-
Chơn Đế & Tục Đế
-
Thông Trí
-
--o0o--
-
-
Nói về Đế có ba nghĩa:
-
1- Đế: Có nghĩa là chơn lý cần phải thẩm xét tu tập, cũng gọi
là đạo lý chơn thật, chánh đáng đưa người lên chỗ tấn hóa giải
thoát.
-
2- Đế: Có nghĩa là chính chắn, chơn chánh, hay thành thật.
-
3- Đế: Có nghĩa là kỷ cang, tường tận, rành rẻ, rõ ràng.
-
Trong các kinh Phật có hai chân lý gọi là Nhị Đế. Nhị Đế tức
là Chơn Đế và Tục Đế, tiếng Việt gọi là hai chân lý hay còn
gọi là hai cỡ hiểu biết:
-
A- Chân Đế:
-
Là nghĩa lý học thuyết chơn thật, không sai chạy.
Là chân lý của hạng thoát ly, của bậc thánh giả, chỗ hiểu biết
của chư Bồ Tát, chư Phật, đó là chân lý cỡ cao, trọn vẹn. Nói
tóm lại, Chân Đế là chân lý cho hàng xuất gia, hàng thánh giả
tham cứu. Chơn lý nầy cao siêu, rốt ráo, vô lậu vô vi, cho nên
kêu là chơn đế, cũng gọi là Thắng Nghĩa Đế, Đệ Nhất Nghĩa Đế.
-
Tiêu biểu cụ thể về chân đế chẳng hạn như, sau khi
thành đạo, đức Phật ngự đến Vườn Nai gần Thành Ba La Nại mà
chuyển pháp luân, Ngài thuyết pháp về Bốn Đế hay còn gọi Bốn
Chân Đế, đó là:
-
1- Khổ Đế:
-
Cuộc đời là khổ, vì thế con người và chư thiên cứ
quanh quẩn trong luân hồi, trong các nổi đau khổ.
-
2- Tập Đế:
-
Chúng sanh khổ là vì lòng ham muốn, lòng phiền não
tích tập.
-
3- Diệt Đế:
-
Vậy phải lo mà trừ khổ, để chấm dứt phiền não
-
4- Đạo Đế:
-
Muốn trừ khổ phải dứt phiền não, phải thi hành đạo
Tám Chánh....
-
Ai tu theo Bốn Chân Đế đó thì thành La Hán nhập Niết Bàn.
-
Về vấn đề quả vị Niết Bàn đệ tử Phật chứng đắc
theo Ngài Trí Giả Ðại Sư, tùy trình độ tu chứng mà có Niết Bàn
sai khác. Ngài chia pháp Tứ Ðế làm bốn cấp bậc:
-
a- Pháp Tứ Ðế ở tầng thứ nhất Phàm Phu hiểu được là pháp Tứ Ðế
Bất Tư Nghì Sanh diệt. Gọi là Tứ Ðế Bất Tư Nghì sanh Diệt là
vì trí Bồ Tát quan sát cảnh Tứ Ðế mầu nhiệm nầy không biết
được việc mình làm, chỉ hoàn toàn nhờ Phật lực gia bị để thành
tựu công đức nên gọi là nên gọi là Bất Tư Nghì Sanh Diệt Tứ
Ðế.
-
b- Từ pháp ở cấp bậc một nầy, những người có tâm hướng quả vị
Niết Bàn như Ngài Kiều Trần Như chỉ chứng được quả Tứ Ðế Tư
Nghì Bất Sanh Diệt.
-
c- Thật chứng được pháp thứ hai, sẽ sanh được pháp thứ ba là
pháp mà Xá Lợi Phất đang truy cầu không còn dùng tâm trần quan
sát vật được, đó là Tứ Ðế Bất Tư Nghì, Bất Sanh Bất Diệt.
-
d- Dưới nhãn quan của Ðại Sư Trí Giả, ví các vị Bồ Tát như cái
kiến đa thể thấy được muôn vạn màu sắc và đổi dạng liên tục.
Tuy nhiên dù biến đổi vật như thế nào cũng nằm trong sự hiểu
biết và điều động của Ðức Phật. Bấy giờ mới thật là Pháp Tứ Ðế
hoàn toàn Bất Tư Nghì Bất Sanh Diệt là Niết Bàn Thật sự của
Ðức Phật.
-
Chứng đắc quả vị Niết Bàn của Ðức Phật phải chuyển được vật,
không phải là để diệt độ riêng rẽ như A La Hán. Ðức Phật
chuyển được vật vì Ngài hiểu được tận ngọn nguồn các pháp và
không còn sót một vật gì trong vũ trụ mà Ngài không biết gọi
là Tri Kiến Ba La Mật.
-
Nói tóm lại, nói về Chân Đế là nói về đạo lý chân thật, tri
kiến Phật rất sâu rất sâu xa mầu nhiệm. Ðức Phật thấy được tất
cả, vì vậy mà nếu một người không có tầm mức tinh thần như
Phật thì khó có thể hiểu được tri kiến đó. Về mặt Chân Đế,
muốn thấy thật tướng các pháp, đức Phật dạy, đầu tiên xem
tướng chân thật của nó là gì. Tướng nầy Ðức Phật bảo là giả
tướng, luôn luôn biến đổi không ngừng từ nhỏ đến lớn, từ lớn
trở về nhỏ. Ðiều động được sự biến đổi nầy. Cho nên Tổ mới
thốt ra câu:
-
- Càn khôn tận thị mao đầu thượng
-
Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung.
-
Nghĩa là:
-
- Lớn như mặt trời, mặt trăng cũng chui vào gọn
vào hạt cải
-
Cho đến vũ trụ càn khôn có đủ trong đầu một sợi
lông.
-
B- Tục Đế
-
Tức là chân lý của thế tục, thích hợp với đời, hay
nói cách khác là chỗ hiểu biết của phàm phu, đó là chơn lý cỡ
thấp, còn khuyết điểm chưa được hoàn chỉnh, cho nên cũng kêu
là thế đế.
-
Cũng gọi là đạo lý về thế tục, là loại lý luận về thế tục, vừa
sức dung nạp của người tại thế, vừa với trí thức của người
phàm. Đó là cái đạo lý không có tính cách giải thoát, diệt
khổ, vô lậu. Vì để thích hợp mọi trình độ của chúng sanh, cho
nên chư Bồ Tát, chư Phật thường xử dụng Tục Đế để mà dạy chúng
sanh, sau đem mới đem Chân Đế mà giáo hoá họ. Nói tóm lại, Tục
Đế hay Thế Đế, hay là Phương Tiện Huệ, Phương Tiện Ba La Mật
là chân lý để cho người tại thế, bực phàm phu tu tập lần hồi
lên quả thánh. Chữ phương tiện có hai nghĩa:
-
a- Nghĩa hẹp
-
Phương là Phương pháp, Tiện là thuận tiện thích
đáng. Như vậy Phương Tiện là phương pháp thuận tiện thích đáng
để dẫn đến một mục đích, một ý muốn gọi đó là Phương Tiện.
-
b- Nghĩa Rộng:
-
Trong kinh điển diễn ta về cảnh giới giác ngộ của
đức Phật thậm thâm vi diệu. Ngoài ra tất cả những cách thức
trình bày thuyết giảng dùng đến ngôn ngữ, sắc tướng... cho đến
cả sự ra đời của Phật cũng đều là phương tiện. Hay nói rộng
hơn tất cả việc làm của Phật từ khi giáng trần tại Vườn Lâm Tỳ
Ni, cũng là phương tiện. Ðức Phật ra đời, một tay chỉ lên
trời, một tây chỉ dưới đất và nói:
-
- Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn.
-
Hình tướng đó, lời dạy đó cũng là phương tiện. Nếu
ngay lời nói đó chúng sanh tỏ ngộ được thâm ý của đức Phật
nói, tức nhiên có thể ngay đó là một bài pháp mà Phật đã dạy
quá đầy đủ. Nhưng căn cơ chúng sanh không phải chỉ dùng chừng
ấy đã ngộ được mà cần phải dẫn dụ thêm. Cho nên đức Phật mới
trải qua những giai đoạn tu hành thành đạo thuyết pháp... và
tùy căn cơ chúng sanh mà Phật thuyết ba thừa. Tất cả những thứ
đó đều là phương tiện. Và nếu khi nào chúng sanh chưa hiểu hết
mục đích của Phật, cảnh giới giác ngộ mà đức Phật muốn trao
cho, chỉ dạy cho, thì tất cả những pháp môn mà Phật chỉ dạy đó
đều là những pháp phương tiện. Trong kinh có hai câu để chứng
minh lời dạy đó:
-
1- Nhất thiết tu đa la như tiêu nguyệt chỉ
-
Nghĩa là:
-
- Tất cả kinh giáo ta dạy như ngón tay chỉ mặt trăng.
-
Ngón tay là phương tiện, mặt trăng là chân lý, là thật tướng
mà Phật đã chứng ngộ.
-
2- Ngã sổ thuyết pháp như phiệt dụ giã,
-
Pháp thượng ưng xã hà huống phi pháp.
-
Nghĩa là:
-
- Pháp ta nói như chiếc bè qua sông
-
Pháp còn phải bỏ hà huống phi pháp.
-
Ðức Phật đã khéo dùng phương tiện như vậy mà có
chúng sanh thành tựu được, tuy nhiên cũng có những chúng sanh
chưa thành tựu được, phải chờ đến hội Pháp Hoa, một lần cuối
cùng đức Phật khai thị mới ngộ. Cho nên trong Kinh Pháp Hoa
trước khi chúng sanh được chánh thức giác ngộ, được thọ ký,
thì Phật đã thuyết pháp, phóng hào quang hiện các tướng tốt...
Tất cả việc làm trong phẩm tựa đã trình bày cũng là phương
tiện, Nếu trong việc phóng quang của đức Phật mà chúng sanh
ngộ được, chắc Phật khỏi phải nói thêm Phẩm Phương Tiện. Nhưng
không ngộ được, Phật phải dùng phương tiện dùng ngôn ngữ để
giảng nói đạo lý, cảnh giới mà chúng sanh cần chứng ngộ, tất
cả ngôn thuyết của đức Phật đều là phương tiện, gọi là đạo
nhưng mà là đạo phưong tiện, chứ không cần phải đạo đích thực.
Tục đế là vậy, phương tiện là vậy, mà chính trong Phẩm Phương
Tiện trong Kinh Pháp Hoa là Phẩm mà Ðức Phật dùng ngôn ngữ để
nói thẳng điều Ngài muốn nói, nhưng trước kia chưa nói. Trong
đó Phật nhắc đi nhắc lại nhiều lần câu:
-
- Ta dùng vô số phương tiện, chư Phật muười
phương cũng dùng vô số phương tiện để khai đạo chúng sanh.
-
Tục Đế hay Phương Tiện mục đích là làm cho chúng ta hiểu là
tùy theo sở cầu trong mỗi giai đoạn của mỗi người mà tạm thời
làm lợi ích. Nói cách khác, phương tiện là từng bậc thang đưa
người đi từ chỗ dễ đến chỗ khó, từ thấp lên cao, từ chỗ tạm
đến chỗ chân thật rốt ráo. Trí tuệ Phật viên mãn nên có vô số
phương tiện hướng dẫn chúng sanh từ mê tới giác, là chỗ cứu
cánh chân thật.
-
Như vậy, ngoài Chân Đế tức là Tri Kiến Ba La Mật, không có
việc gì trên đời đức Phật không làm được gọi là Phượng Tiện Ba
La Mật. Tri Kiến là Minh và Phương Tiện là Hành, đầy đủ tri
kiến Ba La Mật là Phương Tiện Ba La Mật, đức Phật xưng là Minh
Hạnh Túc. Với hiểu biết cùng tột trong vũ trụ và làm được tất
cả nên Ngài hướng dẫn chúng sanh nhất định thành Chánh Ðẳng
Chánh Giác.
-
Pháp chư Phật khó gặp, khó được, giống như hoa linh thoại khi
nào có điềm lành, như Phật hay chuyển Luân Thánh Vương ra đời
nó mới xuất hiện. Ðiều nầy ý Ðức Phật muốn hiển bày những điều
khó hiểu, khó tin, hàng có trí tuệ như Thanh Văn, Duyên giác,
Bồ Tát không thể suy lường mà có thể hiểu. Vì thế truớc khi
Ðức Phật giảng về Tục Đế, tức là pháp phương tiện, Ngài xác
định rằng pháp chân thật Ngài chứng được chỉ có chư Phật mười
phương đồng đẳng với Ngài mới hiểu. Ngay cả các Bồ Tát còn
không thể hiểu huống chi Thanh Văn, và đối với chúng ta tất
nhiên còn xa cách vạn dặm.
-
Pháp chư Phật là cái tinh hoa mà đức Phật đã có từ khi giác
ngộ, nhưng chưa bao giờ Ðức Phật Ngài dạy, tại vì chưa đến
lúc, cũng như loài hoa Linh Thoại đến lúc nở thì nó mới nở, nó
không thể nở trước. Sự có mặt của Ðức Phật trên cõi đời nầy,
nên biết rằng chỉ vì một lý do duy nhất đó là chỉ cho chúng ta
thấy được cái tri kiến vô cùng thâm sâu của chư Phật đó là sự
thật tuyệt đối. Mục đích xuất hiện trên cõi đời nầy là để mở
ra và chỉ cho người ta thấy được cái tri kiến của Phật, giúp
cho người ta bừng tỉnh, thấy được cái tri kiến đó là cuối cùng
và chứng nghiệm được cái tri kiến đó. Bốn chữ trong nguyên văn
đó là: Khai, Thị, Ngộ, Nhập.
-
- Khai có nghĩa là mở, như là một kho tàng phải có người mở ra
mới được. Khai tri kiến tức là mở kho tàng tri kiến của Phật
ra. Kho tàng đó là cái thấy, cái biết của Phật, mà trong nầy
dùng chữ Tri kiến để diễn tả.
-
- Thị tức là chỉ cho ta thấy. Dùng ngón tay chỉ cho rõ ràng
thì gọi là thị. Thị Phật tri kiến tức là chỉ cho người ta thấy
rõ cái tri kiến của Phật
-
- Ngộ tức là bừng tỉnh mà thấy được một sự thực nào đó, cũng
giống như khi thở mà mình biết mình đang còn sống, hiện giờ ở
đây. Ngộ Phật Tri Kiến là bừng tỉnh và thấy được cái tri kiến
của Phật.
-
- Nhập có nghĩa là đi vào, để chứng nghiệm chứ không phải chỉ
đứng ở ngoài mà dòm ngó. Mình được cái pháp vị thì gọi là
chứng.
-
Thật ra tri kiến Phật không phải chỉ có Phật mới có mà tất cả
chúng sanh, mọi người ai cũng có sẵn, nhưng vì vô minh, tham
vọng che phủ, nên bây giờ Phật mới dùng pháp thế tục, hay Tục
Đế tức là phương tiện Khai tri kiến đó, rồi từ phương tiện đó
Phật mới chỉ cho nhận ra Tri Kiến Phật, và sau đó cố gắng tiến
tu để nhập tri kiến Phật mình.
-
Vậy tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì quên nên Phật
mới dùng phương tiện Khai, Thị, Ngộ, Nhập, khiến cho chúng
sanh nhận ra Phật tánh của chính mình để thành Phật như Ngài.
Ðó là bản hoài của chư Phật nên nói là vì một đại sự nhân
duyên mà Ðức Phật ra đời.
-
Kinh Pháp Hoa, nhất là Phẩm Phương Tiện có đề cập đến ba thừa,
nhưng sự thật chỉ có thuyết minh về Phật Thừa, và mục đích
quan trọng, điểm cốt là chỉ tức tâm, tức Phật. Tri Kiến là
tâm, là Giác, là Phật. Nói thì như vậy nhưng chúng ta tự hỏi:
-
- Tri kiến nào là Phật còn tri kiến nào là chúng sanh?
-
Như trong Kinh Pháp Hoa chúng ta thấy hai nhân vật được đề cập
ngay từ đầu, đó là Cầu Danh Bồ Tát và Văn Thù Bồ Tát, như vậy
có thể trả lời:
-
- Tri kiến theo cầu danh là tri kiến chúng sanh. Tri kiến theo
Bồ Tát Văn Thù là Tri Kiến Phật.
-
Trong Kinh Lăng Nghiêm Phật dạy:
-
- Tri kiến lập tri tức vô minh bổn
-
Tri kiến vô kiến tư tức Niết Bàn.
-
Nghĩa là:
-
- Trong lúc thấy biết mà nhận được là thấy biết là gốc vô minh
-
Thấy biết mà không thấy biết là Niết Bàn.
-
Ðiều nầy ý Ðức Phật Ngài muốn dạy cho chúng ta biết khi tâm
con người chúng ta thấy những hiện tượng của danh sắc mà khởi
tâm đắm nhiễm, thì trong lúc đó là chúng ta bị vô minh dẫn
dắt. Còn Thấy biết những danh sắc hết sức rõ ràng nhưng không
khởi niệm phân biệt, an nhiên tự tại. Giống như mặt gương
trong sáng người đến thì hiện bóng người trong gương, vật đến
thì hiện bóng vật, nguời và vật có qua rồi thì mặt gương không
còn lưu lại gì, vẫn sáng trong như trước. Cũng vậy, đối với
ngoại cảnh, chúng ta vẫn thấy biết mà tâm không lưu lại hình
bóng để phân biệt. Ðó là Niết Bàn.
-
Ðức Phật Ngài xác nhận rõ ràng ý nghĩa không có ba thừa mà chỉ
một Phật Thừa. Sở dĩ Phật nói ba thừa vì chúng sanh trong đời
năm trược sanh lòng bỏn xẻn, tham lam, ganh ghét... Vì vậy mà
Phật tạm dùng phương tiện nói ba thừa để dẹp bỏ những tâm cấu
uế đó.. Vì thế mà có ba khuynh hướng tu học trong đạo Phật,
khuynh hướng đầu gọi là:
-
01- Thanh Văn, Là những người được nghe giáo lý của Ðức Phật
mà tu học để thành đạo. Họ theo một con đường gọi là Thanh Văn
Thừa
-
Trong hàng ngũ của những người Thanh Văn thường thường người
ta nghĩ rằng mục đích tu học là để chấm dứt khổ đau của chính
mình và để đạt tới quả vị A La Hán người ta mới chấm dứt được
sự sanh tử luân hồi cho chính bản thân mình. Vì vậy mà quả vị
A La hán là cái ước mong cao nhất của người Thanh Văn. Trong
con người Thanh Văn có cái mặc cảm là mình không thể thành
Phật được. Cái tối đa là mình có thể thực hiện là thành A La
Hán thôi. Họ nghĩ rằng Phật là một người rất đặc biệt trên cõi
đời nầy, chỉ có một người như Phật thôi, còn tất cả chúng ta,
tối đa là đạt tới quả vị A La Hán. Vì vậy trong tâm người
Thanh Văn không có chí lớn, chí lớn mà chúng tôi muốn nói đó
còn gọi là tâm Bồ Ðề. Sở dĩ người có tâm Bồ Ðề được gọi là
người có chí lớn là vì một người có tâm Bồ Ðề tức là người có
những suy tư, và có khuynh hướng giúp đỡ người khác, để đem
lại sự giải thoát và an lạc cho cả thế gian.
-
Khi một người có chí nguyện lớn đó, có cái Bồ Ðề tâm đó thì họ
được gọi là Bồ Tát. Bồ Tát là con đường lớn, là chiếc xe lớn
có thể chở được nhiều người cùng một lúc, chứ không phải như
những người chỉ lo chuyên giải thoát cho bản thân. Ðó là những
tư tưởng căn bản của Ðạo Phật Ðại Thừa. Vì lý do đó nên phải
khai mở Bồ Tát thừa, đem Bồ Ðề tâm vào trong trái tim của tất
cả mọi người.
-
Nhận xét cho cùng thì quan niệm của chư Thanh Văn không hoàn
toàn sai. Ðức Phật Ngài cũng nhận thấy điều đó, nghĩa là Ngài
nhận thấy thể lực chúng ta không tốt, khả năng hiểu biết của
chúng ta kém, đó là hai vốn liếng quý giá để đắc đạo, chúng ta
không có đủ nên Ðức Phật động lòng từ bi, thương xót khai
phương tiện cho chúng ta tu.
-
Nếu chúng ta chịu khó quán chiếu, trên phương diện cầu tiến,
quán sát cuộc đời tu hành của đức Phật và các vị Tổ, chúng ta
thấy rõ đức Phật có sức khỏe phi thường, khi chưa xuất gia
lịch sử đã ghi không có một lực sĩ nào mạnh hơn ngài. Nhờ sức
khoẻ kỳ diệu, Ngài trắc nghiệm các pháp một cách tường tận như
thí nghiệm pháp tu khổ hạnh trong 6 năm, ngày ăn một hột mè
vẫn sống được, và hạ thủ công phu 49 ngày đêm ngồi tư duy,
không ăn, không uống vẫn không ngã gục, trái lại còn đạt đến
đỉnh cao của sự minh mẫn gọi là giác ngộ. Các vị thiền sư cũng
có thể lực vượt bình thường điển hình như Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma,
chín năm nhìn vách tu trên núi Thiếu Lâm, và vào thời điểm đó
điều kiện vệ sinh chắc chắn không đầy đủ như ngày nay, nhưng
sự đề khán của cơ thể mảnh liệt, các Ngài đã vượt qua những
chướng khí, nóng lạnh và bệnh tật của núi rừng và dễ dàng đắc
đạo. Còn chúng ta ngày nay, điều kiện ăn ở, thuốc men tiện
nghi quá nhiều nhưng nay đau mai yếu, thời khoá công phu bình
thường không trọn còn nói chi gì đến việc trắc nghiệm các pháp
cao hơn.
-
Thể chất là điều cần thiết để duy trì cuộc sống, tuy nhiên,
phần trí lực hay khả năng tri giác của người tu mới thực quan
trọng. Ở điểm nầy chúng ta thấy Ðức Phật có sức thông minh
tuyệt vời, lúc chưa xuất gia, không một vị thầy nào ở thế gian
đủ sức dạy Ngài, đến khi đắc đạo Ngài được tôn làm bậc chánh
Biến Tri vì thấy biết các pháp diễn tiến tận cội nguồn.
-
Trình độ tri thức các vị Tổ, chư thiền sư cũng vậy, luôn luôn
vượt hơn thế gian và chỉ đạo cho cuộc đời. Ngày nay trình độ
dân trí bên ngoài tương đối cao, trong khi hiểu biết của chúng
ta không bằng thế gian huống chi vượt qua thế gian, làm Thầy
thiên hạ. Với thể lực yếu, trí lực kém, ác nghiệp quá sâu,
biết bao nhiêu khó khăn chờ đón chúng ta, chúng ta không có
cách nào hơn là nương pháp phương tiện tu.
-
Tuy nhiên Ðức Phật xử dụng Tục Đế, Ngài phương tiện lập ra tam
thừa, nhưng không có ý niệm rằng mọi người chỉ nên chứng quả A
La Hán rồi nhập vào Niết Bàn vắng lặng:
-
- Vắng cái xôn xao của năm dục, của cái tư tưởng để đừng bị
vướng víu vào cái khổ đau triền miên của cuộc đời.
-
Ðức Phật không nghĩ như vậy, nhưng có những vị Thanh Văn nghĩ
như vậy, và do đó con đường Thanh Văn là con đường tuy không
hẳn là con đường đẹp nhất mà Phật muốn dạy, nhưng vì có người
muốn như vậy, nên Ðức Phật phải chỉ dẫn như vậy. Vì thế trong
chiều hướng nầy Ðức Phật dạy bảo chư Thanh Văn rằng:
-
- Muốn bớt khổ thì hãy thực tập đi những điều mà ta đã hướng
dẫn, nhưng giáo pháp của ta không phải chỉ nhắm tới sự diệt
khổ. Giáo pháp của ta còn có mục tiêu cao hơn.
-
02- Con Ðường Duyên Giác
-
Ðức Phật Ngài dạy con đường thứ hai là Duyên Giác Thừa, gồm
những người, tuy không được Phật giảng dạy, nhưng nhờ quán
chiếu duyên sanh, và cũng có thể thành đạo, cho nên gọi là
Duyên Giác Thừa, hay còn gọi là Ðộc Giác thừa. Con dường Duyên
Giác nầy cũng là con đường lành, nhờ quán chiếu 12 nhân duyên
mà quý vị có thể vượt thoát được những sự ràng buộc và thấy
thảnh thơi trong người thì điều đó tốt, quý vị cứ thực tập như
vậy đi.
-
03- Con Ðường Của Bồ Tát.
-
Ðối với con đuờng của chư Bồ Tát thì lại khác. Các vị có
khuynh hướng tu theo hạnh Bồ Tát, là những vị phát tâm vô
thượng chánh đẳng chánh giác, và muốn cho tất cả mọi loài được
thừa hưởng kết quả của sự thực tập chứng ngộ của mình.
-
Từ ngữ Bồ Tát có một ít người theo truyền thống Nguyên Thủy
không chấp nhận, vì cho rằng Phật Giáo Ðại Thừa phịa ra, nhưng
về từ ngữ Bồ Tát, trong đạo Phật Nguyên Thủy danh từ Bồ Tát đã
được xử dụng rất quen thuộc, nhưng chỉ được sử dụng để gọi
Phật khi Ngài chưa đạt đến quả vị toàn giác. Nghĩa là đối với
tiểu thừa chỉ có một Bồ Tát, đó là tiền thân của Phật Thích
Ca. Nhưng chính vì Ðức Phật Thích Ca nói rằng, trong thế giới
có rất nhiều vị Phật cho nên cái kết luận tất nhiên đi tới là
nếu trong thế giới có nhiều Phật, thì trong thế giới cũng có
rất nhiều vị Bồ Tát. Và ý niệm có hằng hà sa số các vị Phật và
hằng hà sa số Bồ Tát phát xuất từ căn bản đó. Chính Ðức Phật
Thích Ca nói rằng trước ngài đã có nhiều vị Phật khác đã ra
đời. Căn cứ câu nói đó mà người ta đã đến kết luận, nếu có
nhiều Phật khác đã ra đời, thì cũng có nhiều Bồ Tát khác cũng
ra đời. Vì vậy mà cái ý niệm hằng hà sa số Phật và Bồ Tát cũng
bắt nguồn từ đó.
-
Kết Luận:
-
Nhìn chung về ba con đường đức Phật đã xử dụng Tục Đế, hay nói
khác là Ngài phương tiện vạch ra, chúng ta thấy được ý của Ðức
Phật, Ngài chấp nhận rằng con đường của Thanh Văn và của Duyên
Giác, là chính do Ngài đã vì phương tiện tạo ra. Chủ đích quan
trọng nhất của Phật là hướng dẫn chúng sanh đi vào con đường
Phật Thừa tức là con đường: Khai, Thị, Ngộ, Nhập tri kiến của
Phật. Vì vậy cho nên cái triết lý nầy, cái con đường nầy gọi
là
-
- Khai Tam Hiển Nhất,
-
Nghĩa là:
-
- Mở ba cái nhưng chẳng qua chỉ là một cái thôi.
-
Khai Tam Hiển Nhất cũng còn được gọi là:
-
- Hội Tam Quy Nhất
-
Nghĩa là:
-
- Gồm cả ba cái lại để đưa về một cái tức là cái Diệu Pháp mà
Phật sắp nói ngày hôm nay. Ðó mới chính là Diệu Pháp chứ không
phải như thị tướng, như thị tánh....
-
Như vậy Tục Đế hay mục đích Phương tiện là dùng cho người mới
phát tâm vào đạo nương theo đó thành vô Thượng Giác, nhưng đắc
đạo rồi mở cửa phương tiện để giáo hoá chúng sanh như đức Phật
Thích Ca. Chúng ta cần phân định rõ như vậy. Chúng ta chỉ mở
phương tiện được với điều kiện chúng ta đã thành Vô Thượng
Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ðức Phật là người mở phương tiện cho
chúng ta, Ngài đưa ra 84000 pháp môn tu, chúng ta tu pháp môn
nào cũng được, nhưng đừng lạc ra khỏi những pháp nầy, tạo
những phương tiện khác là tự đẩy mình ra khỏi Phật Pháp.
-
Nếu chúng ta dùng phương tiện đúng từng bước, thì tự thân
chúng sẽ phá bỏ nhiểm ô, trần cấu và trí tuệ phát sanh, và đưa
chúng ta lên quả vị giác ngộ. Ngược lại sử dụng sai để trầm
luân sa đọa, chúng ta sẽ phạm tội phá pháp. Kinh Phật để lại
là một việc, mà sữ dụng lợi ích cho bản thân mình và cho cuộc
đời, hay tác hại cho bản thân mình và cho cuộc đời là tùy ở
nơi ta.
-
Chúng ta phải cẩn thận, không nên lầm giáo pháp Tục Đế với
Chân Đế, phương tiện với cứu cánh. Nếu chúng ta không hiểu rõ
lợi ích sâu xa mà bác bỏ pháp phương tiện nầy để tìm giải
thoát cũng sai. Chúng ta cần cân nhắc suy nghĩ sử dụng phương
tiện thế nào để phá trừ phiền não cho mình và giáo hoá chúng
sanh thành tựu mới là điều quan trọng. Chúng ta học phật pháp
nghĩa là đi qua cửa Tục Đế hay phương tiện để ra khỏi sanh tử.
Trong Kinh Pháp Hoa diễn tả muốn ra khỏi nhà lửa Tam Giới chỉ
có một cửa duy nhất nhỏ hẹp, đó là cửa phương tiện của đức
Phật.
-
Chính vì sự khó khăn trong việc thâm nhập thế giới bản thể
vắng lặng không nói được, cho nên đức Phật mở các pháp phương
tiện tương ứng và người trên trái đất chỉ làm một việc duy
nhất bàn đi, bàn lại phương tiện nầy hay nói cách khác đưa
Phật pháp vào tâm của những chúng sanh tâm còn sơ cơ hạn hẹp.
Phương tiện nầy luôn luôn được xử dụng, cho đến ngày nào đó
tâm của chúng ta bừng tỉnh, sáng suốt ngộ tánh thành Phật mới
thôi.
-
Điều cũng cần xát định, phương tiện thì tùy thời,
tùy chỗ, tùy người thay đổi nên có những pháp phương tiện
thích hợp khác nhau. Suốt quá trình thuyết pháp của đức Phật
hơn 300 hội từ Lộc Uyển đến Ta La Song Thọ, Ngài đã hướng dẫn
cho chúng ta vô số pháp phương tiện, và ghi lại thành văn tự
kinh điển, tuy nhiên trong kinh Văn Thù đức Phật đã khẳng định
suốt 49 năm, Như Lai chưa từng nói một lời nào.
-
Chúng ta nghĩ gì khi nghe Ðức Phật tuyên bố trong Kinh Văn Thù
Như vậy?
-
Một lời là pháp chân thật người thường không thể diễn nói
được, và Như Lai đã thuyết trong trạng thái vô sanh, nghĩa là
không từ đâu đến mà cũng không đi về đâu, như thế thì làm thế
nào để có thể nói với người trên cuộc đời. Vì lý do đó nếu
đứng trên lập trường bản thể, Kinh Văn Thù xác định Như Lai
chưa nói một lời nào là đúng.
-
Nhưng nếu nói trong quá trình 49 năm thuyết pháp là của đức
Phật Thích Ca mở phương tiện cho người ở trong sanh tử, cho
nên Ðức Phật Thích Ca tuy đã nhập Niết Bàn rồi, nhưng Như Lai
thì không bao giờ chết không bao giờ vào Niết Bàn, đức Phật
chân thật Tỳ Lô Xá Na không chết. Ðức Phật Thích Ca niết bàn
để đức Phật thực, tức là pháp thân phổ biến khắp thế giới, trở
thành con người vĩ đại của nhân loại và luôn hiện hữu trong
pháp tánh của người tu hành đắc đạo.
-
Trong chiều hướng nầy, nếu chúng ta chứng được một pháp nào,
chúng ta sẽ thấy Phật ở khía cạnh đó. Như vậy hai mặt chân đế
và tục đế dung thông, hay cứu cánh và phương tiện vẫn là một
trong con người Phật.
-
Chân đế hay cứu cánh là Phật thực hay chơn như tâm không sanh
không diệt trên cuộc đời và Tục đế là phương tiện hiện ra con
người sanh diệt thuyết pháp. Nói cách khác, thân Phật 32 tướng
tốt, 80 vẻ đẹp và tất cả giáo pháp Ngài đều là phương tiện của
đức Tỳ Lô Xá Na.
-
Trong công cuộc tu tập, có lẽ việc đầu tiên chúng ta nên tập
bỏ tất cả những thứ lặc vặc ở bên ngoài bằng cách đóng kín năm
giác quan hay năm cửa tiếp xúc với bên ngoài. Ngăn chận năm
tiền trạm nầy xong còn lại phần tinh thần: Thọ, tưởng hành,
thức, cũng theo đó bị xóa sạch. Vì sáu căn không tiếp với sáu
trần nên vấn đề không được đặt ra, việc hiểu biết chuyện thế
tục vui buồn vinh nhục do mắt thấy tai nghe đều bị cắt đứt,
thì tâm hồn chúng ta trở nên lắng yên. Tuy sanh thân tứ đại
của chúng ta vẫn còn mà tác động của thân làm tâm đau khổ
không còn.
-
Ý thức được trước đây chúng ta dại khờ lấy cái khổ làm Ta,
nhưng nay xoá cái khổ chỉ còn lại cái ta là chơn ngã. Nếu
chúng ta cứ luôn kiểm soát thân tứ đại như vậy, từ từ nó sẽ
không còn đòi hỏi những cái vô lý như trước vì: Thọ, tưởng,
hành, thức đã bị dẹp bỏ, thân đòi hỏi rất ít, có thể là không
còn nữa, từ đó nó giúp chúng ta rất nhiều trên bước đường tu
học. Trên bước đường tu hành, chúng ta chấp nhận cuộc sống tối
thiểu bằng tuệ giác sẽ dễ dàng bắt gặp những cảm nhận như vậy.
-
Thật vậy, yêu cầu của cuộc sống con người không nhiều nhưng
lòng tham của con người bao nhiêu cũng không đủ. Tuy nhiên xóa
lòng tham rồi những gì không cần thiết cho thân, không chi
phối ta được nữa. Ý thức như vậy chúng ta giảm thiểu việc ăn
uống nên có một đời sống hoàn toàn thanh thản khác với người
thế tục, đó là trạng thái chuẩn bị bước vào cửa thiền, thâm
nhập Phât Huệ. Ăn uống đơn giản vẫn khoẻ mạnh và sinh hoạt cơ
thể của chúng ta không giống người bình thường, nhịp tim đập
tự hạ xuống hơi thở rất nhẹ, số lượng máu lưu chuyển trong cơ
thể cũng chậm nên lương hữu cơ không bị đốt nhiều.
-
Trong thời gian đức Phật ngồi Bồ Ðề Ðạo Tràng nhập thiền định,
Người thế gian không biết Ngài làm gì. Nhưng trở lại thực tế
cuộc sống đi giáo hoá chúng sanh, chúng ta mới biết có đức
Phật ở thế gian, và đức Phật ở thế gian là phương tiện, cho
nên đối với đức Phật thiệt và pháp thân của Phật Phương tiện
nói tất nhiên cũng là pháp phương tiện.
-
Ngày nay trên bước đường tu hành, chúng ta thường lầm lẫn chấp
Tục Đế tức là pháp phương tiện làm Chân đế tức là cứu cánh,
cho nên lúc bấy giờ phương tiện không còn tác dụng giải thoát,
mà lại trở thành ràng buộc chúng ta, ví dụ tượng Phật nhằm
giúp chúng ta hình dung ra đức Phật thiệt, từ đó chúng ta bắt
đầu quan sát lời nói, hành động suy tư của đức Phật để học
theo, làm theo mới là việc chính yếu, thế nhưng phần lớn chúng
ta vẫn coi tượng là phật.
-
Hiểu được rằng tất cả các pháp đều là phương tiện, thì tượng
Phật xi măn cũng là phương tiện. Tuy nhiên, nếu hiểu rằng
nương với Phật tượng trưng là phương tiện để chúng ta tìm ra
ông Phật độ thoát chúng sanh, thì chúng ta sẽ có những kết quả
tốt. Nếu chúng ta ý thức được tác dụng của Phật phương tiện,
và siêng năng lạy phật xi măng tụng kinh bằng giấy, nhờ đó trí
tuệ sẽ mỗi ngày một phát huy, giải quyết việc xảy đến với mình
tốt đẹp hơn.
-
Ðối trước tượng Phật, khởi lòng thành kính giúp chúng ta phá
được màn vô minh ngăn che chúng ta, và Phật Tượng có sức thu
hút mạnh kéo chúng ta rời thực tế, phiền não vụt tan biến
theo, chúng ta tập trung tư tưởng đến quên cả sinh mệnh, quên
đi sự hiện hữu của thân tứ đại, thì thấy được Phật chân thật
hiện 32 tướng tốt và tác dụng vào tâm chúng ta, khiến cho tâm
chúng ta sanh lòng hoan hỷ, lúc đó mới cảm thông liên hệ với
Phật được. Tượng chỉ có giá trị đối với những người nhận được
hương vị giải thoát, ngược lại người thấy tượng vẫn sừng sững
một khối bê tông thì hoàn toàn không lợi ích gì, muôn đời họ
vẫn đứng ngoài thế giới an vui mầu nhiệm của chư Phật.
-
Tuy rằng Đức Phật đã xử dụng tục đế hay nói khác là dùng nhiều
phương tiện như vậy, nhưng mục đích chánh cũng chỉ đưa tới một
cái gọi là Phật Thừa, tức là con đường duy nhất. Và mục đích
của công trình đó là đưa tất cả chúng sanh đến cái gọi là Nhất
Thiết Chủng Trí, mà nghĩa lý cũng tương đương với tri kiến của
Phật, với cái thấy, cái trí tuệ của Phật. Ðó là cái trí tuệ
cao siêu nhất, và đó cũng là cái mục đích của tất cả những
người tu học. Bản hoài của Phật là trao truyền cái đó, chứ
không trao truyền một cái gì giá trị hơn. Thế nhưng người ta
chưa có điều kiện để tiếp nhận điều đó thì chúng ta phải dùng
cái gọi là phương tiện để giúp cho họ từ từ tiến tới, để một
ngày nào đó họ có cái khả năng, họ hội dủ duyên để tiếp nhận
được điều quý nhất mà họ có quyền tiếp nhận. Vì thế cho nên
nếu Phật đã khai mở ra làm ba con đường chẳng qua đó chỉ là
phương tiện thôi. Muốn thực hiện một điều gì mà thời gian và
không gian chưa thuận tiện thì chúng ta phải dùng những phương
tiện nầy, phương tiện kia để làm cho những điều kiện hội đủ.
Khi có đủ phương tiện rồi thì mình mới có thể thực hiện điều
chính yếu.
-
Mặc dầu vậy Ðức Phật Ngài cũng xác định là A La Hán hay Duyên
Giác phải thực sự là những người có Bồ Ðề tâm, nếu không thì
họ chưa phải là những vị A La Hán hay Duyên Giác.
-
Ðức Phật Ngài định nghĩa A La Hán đích thực phải có lòng từ bi
phải có thái độ dấn thân cứu khổ. Còn cái thái độ trốn tránh
những khổ đau trong cuộc đời thì không phải là A La Hán đích
thực, không thể đạt Niết Bàn đích thực. Vì vậy nếu phân chia
ra và cho rằng A La Hán là những người chỉ lo tự độ và các vị
Bồ Tát là những vị lo độ cho người, là một sự phân biệt hời
hợt. Trong các kinh xuất hiện trước đó có thể đã có ý niệm
rằng A La Hán là những người chỉ lo tự độ, còn Bồ Tát là những
người lo độ tha. Tuy nhiên ở Kinh Pháp Hoa chúng ta thấy một
quan điểm khác, đó là A La Hán đích thực cũng lo độ tha, nếu
chưa có cái niệm độ tha thì họ chưa phải là A La Hán đích
thực. Hiểu như vậy thì chúng ta mới thấy trọn vẹn ý nghĩa chân
đế và tục đế dung thông của Ðức Phật.
-
-
Tài Liệu Tham Khảo
-
- Lược Giải Kinh Pháp Hoa
-
- Phật Học Tự Ðiển
-
- Phật Học Tinh Hoa
-
- Thanh Tịnh Ðạo
|