-
Chánh Tư Duy
-
Trúc Giao
-
--o0o--
-
-
Trong những tháng năm gần đây, từ khắp nơi trên thế giới, nhất
là những nước chậm tiến đã và đang lên tiếng báo động các nạn
ô nhiễm. Người ta lo sợ ô nhiễm thành phố, ô nhiễm không khí,
ô nhiễm biển cả, ô nhiễm sông ngòi, ô nhiễm của thị giác, ô
nhiễm thính giác, ô nhiễm tỷ giác .. v.v... Do đó các nhà khoa
học và xã hội học đã bỏ rất nhiều công trình khảo sát, thí
nghiệm, nghiên cứu và tiêu hao không biết bao nhiêu tiền của,
năng lực, thì giờ để tìm phương cách bài trừ các loại ô nhiễm.
Ô nhiễm môi trường sống chung quanh thì các nhà khoa học, và
xã hội học hô hào bài trừ, và đã không ngừng tìm tòi nghiên
cứu để phục vụ cho nhân loại, nhưng còn ô nhiễm trong tâm trí,
những bợn nhơ tinh thần, tâm thức mà kẻ ít người nhiều, chúng
ta đã từ vô lượng kiếp trong quá khứ mang theo đến cõi đời nầy
thì ít có người nhắc đến. Biết rằng những nghiên cứu và sự
thành tựu rực rỡ của các nhà khoa học và xã hội học trong công
việc phục vụ nhân sinh ít nhất về phương diện vật chất cũng là
điều đáng quý. Còn về phương diện tinh thần, thật ra đây không
phải là điều mới lạ, nhưng chỉ vì chúng ta không mấy quan tâm,
cho nên chúng ta không biết đến, hoặc biết nhưng cố tình quên
lãng. Tuy nhiên nếu chịu khó, chúng ta nhìn trở lại vào những
năm 624 trước công nguyên, có một nhà khoa học đã ra đời thi
hành những nguyện vọng đó. Gọi nhà khoa học, là gọi theo danh
từ của thời đại, nhưng nếu gọi là Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật thì đó là từ ngữ mà đệ tử của Ngài thường gọi. Đức Phật
đã nhận thấy mối hiểm họa vô cùng tai hại của sự ô nhiễm tinh
thần, cho nên Ngài cảnh giác:
-
- Không có lửa nào như tham ái, không có ngục tù nào như sân
hận, không có màn lưới nào như si mê, và không có dòng sông
nào như ái dục.
-
Lửa trên thế gian dầu nóng như thế nào đi nữa, ngục tù kềm kẹp
của thế gian dầu có khắc nghiệt, tàn ác đến đâu nữa, và những
màn lưới của thế gian có chặt chẽ tệ hại ra sao đi nữa, cũng
chỉ thiêu đốt, gây đau khổ hay trói buộc ta suốt trọn một kiếp
sống là cùng. Nhưng sự ô nhiễm tinh thần sẽ đi theo chúng ta
từ kiếp này sang kiếp khác, mãi mãi, triền miên trong vòng
luân hồi sanh tử, nếu chúng ta không biết cách chấm dút. Ô
nhiễm tinh thần trên phương diện ái dục sẽ lôi cuốn và đẩy
mạnh chúng ta vào biển khổ trầm luân. Nếu chúng ta sáng suốt
nhận định rằng bản chất của đời sống là đau khổ và nguyên nhân
của đau khổ là ái dục, thì chúng ta mới thấy Ðức Phật là người
đã vạch ra một lối sống, tự bản thân khép mình vào lối sống
đạo đức ấy để thành đạt mục tiêu cứu cánh một cách vẻ vang, và
đồng thời Mgài mở lòng từ mẫn khai hóa cho những ai muốn nghe,
muốn suy tư, và có ý chí để thực hành. Do vậy Ðức Phật dạy:
-
- Này chư Tỳ Kheo, đây là chân lý về Con Ðường dẫn đến diệt
khổ. Ðó là Bát Chánh Ðạo: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ,
Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh
Ðịnh.
Ðây là Con Ðường chia làm tám chi bao gồm tám năng lực tinh
thần hùng mạnh và có tính cách thiện. Tám chi của con đường
phải được tập trung lại để đánh đổ một năng lực bất thiện, ái
dục, dai dẳng ngủ ngầm bên trong ta.
-
Trong Tám Chánh Đạo, chi thứ nhì là Chánh Tư Duy tức là suy tư
chân chánh. Người có những tư tưởng hướng đến hành động chân
chánh, là quyết định hay lập tâm quyết thực tập hành động chân
chánh.
-
Tư tưởng chân chánh bắt nguồn từ sự hiểu biết chân chánh và
dẫn đến hành động chân chánh. Người hiểu biết chân chánh, hay
nói cách khác, người có Chánh Kiến, thì người đó chắc chắn
phải có sự suy tư chân chánh. Người có suy tư chân chánh,
chính là Chánh Tư Duy. Ðàng khác, người có suy tư chân chánh
chắc chắn cũng có sự hiểu biết chân chánh. Một người có được
tri kiến thâm diệu về bản chất thật sự về kiếp sinh tồn của
con người, và được thành tựu là nhờ sự suy tư sâu sắc do sự
quán chiếu tường tận thì sẽ tạo cho con người như vậy có một
giá trị tinh thần, đạo đức chân chánh, tương xứng với tri kiến
của họ. Như vậy, hai chi đầu của Bát Chánh Ðạo: Chánh Kiến và
Chánh Tư Duy có liên quan với nhau mặt thiết và ảnh hưởng với
nhau rất chặt chẽ. Hai chi này hợp thành giai đoạn Tuệ của Con
Ðường Giải Thoát.
-
Chánh Tư Duy nằm khoảng giữa và làm gạch nối liền, một bên là
Chánh Kiến và bên kia là bộ ba Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh
Mạng. Do hiểu biết chân chánh, nên phát sanh những tư tưởng
chân chánh. Do phát sanh những tư tưởng chân chánh, cho nên sẽ
dẫn đến hành động chân chánh, kết quả nầy được biểu hiện bằng
lời nói chân chánh, tạo nghiệp chân chánh và nuôi mạng chân
chánh. Ðiều này cho chúng ta thấy rằng Chánh Tư Duy không phải
chỉ là suy tư suông mà là sự suy tư bắt nguồn từ hiểu biết
chân chánh và đưa đến hành động chân chánh. Chánh Tư Duy, là
những tư tưởng chân chánh, mà cũng có nghĩa là quyết định chân
chánh, tiêu biểu như:
-
- Những tư tưởng không luyến ái,
-
- Những tư tưởng không thù hận,
-
- Những tư tưởng không hung bạo,
-
- Trao Giồi Trí Tuệ.
-
1- Tư Tưởng Không Luyến Ái
-
Như tất cả mọi người chúng ta ai cũng nghe Đức Phật thường
nhắc nhở. Ái dục là nguyên nhân sanh ra đau khổ. Do đó, loại
suy tư chân chánh đầu tiên là không nên luyến ái mà là phải
buông bỏ, khước từ. Dĩ nhiên, nhận thức rằng mọi xa hoa vật
chất là ảo huyền và thú vui vật chất không tạo hạnh phúc thật
sự vững bền rồi tự nguyện lìa bỏ tất cả để sống cuộc đời đơn
giản, để cố gắng sống hoàn toàn trong sạch là hình thức khước
từ cao thượng nhất. Cho nên Ngài dạy:
-
- Có những tư tưởng buông bỏ, từ khước những dục vọng trần
tục, không luyến ái vị kỷ vào tài sản sự nghiệp, xa lánh cuộc
đời phồn hoa đô hội và khoái lạc vật chất, không trìu mến,
luyến ái cái Ta, không bám chặt, đeo níu đời sống, là loại
Chánh Tư Duy đầu tiên.
-
Ðức Phật mô tả giáo lý của Ngài như là một con đường ngược
chiều với thời gian. Quả
thật như vậy, con đường
dẫn đến lợi lộc, địa vị
của trần gian, thuận theo trần thế là một, và con đường dẫn
đến Niết Bàn là con đường khác, con đường ngược chiều. Một
khi chúng ta thông hiểu
như vậy, thì chúng ta
không nên thỏa thích trong
mùi danh bả lợi của thế gian mà phải trau giồi hạnh buông bỏ.
Phải ý thức được con đường của thế gian là con đường tham
ái, dục vọng. Con người thế gian đi dài, thuận chiều theo con
đường ấy để mưu tìm hạnh phúc trong sự thỏa mãn tham dục của
mình. Giáo huấn buông bỏ mà Ðức Thế Tôn hướng dẫn chúng ta có
tính cách đi ngược lại sức lôi cuốn như thác lũ của tham vọng,
đi dần đến mức chấm dứt ái dục và đạt được hạnh phúc, không
phải trong sự thỏa mãn, mà trong sự tự nguyện dứt bỏ, từ khước
ái dục. Cho nên Ðức Phật thường dạy rằng:
-
- Dầu xuất gia hay cư sĩ, chúng ta cũng phải nên thận trọng
nhận thức mối nguy hại của nhục dục năm trần.
-
Đức Phật ví năm món dục trong cuộc đời như cục xương khô, như
ngọn đuốc mà chúng ta cầm đi ngược chiều gió, như một hầm than
đỏ, như một giấc mơ. Dầu là bậc xuất gia hay hàng tại gia cư
sĩ, nguyên tắc chỉ đạo chính yếu được ghi nhận vẫn là phải
hoàn toàn tận diệt mọi hình thức ái dục mới có thể thành tựu
giải thoát trọn vẹn.
-
Từng bước một, chúng ta càng xa lìa ái dục là chúng ta càng
đến gần giải thoát. Biết rằng ái dục là nguồn cội phát sanh
đau khổ và biết rằng chấm dứt hay giảm sự đau khổ đến mức độ
nào là tùy thuộc ở sự chấm dứt hay mức độ giảm sự ái dục của
chúng ta. Người Phật Tử thuần thành chúng ta phải cố gắng phát
triển tâm buông bỏ.
-
Trên lý thuyết dường như đơn giản, nhưng chính ở tại điểm này,
chúng ta gặp phải một sức đối đầu mạnh mẽ từ bên trong. Từ
lâu, tâm của chúng ta đã quen lợi danh, bám víu, nắm giữ và
tích trữ. Thói quen ấy đã trở thành bản tánh tự nhiên, không
dễ gì dùng ý chí một sớm một chiều mà thay đổi được. Dầu lý
trí có ưng thuận buông bỏ, nhưng tâm và sự ảnh hưởng của ái
dục vẫn còn khư khư chấp thủ, không bằng lòng từ bỏ. Do đó,
vấn đề bây giờ là làm thế nào để chúng ta gỡ cái tâm của chính
mình ra khỏi sự chi phối của ái dục. Ðức Bổn Sư không dạy
chúng ta phải đè nén hay cưỡng bách, xua đuổi ái dục ra khỏi
tâm, vì hành động đó chỉ là giải pháp tạm thời. Phương pháp mà
Ðức Phật trao truyền để chúng ta diệt trừ ái dục là sự hiểu
biết chân chính, và sự tư duy chân chánh về bản chất của mọi
sự vật.
-
Tư tưởng không luyến ái, thật sự không phải là vấn đề tự ép
buộc mình cố gắng buông bỏ những gì được coi là sâu kín trong
lòng chúng ta mà là vấn đề tự chúng ta thay đổi sự suy tư của
mình, đồng thời nhìn sự vật dưới ánh sáng của trí tuệ. Khi
chúng ta suy tư tận tường và thấu triệt đầy đủ bản chất thật
sự của ái dục, và những đối tượng của nó thì chính nó sẽ tan
biến mà không cần phải chiến đấu.
-
Ngày nào mà chúng ta chưa nhận thức rằng ái dục là nguồn gốc
của khổ đau, và đau khổ luôn luôn dính liền với ái dục. Và
ngày nào mà chúng ta chưa biết được bản chất của ái dục là
khát khao và bám chặt vào một cái gì không ngừng biến chuyển,
một cái gì không thật sự có trong lúc chúng ta không thể kềm
chế, thì ngày đó chúng ta không thể nào tránh khỏi sầu muộn,
đau buồn, thất vọng. Cho đến chừng nào chúng ta không còn
luyến ái và không cố bám víu, không cố giữ những gì mà lúc
bình thường chúng ta cứ tưởng chừng như đó là nguồn hạnh phúc
duy nhất trên đời, thì lúc đó chúng ta mới thật sự hạnh phúc
nhất trên đời. Cách sống nầy là người có Chánh Tư Duy.
-
2- Tư Tưởng Không Thù Hận
-
Tư tưởng không thù hận là một cách gọi khác của sự phát triển
tâm từ. Tâm từ trong Phật giáo là muốn nói đến tình thương
rộng lớn bao la. Tình thương nầy không có giới hạn hay có một
sự phân biệt nào. Những tôn giáo cũng có những lời dạy nên
thương người láng giềng, người đồng đạo, người đồng chủng,
người đồng hương, người đồng chí, người đồng loại.. v..v...
Những lời dạy đó đều tốt, và tất cả những tình thương ấy đều
trong sạch, tốt đẹp và cần thiết trong xã hội, tuy nhiên đó là
tình thương giới hạn trong cái chung cùng của thế gian. Nghĩa
là giữa chúng ta và chúng sanh nào đó có một điểm gì đó chung
cùng, một cái gì chung cùng với cái ta của chúng ta thì chúng
ta mới có tình thương. Ðồng thời có sự phân biệt với những
người khác, những người không có một cái gì chung cùng với
chúng ta. Chúng ta thương người láng giềng của ta, người chung
một tôn giáo với ta, cùng một chủng tộc với ta, một xứ sở với
ta.. v.v... Tất cả đều lấy cái Ta làm trung tâm điểm rồi từ đó
tình thương mới phát xuất, đó là bản chất tự nhiên của con
người. Như vậy nói đến tình thương là nói đến một cái gì tốt
đẹp, nhưng do vì vì còn có sự phân biệt, và có sự giới hạn
trong tình thương đó, cho nên nó không phải là tình thương
giống như tâm từ trong Phật Giáo.
-
Như chúng ta đã biết, tình thương vẫn là tình thương, với tất
cả những gì tốt đẹp, dịu hiền, dễ mến của nó. Xã hội không thể
tồn tại nếu không có những tình thương. Tuy nhiên ở đây chỉ
muốn nói rằng tâm từ của Phật Giáo không phải như vậy, mà Tâm
Từ của người học Phật có tính cách siêu việt hơn, thâm trầm
hơn. Tâm từ trong Phật Giáo là bao trùm toàn thể chúng sanh,
toàn thể càn khôn vũ trụ, vô lượng, vô biên, không có sự phân
biệt nào. Người thực hiện tâm từ phải vượt lên khỏi mọi hình
thức chia rẽ, riêng tư, không bị giam hãm trong những tư tưởng
hẹp hòi, không chịu ảnh hưởng bơi tinh thần đấu tranh giai
cấp, quốc gia, chủng tộc, tôn giáo mà là nhìn tất cả thế gian
là quê hương của mình, và mỗi người, mỗi chúng sanh, là bạn
đồng hành trong cuộc đời mà chúng ta gọi là đời sống của muôn
loài vạn vật.
-
Người có tâm từ, hòa đồng với tất cả, tự mình chan hòa trong
toàn thể, xem vạn vật và mình là một. Một loại tâm như vậy quả
thật là cao thượng! Nhưng cũng rất khó thực hành. Vì lẽ chúng
ta còn là phàm nhân. Chúng ta còn phân biệt đây là Ta, kia là
cha, là mẹ, là vợ, là chồng, là con, là cháu của Ta. Cái này
là tiền của, sự nghiệp, cái kia là danh vọng, quyền thế của Ta
..v.. v.. Chư vị A La Hán đã tận diệt ngã chấp cho nên Tâm từ
của các Ngài như vừng thái dương, bao trùm vạn vật mà không có
sự phân biệt nào. Ðức Phật là kết tinh, là hiện thân của tâm
từ vô lượng vô biên ở mức độ cùng tột. Ðó là những gương lành
trong sạch để chúng ta noi theo, là lý tưởng thanh cao tuyệt
đỉnh để chúng ta hướng tâm về. Những tư tưởng nào hướng về tâm
từ vô lượng ấy là Chánh Tư Duy.
-
3- Tư Tưởng Không Tàn Bạo:
-
Người có tư tưởng hung bạo là người thường gây đau khổ cho
người khác mà không biết xót thương, không động lòng trước
tình trạng đau khổ của người khác. Nghịch lại với nghĩa của tư
tưởng hung bạo là tư tưởng bi mẫn, là động lực làm cho chúng
ta rung động trước cảnh khổ của người khác, là một cái gì đó
thoa dịu lòng khổ đau của người, là thiện ý muốn giúp người
thoát một cảnh khổ. Tâm không hung bạo là Tâm Bi. Cũng như tâm
từ, tâm bi phải vô lượng, vô biên, không bị hạn định trong một
gia đình, một xóm làng, một quốc gia, một tôn giáo, một giai
cấp hay một loại chúng sanh nào. Ðối tượng của tâm từ là toàn
thể chúng sanh. Chúng sanh khổ và chúng sanh không khổ đều
không có sự phân biệt, và đối tượng của tâm bi cũng là những
chúng sanh xấu số, đang ở trong cảnh khổ, và tác dụng của tâm
bi là gia công giúp người đang khổ thoát ra khỏi hoàn cảnh bất
hạnh ấy. Người có tâm bi chuyên lo nâng đỡ kẻ thấp hèn, nghèo
đói, cô thân, tuyệt vọng, chăm nom săn sóc người bệnh hoạn tật
nguyền, khuyên nhủ dỗ dành người thất bại, dẫn dắt và cứu độ
người tội lỗi và soi sáng người tối tăm lầm đường lạc nẻo.
-
Thấy người hoạn nạn rồi âu sầu ủ dột, phiền muộn khóc than thì
không đúng với tâm bi của Phật Giáo. Tâm bi trong Phật giáo
không phải là những giọt nước mắt chảy suông trước sự đau khổ
của kẻ khác. Ðặc tính của tâm bi là ý muốn giúp người khác
thoát khỏi một cảnh khổ chớ không phải là phiền não âu sầu với
họ. Lòng người có tâm bi thật là mềm dịu, hơn cả những cánh
hoa mềm mại, không bao giờ hành hung hay làm điều chi phương
hại đến kẻ khác. Chính nhờ tâm bi mà con người có thể phục vụ
một cách hoàn toàn vị tha. Người có tâm bi không sống cho mình
mà sống cho kẻ khác và luôn luôn tìm cơ hội giúp người, nhưng
không bao giờ mong đợi được đền ơn đáp nghĩa. Người có những
tư tưởng hướng về tâm bi là người có Chánh Tư Duy.
-
4- Trau Giồi Trí Tuệ
-
Trí tuệ là điều kiện tối hậu để thấu triệt chân lý. Trong tam
học đó là: Giới, Định, Huệ. Giới và Định chỉ có mục đích mở
đường cho sự rèn luyện trí huệ. Nếu có lúc
Giới có khả
năng làm thân và miệng thanh tịnh, Định
có thể giúp tâm an trụ, thanh tịnh và chân chính thì
Huệ là phần chính yếu để
phát huy phần tâm linh quan trọng nhất của con người là trí
năng, để đạt đến cứu cánh giải thoát.
-
Chúng ta dù có hạnh nguyện Bồ Tát, Thanh Văn hay Độc Giác, hay
bất cứ loại hạnh nguyện nào đi nữa đều cũng cần phải luôn luôn
tinh tấn gọt dủa lưỡi gươm Trí Huệ để cắt đứt tận gốc rễ những
vọng chấp, phiền não hay những ô nhiễm còn đang ngủ ngầm trong
chúng ta dưới mọi hình thức: Ngấm ngầm hay bộc phát mãnh liệt,
đang chi phối đời sống của chúng ta. Trí huệ còn là một trong
6 pháp Ba La Mật, tức là sáu độ mà một vị Bồ Tát muốn trở
thành bậc Chánh đẳng Chánh Giác phải chuyên trì bất thối
chuyển. Chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, lúc còn là một vị Bồ
Tát, đã lấy trí huệ làm chính hạnh khi thực hành pháp Sáu Độ.
-
Trước khi nói đến ba nguyên nhân phát sanh trí huệ, chúng ta
thử bàn qua nghĩa của danh từ trí huệ là gì. Trong Phạn ngữ có
rất nhiều danh từ được dịch là trí tuệ, nhưng nghĩa của chúng
có ít nhiều sai khác như:
-
- Biện Tướng Trí:
Tức là lọai trí huệ phân biệt được chân tướng vô thường, khổ
não, vô ngã của hiện tượng giới.
-
- Minh Giải Trí:
Tức là lọai trí huệ phân tích và biện giải các pháp một cách
minh bạch.
-
- Phá Tướng Trí:
Tức là lọai trí huệ trực nhận chân lý, phá chấp tướng của vạn
hữu. Phá tướng trí chính là trí huệ của Chư Phật và chư Bồ Tát
bất thối.
-
- Ngoài ra chúng ta thường quen gọi là
Bồ Đề tức
trí giác ngộ,
trí của bậc đã quán thông đạo lý, dứt trừ phiền não, vọng
chấp.
-
Tuy có nhiều danh từ, có nghĩa sai khác nhưng tựu trung trí
huệ có nhiệm vụ tối hậu và tất yếu là diệt tận vô minh để nhận
chân được lý nhân quả, luật thành trụ hoại không và nhất là
thấy rõ được ba chân tướng của vạn hữu là: Vô thường, khổ não
và vô ngã. Vì trí huệ đã đóng vai trí quan trọng trong lý
tưởng giải thóat con người ra khỏi vọng chấp, cho nên Đức Phật
đã tận tình chỉ dạy cho chúng sanh phương pháp rèn luyện trí
huệ. Thật vậy, chính Ngài đã chỉ cho chúng ta ba nguyên nhân
phát sanh trí huệ:
-
1- Nghe Nhiều Học Rộng:
-
Một trong những điều đem lại lợi ích cho sự giải thoát mà Đức
Phật đã dạy là đa
văn. Đa văn ở đây là muốn nói đến nghe nhiều
chánh pháp. Theo kinh điển để lại, trong suốt 49 năm hoằng
dương giáo pháp của Đức Phật, có rất nhiều người đắc quả thánh
hay ngộ được chân lý khi nghe Ngài thuyết Pháp. Không những
thế, ngay cả hàng Thanh Văn, đệ tử Phật trong khi thuyết Pháp
cũng đã độ được rất nhiều người nhập vào dòng Thánh. Như Thầy
Xá Lợi Phất chỉ nghe một câu kệ ngôn do Thầy Mã Thắng nói đã
trực nhận được lý nhân quả và chứng ngộ đạo quả Tu Đà Hoàn. Và
sau khi Thầy Xá Lợi Phất được Đức Phật cho xuất gia vào hàng
tăng lữ, một hôm Thầy lãnh sứ mạng đi giáo huấn nhóm Tỳ Khưu
chia rẽ Tăng theo Đề Bà Đạt Đa. Khi Thầy giảng đạo lý xong tất
cả các vị tỳ khưu ấy đều đắc quả A La Hán.
-
Trong kinh điển cũng có ghi chép nhiều trường hợp khác tương
tự. Một hành giả có thể nghe một tiếng chim hót, thấy một
chiếc lá rơi, một ngọn đèn tắt, hay nhìn những bong bóng nước
vỡ tan trên mặt hồ mà liễu ngộ được chân lý. Tất cả những hiện
tượng nội tâm hay ngoại giới, như dòng nước trôi chảy, một
trạng thái tâm linh sinh lên rồi hủy diệt đều là những bài học
quí giá cho những ai biết chăm chú nhìn, biết lắng tai nghe.
Trí huệ phát sinh do nghe, thấy, học hỏi, nhận xét như thế gọi
là Văn Huệ.
-
2- Suy Tư:
-
Vì văn huệ chưa được hoàn hảo, nên Đức Phật dạy phương pháp
rèn luyện trí huệ thứ hai sắc bén hơn, hiệu quả hơn là Tư Duy
hay Quán Xét về những điều mình đã thâu thập được bằng văn
huệ. Nghĩa là những điều gì mà chúng ta nghe, thấy, học hỏi
được chỉ là kiến thức vay mượn. Muốn hấp thu những điều mắt
thấy tai nghe để trở thành kiến thức của chính mình thì chúng
ta phải tinh luyện qua nhiều giai đoạn suy tư và phán đoán,
nghĩa là phải phân tích, tổng hợp, loại suy hay so sánh để tìm
ra sự thật. Nhưng không phải sự tư duy nào cũng đều đem lại
trí huệ. Đức Phật dạy có hai loại tư duy:
-
- Chánh Tư Duy là loại tư duy giúp tâm chúng ta thanh tịnh,
sáng suốt.
-
- Tà Tư Duy là loại tư duy làm cho tâm của chúng ta trở nên ô
nhiễm, và lu mờ.
-
Vậy muốn phát triển trí huệ trước hết chúng ta phải tránh
những tà tư duy như suy nghĩ về dục lạc, suy nghĩ về thù oán,
suy nghĩ về những phương kế ám hại người khác và thường xuyên
chiêm nghiệm ba chân tướng: Vô thường, khổ não, vô ngã của tất
cả các pháp hữu vi pháp.
-
Thầy Bàn Đặc là một người ít học, Thầy cố gắng học một bài kệ
chỉ có bốn hàng trong bốn tháng mà vẫn chưa thuộc. Vị sư huynh
của Thầy thấy vậy khuyên Thầy nên hoàn tục, nhưng Thầy quá
quyến luyến đời sống đạo hạnh không nỡ từ bỏ. Đức Phật thấy
đạo tâm của Thầy quá dõng mãnh nên đưa cho Thầy một chiếc khăn
tay màu trắng, và dạy phải quán chiếu mỗi ngày. Thầy làm y như
lời dạy của Đức Phật, chẳng bao lâu chiếc khăn bị bụi, mồ hôi
bám vào và trở nên dơ bẩn ố màu. Thấy sự kiện đó, Thầy suy gẫm
về tánh cách vô thường của đời sống, trực nhận được chân lý và
đắc quả A La Hán.
-
Trí huệ phát sanh do suy xét chân tướng của vạn hữu gọi là
Tư Huệ.
-
3- Thực Hành
-
Cuối cùng, một phương pháp rèn luyện trí huệ được Đức Phật
khen ngợi và khích lệ hàng đệ tử ứng dụng triệt để là Tu Huệ.
Giống như một ly nước đục được giữ yên, khi bao
nhiêu cặn bã đã lắng đọng thì nước sẽ trở nên trong suốt. Cũng
vậy nếu được giữ tâm của chúng ta an trú trong thiền định thì
tâm của chúng ta sẽ trở nên trong sạch, sáng suốt và nhờ đó mà
trí huệ phát sinh. Tu huệ vì thế được xem là phương tiện vững
chắc nhất giúp chúng ta đạt đến cứu cánh giải thoát. Trong
tinh thần khích lệ đại chúng, Đức Phật dạy:
-
- Dầu thông suốt kinh luật mà không hành trì, cũng chỉ như kẻ
mục đồng đếm bò cho kẻ khác. Người ấy không hưởng
được hương vị giải thoát. Trái lại dù thuộc ít kinh luật nhưng
cố gắng hành trì, từ bỏ Tham, Sân, Si hiểu biết chân chính,
tâm tự tại, không vọng chấp. Người ấy chắc chắn hương được
hương vị giải thoát.
-
Để làm sáng tỏ vấn đề nầy, chúng tôi xin được giới thiệu đến
đại chúng câu chuyện:
-
- Thuở nọ có hai vị Tỳ kheo cùng xuất gia và tu học theo Giáo
Pháp của Đức Phật. Một vị học nhiều hiểu rộng, thông suốt Giáo
Pháp nhưng chưa đắc đạo. Còn vị kia tuy học ít nhưng chuyên
cần tu niệm, không bao lâu đắc quả A La Hán. Một hôm trong
buổi thảo luận đạo trước mặt Đức Phật, vị phàm Tăng nêu lên
nhiều vấn nạn khúc mắc để khoe khoang tài bác học của mình.
Đức Phật thấy vậy liền đặt ra nhiều câu hỏi khác về sự thực
chứng đạo giải thoát. Hỏi đến đâu thì vị A La Hán trả lời đến
đó do kinh nghiệm bản thân của mình; trái lại vị phàm Tăng
không thể trả lời được, vì tự mình chưa giác ngộ.
-
Qua câu chuyện trong Kinh dạy nầy, chứng tỏ rằng Tu Huệ quan
trọng và siêu việt hơn Tư Huệ và Văn Huệ. Người có những tư
tưởng hướng về việc trau giồi trí tuệ là người có Chánh Tư
Duy.
-
Gần đây những phát minh của con người về phương diện kỷ thuật
được coi như thành công trong việc phục vụ nhân loai. Nhất là
phương diện y tế đã tiến bộ đến việc như thay tim, thay gan
lọc thận... sự tiến bộ nầy được coi như thành công và có thể
chữa trị nhiều chứng bịnh mà trước kia được xem là nan y. Sự
thành công nầy cũng đã làm kéo dài thêm tuổi thọ của con
người. Bên cạnh những tiến bộ của khoa học kỷ thuật là những
cuộc cải cách xã hội, kinh tế, chính trị cũng đã đem lại trật
tự, điều hòa và cải thiện cuộc sống của chúng ta. Tất cả những
lợi ích ấy được thực hiện nhờ công trình khảo sát thiên nhiên
một cách tỷ mỷ, có quy củ và có hệ thống. Con người cố gắng
điều chỉnh những điều kiện thiên nhiên để làm cho cuộc sống
của mình đươc thoải mái. Trong khi xác nhận những điều kiện,
phương tiện, và lợi ích mà chúng ta đang thừa hưởng từ những
công trình chế ngự thiên nhiên đã được thực hiện, chúng ta
cũng nhận định rằng con người hiện vẫn còn phải chịu đau khổ
và chưa viên mãn thành đạt hạnh phúc một cách trọn vẹn. Vì
hạnh phúc hiện chúng ta đang có chỉ là những phương tiện tạm
bợ, và phương cách mà chúng ta áp dụng để chữa trị bệnh đau
khổ không nhằm thẳng vào tận gốc rễ của chứng bệnh. Nghĩa là
chúng ta chỉ chữa trị trên bề mặt mà không đi sâu vào nguồn
gốc, chỉ nhìn cái ngọn mà không quan tâm đến cái gốc của nó.
Như vậy muốn sống một cuộc đời thảnh thơi và an lạc thì chúng
ta phải có những suy tư thật chính xác. Có suy tư chính xác,
chúng ta mới biết hạnh phúc và đau khổ phát sanh từ đâu và
được duy trì bằng cách nào. Biết được vấn đề, và nơi phát sanh
của nó nơi nào, thì chúng ta phải giải quyết ngay tại đó.
-
Theo cái nhìn, và sự suy tư nhất quán của người học Phật thì
hạnh phúc và đau khổ tất cả đều phát sanh và được duy trì
trong tâm, do đó chúng ta phải giải quyết vấn đề hạnh phúc và
đau khổ ngay chính trong tâm này. Thay vì tìm cách sửa đổi
hoàn cảnh bên ngoài để thích hợp với mình, Phật giáo dạy nên
tự sửa đổi chính mình để sống thích ứng với bên ngoài. Muốn
điều hòa với thiên nhiên bên ngoài, chúng ta phải điều chỉnh
lối suy tư của chính mình đối với sự vật để có một quan niệm
sống điều hợp với hoàn cảnh, nhằm sửa soạn thân tâm hoàn toàn
trong sạch và cuối cùng thoát ra khỏi mọi hình thức đau khổ.
-
Có một số người trong chúng ta vui vẻ mãn nguyện với những
hạnh phúc ảo huyền và tạm bợ của đời sống và tự nghĩ rằng thế
gian này quả thật tốt đẹp, quả thật là cảnh giới mà họ mong
mỏi. Họ tưởng rằng hạnh phúc lúc nào cũng nằm trong tay của
họ. Ðối với hạng người này không có ai là Phật, không ai thánh
thiện, không có vị giáo chủ hay vị lãnh đạo tinh thần nào trên
thế gian. Nhưng đa số những người khác thì hiểu biết rõ ràng
phần đen tối phũ phàng ẩn núp dưới cái được gọi là hạnh phúc
thân thiện của kiếp nhân sinh, xuyên qua kinh nghiệm của chính
bản thân họ và của những người sống quanh. Dưới mắt của những
người nầy, cuộc sống chẳng khác nào như một đại dương mênh
mông sâu thẳm, đầy hiểm họa và đau khổ. Những lúc trời êm biển
lặng, chúng ta có thể buông mình thả trôi trên mặt nước im lìm
không chao động thì quả thật là thích thú, nhưng nếu chúng ta
chịu khó mở mắt nhìn đời và mở rộng tâm trí, suy tư để khỏi bị
bề mặt giả dối của thế gian phỉnh gạt, có thể nhận định rằng
bão tố có thể nổi lên bất cứ lúc nào, những luồng nước lũ có
thể tuôn đến và xoáy tròn nguy hiểm như thế nào, và bao nhiêu
hiểm họa khác, tiềm tàng sâu ẩn trong lòng biển cả, đang chờ
đợi, có thể trổi dậy bất cứ lúc nào.
-
Nhìn thực tại ở chung quanh chúng ta. Chúng ta chưa từng thấy
có đời sống của người nào từ bé đến già mà được phẳng lặng như
nước ao hồ, không bị chút lo âu, sợ sệt hay sầu muộn làm chao
động. Chưa có một gia đình nào chưa từng khóc cái chết của một
người thân. Chưa có một trái tim nào chưa từng nhói đau vì
nghịch cảnh... Nghĩa là tất cả chúng ta ai cũng đều có vấn đề:
Những vấn đề sinh nhai, vấn đề gia đình, sức khỏe, vấn đề xã
hội, vấn đề kinh tế, vấn đề chính trị, vấn đề tâm lý.. v.v...
cho đến vấn đề tôn giáo. Có vấn đề tức là có một cái gì không
suông sẻ, có một cái gì cần phải giải quyết, tức là trạng thái
bất ổn, trạng thái xung đột, xung đột giữa ý muốn của ta và
những diễn biến của đời sống, tức có cái gì không được thỏa
mãn hoàn toàn, có tình trạng bất toại nguyện, đó là những hình
thức khác nhau của đau khổ.
-
Có người hỏi:
-
- Trong đời sống có đau khổ mà cũng có hạnh phúc. Tại sao
trong giáo lý Phật giáo chỉ đề cập đến đau khổ mà không nhắc
đến hạnh phúc?
-
Quả thật, trong đời sống cái được gọi hạnh phúc là khi chúng
ta đạt điều mong mỏi. Chúng ta mong có tài sản, được tài sản
là hạnh phúc. Muốn danh vọng, được danh thơm tiếng tốt là hạnh
phúc. Muốn quyền thế, được quyền thế uy lực là hạnh phúc. Tuy
nhiên, trong thế gian vô thường không ngừng biến đổi này tất
cả mọi sự đều nằm trong trạng thái luôn luôn trở thành một cái
gì khác, vì vậy hạnh phúc mà chúng ta khao khát chỉ ở trong
tầm tay của chúng ta trong giây phút mà chúng ta vừa nắm được
nó. Hạnh phúc ai cũng mong tìm, ai cũng khát khao muốn thành
đạt, nhưng lại không có được bao nhiêu người hài lòng. Trong
khi đó giáo lý Phật Giáo thường nhắc nhở:
-
- Ðời là khổ.
-
Khổ là trạng thái không thỏa mãn, làm cho chúng ta khó chịu
đựng, và như thế không ai muốn, nhưng cũng không ai tránh
khỏi. Chúng ta là người học Phật, chúng ta nên nhận thức rằng
hạnh thực chỉ là hình thức khác của đau khổ. Tuy nhiên Ðức
Phật không khi nào cố tình khuyên tất cả mọi người nên từ
khước những lạc thú trần gian, vào rừng tìm nơi thanh vắng để
lo tu hành. Ðức Phật đặt toàn thể giáo lý của Ngài trên nền
tảng đau khổ nhưng không bao giờ phủ nhận những lạc thú trong
đời. Chúng ta không tìm cách xa lánh những hạnh phúc vật chất,
nhưng hiểu biết rằng nó chỉ là tạm bợ nhất thời. Thọ hưởng
những lạc thú vật chất nhưng không làm nô lệ cho thể xác. Phật
giáo dạy ta nên tận lực cố gắng, kiên trì nỗ lực, luôn luôn
giữ tâm trong sạch và thận trọng thu thúc dục vọng. Phải luôn
luôn ý thức được rằng:
-
- Có thân tức có già, có bệnh, có chết, có khổ ...
-
Chúng ta không thể sửa đổi định luật hằng hữu nầy, hay chỉ có
thể làm được một cách vá víu tạm bợ. Phải hiểu rõ bản chất
thiên nhiên của đời sống là vậy, chúng ta phải hiểu rõ vấn đề
này. Chúng ta không thể sửa đổi định luật hằng hữu, mà chỉ có
thể kiểm soát và sửa đổi cái tâm của chính mình, làm cho nó
thích hợp với thiên nhiên. Ðó là lý do tinh thần tu học của
Phật Giáo luôn luôn chỉ cho chúng ta những cái gì sâu thẳm nằm
sau lớp bụi giả tạm để tìm một cái gì đó hạnh phúc chân thật,
đó là Chánh Tư Duy.
-
Như vậy Chánh Tư Duy trong Phật giáo là phương pháp giúp chúng
ta rèn luyện tâm một cách hữu hiệu. Trước tiên, lắng tâm an
trụ vào một điểm, làm cho nó trở nên vắng lặng, sáng tỏ và có
nhiều năng lực, rồi dùng tâm lực dũng mãnh ấy quán chiếu thâm
sâu vào sự vật, thấu triệt thực tướng của sự vật, thấy sự vật
đúng như sự vật là như vậy, không phải như mình nghĩ rằng nó
là như vậy, tức nhìn sự vật dưới ánh sáng của ba đặc tướng: Vô
thường, Khổ và Vô ngã. Khi nhận định đúng rằng trên thế gian
huyền ảo, tạm bợ và vô thường này, cho đến cái mà ta gọi là
hạnh phúc cũng không thể tồn tại vì những điều kiện tạo duyên
cho nó phát sanh luôn luôn biến đổi và do đó không thể có hạnh
phúc thật sự vững bền, Phật Giáo đi tìm nguồn gốc của đau khổ.
Không có sự suy tư nào phủ nhận sự hiện hữu của đau khổ, hay
bất toại nguyện, trên thế gian. Về nguyên nhân sanh khổ các hệ
thống tín ngưỡng tôn giáo khác đã giải thích bằng nhiều phương
cách khác nhau. Nhưng trong tư tưởng Phật giáo không có một
siêu lực huyền bí nào cầm quyền tưởng thưởng công đức và hình
phạt những tội ác của con người. Không có thưởng hay phạt đến
với chúng ta từ bên ngoài, bên trên, mà chỉ có nhân quả, tức
hành động và kết quả của hành động. Theo chiều hướng hiểu biết
này theo Phật Giáo gọi là Chánh Tư Duy, mà qua đó mỗi người,
mỗi chúng sanh đều là vị kiến trúc sư xây đắp số phận của
mình.
-
Chính chúng ta tạo thiên đàng và cũng chính chúng ta tạo địa
ngục cho chúng ta. Ðau khổ mà con người phải chịu hôm nay là
hậu quả dĩ nhiên của những nghiệp bất thiện mà con người đã
tạo lúc nào trong qúa khứ. Trong khi phần lớn những nhà tư
tưởng tìm đến một thần lực huyền bí hay một nguyên lý bên
ngoài, bên trên con người để giải thích nguồn gốc đau khổ của
nhân loại thì Ðức Phật nhìn vào bên trong con người để tìm
nguyên nhân, cũng như chứng bệnh đau khổ của con người. Và
Ngài đi đến kết luận:
-
- Những đau khổ của tôi là do hành động của tôi. Và hành động
của tôi là do ái dục của tôi thúc đẩy.
-
Nói tóm lại, vì tầm quan trọng của Chánh Tư Duy trong vai trò
đưa chúng ta giải thoát ra khỏi vòng sanh tử luân hồi và thể
nhập chân lý, cho nên người Phật tử chúng ta phải luôn luôn cố
gắng rèn luyện Chánh Tư Duy của mình bằng cách trưởng dưỡng tư
tưởng chân chánh, mà cũng có nghĩa là quyết định chân chánh,
tiêu biểu như:
-
- Những tư tưởng không luyến ái,
-
- Những tư tưởng không thù hận,
-
- Những tư tưởng không hung bạo.
-
- Cả ba phương pháp Văn, Tư, và Tu.
-
Khi Chánh Kiến và Chánh Tư Duy dần dần phát triển, hiểu biết
và suy tư chân chánh hỗ trợ lẫn nhau đưa đến nhận thức ngày
càng rõ rệt bản chất rỗng không của cái gọi là Ta. Chừng đó
tâm luyến ái, sân hận và hung bạo dần dần suy giảm, nhường chỗ
cho tâm buông bỏ,
tâm từ
và tâm bi.
Chánh Tư Duy là một trong những yếu tố hết sức quan trọng
trong việc tu và thực hành giáo pháp của Phật.
-
-
Tài Liệu Tham Khảo:
-
- Phật Học Tự Ðiển
-
- Ðức Phật Và Phật Pháp
-
- Kinh A Hàm
-
- Trung Bộ Kinh
|