Ý Niệm Về Mùa Xuân
Nhất Quán
--o0o--
 
Nói đến Mùa Xuân, mỗi người chúng ai cũng hiểu theo quan niệm Xuân đến Hạ đi, Thu mãn, Ðông tàn, cứ như thế mà thời gian liên tục xoay vần, hết năm nầy sang năm khác. Theo Dương Lịch, căn cứ vào thời tiết, thì Mùa Xuân bắt đầu vào ngày 20 tháng 03 và chấm dứt vào ngày 20 tháng 06. Đây là thời gian hết Mùa Đông tại Âu Châu và Mỹ Châu, khí hậu ấm áp trở lại, trong khi đó theo Âm Lịch thì mùa Xuân bắt đầu ngày mồng một tháng Giêng và chấm dứt vào cuối tháng Ba. Mùa Xuân được coi như là mở đầu cho một năm mới rồi chuyển sang mùa Hạ, mùa Thu rồi mùa Ðông. Vì vậy cho nên buổi sáng đầu tiên của Mùa Xuân đánh dấu cho chu kỳ mới bắt đầu. Những dân tộc cùng chia xẻ Âm Lịch tức là theo sự vận hành của mặt trăng, nhất là dân tộc Việt Nam, mọi người ăn mừng Tân Niên rất là long trọng, gọi là Tết Nguyên Ðán.
Mùa Xuân được coi như là tốt đẹp nhất, vì khí hậu ấm áp, cảnh vật xinh tươi, cho nên các văn nhân, thi sĩ thường viết văn, làm thơ ca tụng mùa Xuân với những đề tài phong phú như là:
- Hội mùa Xuân
- Nắng Xuân
- Vui xuân
- Xuân miên viễn,
- Xuân trường thọ
- Xuân mới ...
Nghĩa là tùy ý, mỗi người đều có một quan niệm về Mùa Xuân, nhưng nếu hiểu nghĩa Xuân là cái gì tốt đẹp, đầm ấm vui tươi thì hiện thời ít có người tìm thấy, nhất là đối với những ai đang sống đời sống quá khổ, bi đát, với cuộc đời không hy vọng ở tương lai, thì làm gì còn hứng thú mà chờ đợi mùa Xuân, vì thế mà Chế Lan Viên, một thi sĩ đã từng sống tại Bắc Việt than thở:
- Tôi có chờ đâu có đợi đâu
Ai đem Xuân đến gợi thêm sầu
Với tôi tất cả đều vô nghĩa
Tất cả không ngoài lẽ khổ đau.
Ðó là nói đến những đồng bào sống trong quốc nội, tuy nhiên đối với người Việt Nam tạm dung tại Hải Ngoại, quả thật nếu so sánh với đồng bào quốc nội thì cuộc sống tại Hải Ngoại đúng là thiên đàng của vật chất, nhưng nếu muốn tìm hương vị Xuân Quê Hương, với xóm làng sau lũy tre xanh, với chậu cúc, cành đào, câu đối đỏ thì quả thật hơi khó. Tuy nhiên điều cũng đáng khích lệ, tuy rằng Tết Âm Lịch nhằm vào Mùa Đông Tây Lịch, trời còn rất lạnh, nhất tại Hoa Kỳ nhiều tiểu bang tuyết trắng khắp nơi, cây cối xác xơ trơ trụi. Người ngoại quốc lẽ tất nhiên không biết Tân Xuân là gì, nhưng đối với truyền thống lâu đời của người Việt Nam chúng ta, tuy rằng có người cũng phải đi làm, kẻ cũng phải đi học. Nhưng vì truyền thống tập tục, nên đại đa số, nếu là con Chiên thì về Nhà Thờ, nếu là Phật Tử thì sắp xếp thời giờ để về Chùa đón Giao Thừa, mừng Xuân, du Xuân vào ngày đầu năm, hoặc hành hương Thập Tự vào những dịp cuối tuần...
Tóm lại, chúng ta dù ở đâu và trong hoàn cảnh nào đi nữa cũng có thể đón Xuân, tùy theo hoàn cảnh giàu nghèo, sang hèn. Đi xa hơn nữa, có người nếu tìm Xuân bên ngoài không thấy, chúng ta hãy thử tìm bên trong, quay trở lại nội tâm, vì Xuân là cảm xúc, Xuân là rung động tâm hồn. Đặc biệt nhất là đối với những người tin theo Đạo Phật có thể tìm Xuân trong đạo vị, khi hiểu được ý nghĩa câu kinh, bài kệ hoặc trong hành động từ bi, vô ngã lợi tha, hoặc trong sự rung động tâm hồn hòa nhập với thánh hiền, cảm thông với vũ trụ thiên nhiên nhiệm màu, và sống đúng theo lý vô ngã như Ngài Mãn Giác Thiền Sư, vào đời nhà Lý đã nói lên luật Vô Thường biến dịch:
- Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận
Ðình tiền tạc dạ nhất chi mai 
Nghĩa là:
- Xuân đã qua thời tiết đổi thay
Trăm hoa tàn úa rụng rơi đầy
Ðịnh luật tuần hoàn hoàn luân lưu mãi
Rồi lại Xuân về trăm hoa khai.
            Kiếp người ngắn ngủi với thời gian
            Trẻ đi già đến thật ngỡ ngàng
            Ðừmg tương Xuân tàn hoa rụng hết
            Ðêm qua mai nơ trước hành lang.
            Quả thật, với định định luật vô thường, nên Xuân đến rồi đi, hoa nở rồi tàn, cái gì rồi cũng đổi thay, cũng vô thường. Trên đời không cảnh vật nào được coi là trường tồn vĩnh cửu. Chỉ có chân tâm là thường còn, đạo vị bất diệt. Nói đến đạo vị là chúng ta phải liên tưởng đến chư vị Thiền Sư. Khi nói đến những vị Thiền Sư đắc đạo thì chúng ta phải biết rằng, các ngài lại có một cái nhìn hết sức đặc biệt để lý giải cho kiếp người và cuộc đời, và đồng thời cũng giúp niềm tự tin của chúng ta được vững chãi để chúng ta có thể đối diện với mọi nghịch cảnh trong cuộc đời, nhất là trong cuộc sống hiện tại. Có đối diện với thực tại, mới thấy thực tại là một phương thuốc mầu nhiệm, một thứ năng lượng cần thiết cho cuộc sống của chúng ta có được thảnh thơi và an lạc.
Trong chiều hướng nầy, mời đại chúng nghe mẫu chuyện đối thoại của Thiền Sư Chân Không, một vị cao tăng đắc đạo vào giữa triều đại nhà Lý. Một hôm có một vị thiền khách đến hỏi ngài:
            - Bạch Hòa Thượng, khi sắc thân bại hoại thì thế nào?
            Ngay khi đó Ngài trả lời câu hỏi bằng hai câu thơ:
            - Xuân đến Xuân đi ngờ Xuân hết
            Hoa nơ hoa tàn chỉ là Xuân.
            Như chúng ta đã biết, theo quan niệm của nhân thế về mùa Xuân là lúc khí trời ấm áp, cây cối đâm chồi nẩy lộc, hoa nở bướm bay, muôn hương ngàn sắc. Mùa Xuân còn là mùa của tuổi trẻ, mùa của tươi mát và thơ mộng... rồi khí trời oi bức, nóng nực là mùa Hạ đến... Nghĩa là chúng ta thấy Xuân là một trong bốn mùa theo sự vận chuyển của vũ trụ. Vì thế nên khi thấy hoa mai nở, thì cho đó là Xuân, khi hoa tàn thì cho đó là Xuân hết.
Trên thực tế quả thật có sự thay đổi của vũ trụ theo sự nhịp đời chuyển vận, có những lúc hoa mai nở, và mùa Xuân đến, nhưng không phải là mùa xuân của tuổi trẻ và thơ mộng như mọi người đã tưởng mà vẫn có những hoàn cảnh, những con người cười ra nước mắt, nên đâu có thời giờ mà hưởng mùa Xuân. Lại càng không có thời giờ để có được những giây phút ấm êm hạnh phúc.
Nhưng đối với các vị Thiền Sư đắc đạo, các Ngài là những con người đã vượt ra ngoài sự chi phối của thời gian, nên trong lòng luôn luôn lúc nào cũng tràn đầy niềm yêu thương. Ðến với chúng sanh vạn lọai thì chỉ một tâm niệm duy nhất là cứu khổ ban vui, nên các Ngài nhìn đến bất cứ một đối tượng nào cũng đẹp, đến với một chúng sanh nào cũng thấy dễ thương, các ngài đem niềm tin yêu đến cho mọi người mà không cần biết là thân hay thù, nghĩa là khi bất cứ một chúng sanh nào cần thì các Ngài đến, không cần thì các Ngài đi. Vì thế trong lòng của các Ngài lúc nào cũng vui tươi, trẻ thơ và thơ mộng, cho nên quan niệm mùa Xuân không phải chỉ có ba tháng, mà là mùa Xuân vĩnh cửu, với cái nhìn của một người đã thoát ra ngoài sự chi phối của thời gian. Nên khi một vị thiền khách hỏi:
- Bạch Hòa Thượng, khi sắc thân bại hoại thì thế nào?
Ngài trả lời câu hỏi bằng hai câu thơ:
            - Xuân đến Xuân đi ngờ Xuân hết
            Hoa nơ hoa tàn chỉ là Xuân.
Ðiều nầy ngài muốn dạy chúng ta rằng:
- Hoa nở rồi tàn, sắc thân chúng ta cũng như hoa. Chúng ta sinh ra rồi cũng già chết, không có lâu bền. Nhưng trong cái tàn hoại đó, vẫn có một cái gì mãi mãi còn, mãi mãi an lành. Vì thế nên ngài mượn Xuân để tiêu biểu, tượng trưng cho cái mãi mãi còn đó.
Ngài cũng muốn nhấn mạnh rằng, nếu chúng ta biết trở về cái chân thật của mình, và ý thức được rằng thân nầy còn hay mất tất cả chỉ là tạm bợ. Ðiểm quan trọng là cái chân thật lúc nào cũng thanh tịnh, sáng suốt, trong kinh gọi đó là pháp thân. Pháp thân thanh tịnh miên viễn không tàn hoại theo thời gian năm tháng.
Chúng ta biết rằng tất cả mọi sự vật trên đời nầy đều theo thời gian năm tháng chi phối, có đó rồi tàn hoại. Thân chúng ta cũng vậy, cũng theo thời gian mà tàn hoại. Nếu chúng ta không biết trở về với thể chân thật của chính mình thì khi sắc thân tan hoại chúng ta sẽ đau khổ. Thế nên sống với bản thể chân thật không sinh không diệt thì ngày nào cũng là xuân, lúc nào cũng là mùa Xuân.
Trong cuộc sống hiện tại không có gì kích động chúng ta bằng cơn lũ vô thường xảy đến. Chúng ta đang sống bình an, chợt thấy một người nào đó tắc thở chúng ta chợt tỉnh ngay, nhưng sau đó lại mê trở lại như cũ. Vì vậy chúng ta cứ lảng vảng trên con đường mê không biết tỉnh giác, nên chúng ta không làm được những điều lành tốt đẹp để tạo sự an lạc cho đời nầy và đời sau. Giữa hai con đường đau khổ và an lạc, nếu chúng ta phải lựa chọn, thì chắc chắc chúng ta lựa chọn con đường an lạc và hạnh phúc.
Nếu mà chúng ta sáng suốt lựa chọn con đường hạnh phúc, thì chúng ta là người đã có duyên lành từ đời kiếp trước, cho nên bây giờ mới chọn con đường đẹp đẻ nầy, một con đường thênh thang, tươi mát và an lạc. Nói vậy, như có vẻ chúng ta chủ quan, nhưng thật sự nếu tất cả chúng ta đều hướng một lòng về sự tu hành, đi theo con đường Ðức Phật đã dạy, thì mỗi bước của chúng ta đi là một bước an lành, mỗi một bước của chúng ta đi sẽ làm là rơi rụng không biết bao nhiêu phiền não đau khổ. Thế nên con đường chúng ta đã và đang đi tiêu biểu cho mùa Xuân, vì thế hãy ráng cố gắng tiếp tục trên con đường tu đạo của mình đừng để ngoại cảnh chi phối, đừng có thối lui, đừng để mất tâm Bồ Ðề của mình, và hãy cố gằng hòa mình với mọi người, đồng thời biết xử dụng và tu tập trau giồi tánh tình, đức hạnh trong mọi hoàn cảnh cho mỗi ngày trở nên tốt đẹp hơn.
Chúng tôi xin kể cho quý vị nghe một câu chuyện Bà Già Ðốt Am:
- Có một bà cụ biết tu và biết đạo. Một hôm có một thiền khách đến xin bà già giúp đỡ cho việc tu hành cho mau đạt kết quả. Bà già nghe nói thế, Bà rất sẳn lòng nên cất cho vị Thiền Khách một cái am để tu hành, và mỗi ngày cơm nước đầy đủ, tứ sự cúng dường không thiếu thứ gì. Vị Thiền Khách tu như vậy được ba năm. Bà già tin rằng sự tu hành của ông đã được kết quả tốt đẹp. Ðể cho chắc chắn, một hôm bà sai một đứa cháu gái khoảng mười tám tuổi đem cơm cho thầy dùng, trong lúc vị Thiền Khách đang dùng cơm, bất chợt cô gái ôm ngang hông và hỏi:
            - Ngay bây giờ thầy thấy như thế nào:
            Vị Thiền Khách đáp:
            - Khô mộc ỷ hàn nham
            Tam xuân vô noản khí.
            Nghĩa là:
            - Cây khô tựa núi lạnh
            Ba mùa Xuân không chút hơi ấm.
Qúy vị thấy câu trả lời đó hay, và đáng để cho chúng ta kính lạy không? Theo quan điểm diệt dục của đạo Phật, vị thiền khách nầy đã tu đến trình độ không còn biết rung động trước sự quyến rủ của cô gái đang xuân, quả thật đáng kính trọng, như vị Thiền Khách đã cho chúng ta biết:
- Trong lòng của tôi giờ đây không còn một chút tà niệm, nên khi tấm thân ngà ngọc, mềm mại của cô đụng chạm đến thân thể của tôi thì chẳng khác nào như cây khô mà tựa vào núi lạnh. Dù cho cô cứ ôm tôi như vậy đến ba năm sau cũng không có một chút hơi ấm.
Nghĩa là thân tôi không còn tà niệm thì dù cho cô ôm tôi suốt ba năm như vậy tôi vẫn không có một chút tà niệm nào.
Ðứng trên lập trường khách quan thì chúng ta thấy rất hay. Nhưng chúng ta hãy chờ đợi coi phản ứng của bà già đại thí chủ của vị Thiền Khách kia phản ứng như thế nào?
Phản ứng của bà già, vị đại thí chủ kia sau khi nghe đứa cháu gái thuật lại lời vị Thiền Khách kia, bà liền nói:
- Thiệt đã uổng công ba năm nay, mình đã phí công, phí của nuôi một ông thầy phàm phu, không làm nên tích sự gì!
Sau đó bà liền đuổi vị Thiền Khách kia đi và đốt am của ông thầy.
Sau khi bị đuổi ông Thầy ra đi, nhưng vài năm sau vị Thiền Khách đó trở lại tìm bà già, cũng như lần trước xin bà giúp đỡ cho việc tu hành. Bà già cũng hoan hỷ cất lại am và cúng dường tứ sự cho Thầy đầy đủ như lần trước. Sau một thời gian, bà bảo cô cháu gái thử thầy như lần trước. Ðem cơm lên xong, cô liền ôm ngang lưng ông Thầy và hỏi:
- Ngay bây giờ thì thầy thấy như thế nào?
Thầy trả lời:
- Tôi biết, cô biết, nhưng đừng cho bà già ấy biết!
Khi nghe như vậy quý vị sẽ nghỉ gì? Vị Thầy ấy nói như vậy nghĩa là sao? Ở đây, chúng ta thấy vị Thiền Khách còn cao thượng như xưa không? Mới nghe qua chúng ta cứ ngỡ là vị Thầy ấy đã có tình ý gì nên mới bảo:
- Tôi biết, cô biết, nhưng đừng cho bà già ấy biết, vì nếu bà biết bà sẽ ngăn cản chúng mình!
Ðiều trái ngược với sự hiểu biết của chúng ta. Khi cô gái ấy về thuật lại cho bà già nghe những sự việc xảy ra, thì bà gia liền nói:
- À như vậy mới xứng đáng để cho mình cung kính.
Nghe qua câu chuyện chúng ta mới thấy sự hiểu sâu sắc của bà già. Bởi vì điều mà thế gian tưởng là có tình ý xấu xa, và nếu nhìn với mắt trần tục thì chúng ta sẽ phê bình ông Thầy:
- Ngày xưa ông tu rất tinh tấn nên đã tâm tình đã khô lạnh hết rồi, còn bây giờ đây ông thầy hết muốn tu nên mới nói ra lời nói phàm tục như vậy. Vì lòng ông đã nhiễm trần tục nên che giấu không cho bà già biết, chỉ để hai người biết thôi.
            Kỳ thật câu chuyện nầy cho chúng ta một kinh nghiệm. Bà già đó chúng ta hiểu như là một người đã chứng ngộ, vì thế nên khi nghe vị Thầy ấy nói:
            - Tâm ông khô lạnh, không còn một chút hơi ấm, nghĩa là ông muốn diễn tả tâm ông đã nguội lạnh không còn một chút tình cảm đối với mọi người, bà già biết ông đang chìm trong si mê nguy hiểm, nên đuổi đi và đốt am để cảnh giác ông.
Tuy ông tu rất hay, nhưng ông chìm trong chỗ khô lạnh, thuật ngữ gọi là tiêu nha bại chủng hay còn gọi là vô sanh. Một hạt giống không có khả năng sanh trưởng thì hạt giống đó là đồ bỏ. Điều đó trái người với tinh thần của đạo từ bi. Mục đích của đạo từ bì, của người tu là thực tập làm cho tâm chúng ta trở nên rộng rãi, biết thương chúng sanh nhân loại, để sẳn sàng ôm chúng sanh nhân loại vào lòng. Do vậy, một con người mà không có tình với chúng sanh vạn loại thì cũng trở thành con người phế thải, có cũng như không. Bà già đốt am là phải.  
Khi bị đuổi đi, ông sực tỉnh biết chỗ lỗi lầm của mình. Ngay khi đó ông vươn mình lên vượt ra khỏi vỏ cứng của khô lạnh vô tình, rồi ông quay trở lại để tiếp tục tu tập. Cho đến lần thứ hai khi cô gái ôm ngang lưng ông lần nữa thì ông mới bảo:
- Tôi biết, cô biết đừng cho bà già ấy biết.
Tôi biết cái gì, và cô biết cái gì, tại sao lại không cho bà già ấy biết. Tôi biết, và cô biết, đó chính là sự giác ngộ trong hiện tại, một giác ngộ miên trường không có tư niệm của quá khứ, vị lại. Ðó chính là con người chân thật, con người thật sự tiến đến giác ngộ. Không cho bà già biết là vì bà là người ngoại cuộc không có hiện hữu, thì làm sao biết tôi và cô đã làm gì, và đã được gì. Nếu đợi cho cô nói thì sự việc nầy nó đã trở thành quá khứ mất rồi. Mà như thế thì còn có niệm quá khứ vị lai thì là làm mất cái thường giác của mình. Hiện giác và hằng giác là thời gian mà ông đang sống. Nếu không biết chỗ sống đó, thì với ý niệm phàm tục thì chúng ta sẽ phê bình, lên án, chỉ trích ông thấy đó là người bê bối. Nhưng bà già đã hiểu được, vì thế bà già mới khen ông Thầy là người đáng được cung kính.
Trọng tâm của người tu hành là đừng để mất tâm Bồ Ðề của mình, và cố gắng hòa mình với mọi người, đồng thời biết xử dụng mọi phương tiện thiện xảo và tu tập trau giồi tánh tình, đức hạnh trong mọi hoàn cảnh cho mỗi ngày trở nên tốt đẹp hơn. Một khi đã đạt đến trạng thái đó, chính đó chỗ cứu cánh Niết Bàn. Chúng ta phải quyết tâm đạt đến mục đích đó.. một mục đích rất tươi đẹp như mùa Xuân. Thế nên con đường chúng ta đã và đang đi tiêu biểu cho mùa Xuân, cho nên chúng ta hãy ráng cố gắng tiếp tục trên con đường tu đạo của mình đừng để ngoại cảnh chi phối, đừng có thối lui.
Tất cả mọi người chúng ta có mặt ở trên cõi đời nầy đều là những con người đầy đủ phúc duyên, nên mới sớm thức tỉnh chọn được con đường tu học tốt đẹp an lành. Vì thế từ đây về sau chúng ta phải cố gắng nỗ lực đi cho đến đích, đạt cho đến chỗ cuối cùng. Không nên vì một lý do gì đó mà cứ lo chuyện buâng quơ, không đáng để phí thời giờ, rồi cuối cùng làm thay đổi định hướng mà mình đã lựa chọn được con đường tốt đẹp, để rồi đến ngày cuối cùng không đạt được mục đích thì thật là đáng tiếc. Điều nầy tương tự như người đang đi trên con đuờng dẫn đến nơi đài các châu báu mà mình hằng mong ước. Nơi đó được biết là ở không xa lắm, nhưng chúng ta lại dừng lại bên đường lo bắt bướm hái hoa, rồi theo ngày tháng quên cả mục đích mà mình nhắm tới, đến khi hối tiếc thì đã muộn màng.
Cũng vậy, cứu cánh của chúng ta là sự tu học để sửa tâm đổi tánh, vậy mà chúng ta không tập tu sửa đổi, hằng ngày từ sáng đến tối cứ hằn học với những người chung quanh, trong gia đình, bạn hữu. Cứ luôn luôn nghĩ rằng, không có ai là người thuận hợp với mình, cho nên trong lòng cứ bực bội phiền não, rồi thì ngày lại qua ngày đâu có lợi ích gì, chỉ uổng phí thời giờ, lại không đạt được bản nguyện của mình, và những bạn bè thân thuộc của mình sẽ cười chê mình là người không có ý chí, không có tuệ giác để nhận định chân chánh con đường đã chọn quá hay mà hành động lại quá dở, đó là điều thật đáng trách.
Nói tóm lại, ngày Xuân bắt đầu cho một chu kỳ mới, báo hiệu cho đầu năm mới, chúng tôi xin được gợi ý với quý vị, nên nhớ rằng:
- Bất cứ một suy tư lương thiện, hay một hành nhỏ lương thiện nào đó cũng đều là hành trang tốt đẹp cho việc tu tập và kiến tánh thành Phật.
            Những suy tư lương thiện đó, hay nói đúng hơn con đường mà quý vị đã chọn là con đường rất tốt đẹp, rất an lạc. Chúng ta hãy cùng nhau nỗ lực tinh tấn trên con đường đó, và làm sao cho một đời nầy nếu chúng ta chưa đến tận đích, ít ra chúng ta cũng đi được một nửa hoặc hai phần đường, chúng ta luôn luôn tâm niệm gìn giữ và tiếp tục đi mãi, không nên chần chờ để mất hết thì giờ, rồi phải chịu đau khổ như bao nhiêu người khác không có đủ phúc duyên như chúng ta.
Mong rằng trong năm mới nầy tất cả mọi người chúng ta đừng nghi kỵ lẫn nhau, đừng phỉ nhổ bôi báng lẫn nhau, đừng nhìn nhau với cặp mắt thù hận, nếu có thì hãy nhìn nhau bằng con mắt yêu thương,  để có thể cùng sang sẻ trọng trách với nhau trên con đường tu tập và hoàn thành sứ mệnh của người con Phật là:
- Trên Cầu Phật Ðạo Dưới Hóa Ðộ Chúng Sanh.
 
Tài Liệu Tham Khảo
- Văn Học Lý Trần
- Xuân Trong Cửa Thiền
- Tìm Phật Ở Ðâu
- Ngay Trong Kiếp Sống Nầy.
-- o0o --