân, Miệng, Ý.
Thực tập chánh niệm chính là tu chính lại hành vi hư hoại từ
nơi Thân, Miệng, Ý của chúng ta. Bởi vì hành vi của con người,
có những lúc hoặc cố ý, hoặc vô tình làm tổn thương và hại
người khác hoặc sinh linh khác, trong vô hình cũng tổn hại
chính mình, khiến tự mình và người khác đều cảm thọ thống khổ.
Những hành vi này tức là ác nghiệp. Cho dù là những hành vi đó
còn tiềm ẩn trong Thân, Miệng, Ý của chúng ta nhưng vẫn coi
như là nghiệp ác. Tóm lại, phàm là những hành vi làm tổn
thương đến chúng sinh thì là ác, quyết cần phải hơn thế nữa để
tu chánh. Có thể tu được Thân, Miệng, Ý nghiệp đều không ác,
thì thân tâm của chúng ta sẽ thanh tịnh an lạc, khi mà tình
huống ở thân tâm yên ổn rồi, thì vọng niệm lại ít hơn. Nếu như
có thể tiến đến trạng thái niệm niệm đều là thiện, và thân
hành cũng ở nơi thiện, miệng nói cũng nói điều thiện, ý tưởng
ở nơi thiện, thì việc mà chúng ta gọi là tu hành, đã tiến đến
tu trì rồi. Ðạt đến mức tu trì, có nghĩa là chúng ta đã đem
các món tập khí bất lương cải chánh lỗi lầm, tâm của chúng ta
sẽ thuần nhất, chướng ngại cũng sẽ giảm thiểu hoặc tiêu trừ.
Nếu trong lúc nầy mỗi niệm, mỗi niệm của chúng ta không gián
đoạn niệm danh hiệu: Nam mô A Di Ðà Phật, vọng tưởng tạp niệm
giảm thiểu hoặc tiêu trừ, muôn duyên thế tục buông đi, thì
việc vãng sanh về thế giới Cực Lạc Tây Phương chắc chắn không
có gì trở ngại.
|