TẬP SAN DƯỢC SƯ

Hành Trình Về Phương Tây II
Chơn Ðức
--o0o--
 
Muốn tự nâng cao cảnh giới của chính mình, thì chúng ta phải mở rộng tâm lượng, đó là một trong các những phương pháp tự nâng cao cảnh giới của mình để dung thông với đại thể. Ngoài ra chúng ta phải phát Bồ Đề tâm. Do đó chúng ta thấy các vị Bồ Tát lớn, tâm lượng của các ngài rộng lớn như hư không bao trùm khắp pháp giới, chính vì thế cái nhìn, và lòng thương yêu chúng sanh vạn lọai của các Ngài đối với tất cả chúng sanh trong hư không và các pháp giới đều bình đẳng như nhau.
Nếu chúng ta muốn ngay trong một kiếp nầy thật sự thành tựu được công phu tu học: Niêm Phật, Thiền Tọa và Kinh Hành. thì lúc xử thế, tiếp xúc với người, với vật, cái tâm duy nhất mà chúng ta cần phải có đó là Chân Tâm. Do vậy khi bị người khác lừa dối, hiếp đáp, chúng ta phải nghĩ như vầy:
- Đó là chuyện của họ, không dính dáng gì với tôi cả.
Việc của chúng ta là phải dùng tâm chân thật đối xử lại. Bởi vì chúng ta quyết định trong một kiếp nầy việc tu học của chúng ta phải thấy đạo. Làm thế nào để chúng ta thấy đạo đây là những suy tư của tất cả mọi người sơ cơ học đạo như chúng ta, tuy nhiên chúng ta hãy yên tâm vì trong kinh Đức Phật có dạy:
         - Phát lòng Bồ Đề, một hướng thực hành.
Quả thật như vậy, vì nếu chúng ta không phát lòng Bồ Đề, chỉ nương vào việc thực hành, nhiều khi kết quả không thể thấy đạo. Điều nầy chúng ta không lạ khi thấy có những vị thực hành hết sức tích cực nhưng tỷ số đạt được kết quả không cao. Lý do đơn giản là vì không phát tâm Bồ Đề nên tâm không thanh tịnh. Bởi tâm không thanh tịnh nên còn thị phi nhân ngã, tham, sân, si, mạn, nghi. Những thứ này không tương ứng với cảnh giới thanh tịnh của chư Phật. Một trong những cảnh giới tiêu biểu là Tây Phương Cực Lạc. Tây Phương Cực Lạc là nơi tụ hội của chư Thượng Thiện Nhân, nghĩa là chỗ ở của những người thuần thiện bậc nhất cư trú. Do vậy, cho dù chúng ta có hành trì tích cực đến đâu đi nữa, chúng ta niệm Phật, thiền tọa và kinh hành có siêng năng đến đâu đi nữa, hoặc một ngày có thể thực tập nhiều tiếng đồng hồ như vậy, nhưng tâm của chúng ta không thiện, thì cũng không thể nào thấy đạo, không thể nào sanh về cảnh giới Tây Phương ở cùng chỗ của bậc Thượng Thiện Nhân được. Vì thế việc phát bồ đề tâm quan trọng hơn cả việc nhất hướng chuyên tâm hành trì là như vậy. Khi chúng ta thật sự phát bồ đề tâm, nhất định là chúng ta thấy đạo, và khi muốn vãng sanh chỉ cần một niệm hoặc mười niệm thì chắc chắc sẽ vãng sanh. Bởi vì chúng ta đã là Thượng Thiện Nhân, đầy đủ phước đức rồi, như thế chỉ cần chợt khởi tâm muốn vãng sanh là được ngay. Cho nên những lời nói trong Kinh điển, chúng ta cần phải lưu ý, suy ngẫm kỷ lưỡng, tuyệt đối không nên tụng niệm cho có lệ.
Khi chúng ta phát tâm Bồ Đề tức là chúng ta đã quyết định gạt bỏ ra ngoài cái tà kiến tạp niệm để gom tâm về một mối, hay nói khác hơn là giây phút mà chúng ta phát tâm Bồ Đề là giây phút chúng ta trở về với chân tâm, bởi vì Chân Tâm là Thể của Tâm Bồ Đề, kế tiếp nói đến niềm tin sâu xa là Dụng của Tâm Bồ Đề. Niềm tin sâu xa đối với chính mình là luôn giữ tâm thích làm điều thiện, thích làm chuyện phước đức. Đối với chúng sanh thì phát khởi lòng đại từ bi, cứu nhân độ thế. Tuy nhiên nhân từ, hiếu thiện hiếu đức, là việc làm không thể miễn cưỡng, hoặc làm cho có hình thức bên ngoài mà nó phải lưu xuất một cách tự nhiên từ trong tâm mà ra. Cho nên người phát Tâm Bồ Đề, mỗi khi khởi tâm động niệm đều nghĩ đến việc làm lợi ích cho chúng sanh phá mê khai ngộ, thoát khỏi cảnh khổ được an vui. Không hề có một niệm nghĩ đến lợi ích cho cá nhân mình. Nếu còn một niệm ích kỷ tự lợi, là còn ngã chấp nặng nề, mà ngã chấp là gốc rể của lục đạo luân hồi! Vì vậy nếu chúng ta không bứng sạch gốc rễ này thì chúng ta không có cách nào ra khỏi ba đường sáu nẻo khổ đau. Cho nên ngay từ bây giờ, chúng ta cần phải thực tập hạnh buông xả, phải thực tập việc nghĩ đến người khác, nghĩ đến chúng sanh, nghĩ đến những người đang đau khổ, đang gặp những cảnh đời bất hạnh trên thế giới, tuyệt đối không nên nghĩ chuyện lợi ích cho riêng cá nhân mình nữa.
            Trong Kinh điển đức Phật cũng từng lập đi lập lại không biết bao nhiêu lần. nhưng chúng ta vẫn còn chưa tỉnh thức, vẫn còn u mê. cho nên Đức Phật vẫn phải lập đi lập lại một cách không mệt mõi để kêu gọi chúng ta. Một khi chúng ta phát khởi tâm Bồ Đề, thì ngay tức khắc liền được chư Phật hộ trì. Vì tâm của chư Phật là tâm Bồ đề. Như vậy tâm của chúng sẽ cùng với tâm của chư Phật không hề khác nhau. Có tính cách thực tập và đơn giản hơn, từ ngữ phát tâm Bồ Đề trước hết l à lập chí nguyện mong cầu tuệ giác vô thượng Bồ Đề, kế đó là phát triển tuệ giác ấy, cuối cùng phát hiện bản thể của tuệ giác đó là chân như. Giai đọan trước hết chí nguyện mong cầu tuệ giác vô thượng Bồ Đề hàm chứa hai tính chất mà thành ngữ thường nói:
- Thượng cầu Phật Đạo, hạ hóa chúng sanh.
Nghĩa là:
- Trên học đạo cầu thành Phật
Thành đạo xong nguyện hóa độ muôn loài chúng sanh
Như vậy đối với người học Phật chúng ta, việc phát tâm Bồ Đề không những là bước đầu cho sự nghiệp tu học mà còn là căn bản hành đạo, không những căn bản hành đạo mà còn là cứu cánh giải thoát nữa. Do đó mà tâm Bồ Đề trở thành căn bản của Bồ Đề giới, đối với chúng ta sự phát tâm Bồ Đề chỉ đối diện với Phật hay các bậc Thầy mà chúng ta có duyên, rồi chúng ta thành kính phát nguyện, sau đó chúng ta tuân thủ thực hành những gì mà chúng ta phát nguyện, trong khi đó bên mật giáo họ tổ chức rất long trọng, nghĩa là khi phát lòng Bồ Đề rồi còn có sự thọ Bồ Đề tâm giới với một nghi thức dành cho việc nầy.
Về lý do ngày xưa khi Đức Phật còn tại thế Ngài thường nhắc nhở chúng ta phát tâm Bồ Đề, và ngày nay chư tôn đức cũng khuyến khích chúng ta phát lòng Bồ Đề bởi vì ngoài nổi khổ sanh tử mà chúng ta mục kích và ý thức, có hai việc mà kinh luận đề cập nhiều nhất, đó là:
- Tự biết mình có thể làm Phật
- Và tha thiết hơn cả, nghĩ đến sư suy tàn của Phật pháp.
Cho nên ngoài văn phát nguyện hồi hướng, thì trong hai buổi công phu, nhất là thời công phu ban sáng sự phát tâm được thể hiện trong đoạn văn chính sau đây:
- Nguyện kim đắc quả thành bảo vương
Hòan độ như thị hằng sa chúng
Tương thử thâm tâm phụng trần sát,
Thị tắc danh vi báo Phật ân
Phục thỉnh Thế Tôn lại chứng minh
Ngũ trược ác thế thề tiên nhập
Như nhất chúng sanh vị thành Phật
Chung bất ư thử thủ nê hòan
Đại Hùng Đại Lực, Đại Từ Bi
Hy cánh thâm trừ vi tế hoặc
Linh ngã tảo đăng vô thượng giác
Ư thập phương giới tọa đạo tràng
Thuấn nhã đa tánh khả tiêu vong
Thước ca ra tâm vô động chuyển.
Nghĩa là:
- Nay con nguyền chứng ngôi Chánh Giác
Ðộ chúng sanh như cát sông Hằng
Thân, tâm này nát như trần (bụi)
Hồng ân chư Phật, chút phần báo ơn.
Cung thỉnh Thế Tôn lại chứng minh
Ðời năm trược con xin vào trước
Một chúng sanh quả Phật chưa thành
Con nguyền không chứng vô sanh Niết Bàn
Ðại Hùng, Ðại Lực, Ðại Từ Bi
Giúp con dứt sạch sân, si, buồn phiền
Ðể sớm được lên miền Thượng Giác
Ngồi Ðạo Tràng bát ngát mười phương
Hư không có thể tiêu tan
Nguyện con kiên cố không hề lung lay.
Buổi chiều cũng vậy, ngoài văn phát nguyện hồi hướng, thì sự phát lòng Bồ Đề được thể hiện trong hai đọan văn chính sau đây:
- Ngã kim phát tâm, bất vị tự cầu Thanh Văn, Duyên Giác, nãi chí quyền thừa chư vị Bồ Tát, duy y tối thượng thừa, phát Bồ Đề tâm, nguyện dữ pháp giới chúng sanh nhất thời đồng đắc A Nậu đa la tam miệu tâm Bồ Đề.
Nghĩa là:
Con nay phát tâm chẳng vì tự cầu phước báo nơi chốn Nhơn Thiên hay quả Thanh Văn, Duyên Giác, nhẫn đến các quả vị Bồ Tát tối cao, con chỉ phát lòng Bồ Ðề rộng lớn nguyện cho chúng sanh trong pháp giới, cùng một lúc đồng chứng ngôi Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Và:
- Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đọan
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Nghĩa là:
- Chúng sanh không số lượng
            Thệ nguyện đều độ hết,
            Phiền não không cùng tận
            Thệ nguyện đều dứt sạch
            Pháp môn không kể xiết,
            Thệ nguyện đều tu học,
            Phật Ðạo không gì hơn
            Thệ nguyện trọn viên thành.
Khi mà tâm lượng của chúng ta rộng lớn như vậy, có nghĩa là chúng ta đã thấy đạo, do đó thì tâm của chúng ta chính tâm của chư thượng thiện nhân, lúc đó nếu có phải ở trong thế giới nầy thì cũng là tâm nguyện độ đời, hoặc có muốn vãng sanh về cảnh giới nào đi nữa thì cũng được tự tại đi lại. Theo qua điểm của Tịnh Độ Tôn trong vãng sanh truyện chúng ta thấy có rất nhiều người do công phu niệm Phật được vãng sanh rất tự tại, biết trước giờ giấc ra đi, không một chút bệnh hoạn, gương mặt lại tươi đẹp hơn lúc bình thường. Nhiều người không hiểu lại cho rằng, niệm Phật thiền tọa và kinh hành để thấy đạo, thì điều nầy thì có thể yên lòng, nhưng để được vãng sanh, có nghĩa là chết liền cho nên họ rất sợ. Bởi vì họ nghĩ rằng một người đang khỏe mạnh và còn đang yêu đời, gặp bạn bè khuyến khích đi tu niệm mới được ba năm đã vãng sanh có nghĩa là phải chết, cho nên rất là sợ và không dám hành trì nữa.
Những người có ý nghĩ như vậy, vì họ không hiểu được ý nghĩa, giá trị cao đẹp của sự vãng sanh, nên mới bị những suy nghĩ tham sống sợ chết, luyến tiếc trần cảnh để phải chịu trôi lăn mãi trong lục đạo luân hồi. Chúng ta phải biết rằng khi đã phát lòng Bồ Đề, dấn thân vào con đường thực hành nhất là thực hành pháp môn:
- Niệm phật, thiền tọa và kinh hành
Là pháp môn niệm không có sinh tử, vì vậy vãng sanh không phải là chết, mà vãng sanh là sống mà ra đi. Còn chết là không thể vãng sanh. Cho nên pháp môn này còn gọi là pháp môn không sanh, không diệt. Vì trong lúc vãng sanh chúng ta rất tỉnh táo không có sợ hải, và thấy Phật tới rước rồi theo Phật ra đi. Lúc đó cái xác tạm bợ của thế gian này không còn dùng nữa. Sau khi lên đến cõi Tây Phương Cực Lạc chúng ta sẽ được một thân tướng trang nghiêm đep đẽ y như đức Phật A Di Đà. Như vậy tuyệt đối không phải chết.
Chúng ta phải biết rằng: Pháp môn này là pháp môn không già, không bệnh, không chết. Quý vị hãy yên tâm, dừng bước, lắng lòng nhất hướng mà chuyên tâm hành trì cho tới bến. Chỉ cần chúng ta chuyên tâm niệm Phật, thiền tọa và kinh hành, tới lúc tâm được thanh tịnh thì tất cả những chuyện khổ đều không còn nữa, gương mặt lúc nào cũng tự tại vui cười, vì vui tươi nên không già. Người xưa có câu:
- Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ
Hoặc là:
- Ưu tư khiến cho người mau già
Quả thật như vậy, lo buồn khiến chúng ta rất dễ lão hóa. Hiện giờ chúng ta còn đang mang cái nghiệp báo thân này, sống chết không một chút tự do. Những lúc khổ quá, thọ mạng chưa hết, muốn chết mà vẫn phải sống, đến khi có phước báu nhiều rồi, muốn sống thêm vài năm để hưởng thụ nhưng thọ mạng đã dứt, chừng đó muốn sống vẫn phải chết. Do đó, khi chúng ta phát tâm niệm Phật, thiền tọa và kinh hành, hoặc đi đến Chùa Dược Sư, hoặc bất cứ Chùa nào mà quý vị thấy thích, thấy có duyên với chúng ta thì cứ đến đó để tham gia với Phật sự ở đó nhất là sự tu tập, lúc đó, thân tâm, thế giới, vạn duyên bên ngoài, tất cả đều buông xuống hết, chỉ còn có câu hồng danh: A Di Đà Phật, thiền tọa và kinh hành với niềm vui đạo hạnh tràn ngập trong lòng, đó gọi là pháp hỷ sung mãn, thì lúc đó:
- Đường quanh quanh một giấc mơ
Giật mình tỉnh giấc ai ngờ trăng lên
Trăng lên rừng núi mông mênh
Dưới tàng cây tuyết đôi bên mái nhà
Người với người, ta chính ta
Hướng về tâm nội lựa là tìm đâu
Tìm đâu cho được đạo mầu
Bồ Đề phiền não một câu kinh hành.
Sự chuyên cần tu tập đến lúc công phu thành khối, chúng ta sẽ không còn ràng buộc bởi cái khổ của bệnh già và chết, chừng đó sanh tử tự tại, muốn ra đi lúc nào tùy ý, muốn ở lại thế gian sống thêm vài ba năm cũng được. Lúc này cái sống của chúng ta hoàn toàn mang ý nghĩa cao đẹp và tự biết mình sẽ phải làm những điều gì. Người đạt mức sanh tử tự tại là người hội đủ phước báu lên thế giới Tây Phương Cực Lạc để hưởng thụ. Họ không ra đi mà tình nguyện ở lại vì xét thấy còn rất nhiều người có duyên với mình, mình phải giúp đỡ họ, phải độ cho họ, hi vọng có thể dẫn dắt thêm nhiều người cùng nhau về Tây Phương. Lý do sống chính đáng như vậy tuyệt đối không phải vì tham sống sợ chết, hay để hưởng thụ ở thế gian này. Thực ra sự hưởng thụ trên thế gian làm sao sánh bằng Thế giới Cực Lạc ở Tây Phương! Cái nhà mà chúng ta cho là đẹp và sang trọng nhất, đối với người cõi Tây Phương Cực Lạc họ không màng đến, bởi vì nhà cửa của họ ở là thất bảo cung điện, sàn nhà toàn bằng lưu ly tức là đồ cẩm thạch, đường đi trải bằng vàng, thức ăn chỉ cần nghĩ đến liền hiện ra, đồ vật mọi thứ đều do tâm nghĩ tưởng mà hiện hình. Cho nên nhà ở cõi Tây Phương Cực Lạc sạch sẽ vô cùng. Và, không cần có nhà bếp. Chúng ta thấy cuộc sống như vậy rất là sung sướng. Còn chúng ta đây, đồ đạc chất chứa đầy nhà, muốn dọn dẹp cho gọn gàng sạch sẽ cũng phải mất nhiều thời giờ và phiền phức vô cùng. Cho nên nếu chúng ta là người niệm Phật, thiền tọa và kinh hành đến khi công phu thành tựu rồi, nếu xét thấy mình không đủ duyên hóa độ chúng sanh ở thế gian này thì chúng ta cứ lên Tây Phương Cực Lạc để hưởng phước.
Sau khi lên đến thế giới Cực Lạc rồi, mỗi ngày được thấy Phật, được cúng dường chư Phật. Chúng ta có thể cúng dường vô lượng hằng hà sa số Phật. Sở dĩ trong kinh A Di Đà Ngài nói ít hơn như vậy vì Phật rất từ bi, ngài biết sự tỉnh thức của chúng sanh còn rất hạn chế, lên đến đó rồi mà đôi lúc còn khởi tâm nghĩ nhớ về ngôi nhà cũ và những người thân còn ở thế gian. Do đó ngài, mới phương tiện, mà nói cúng dường con số ít hơn, thực tế như vậy và bảo chúng ta còn thể trở lại thăm thế gian bất cứ lúc nào cũng đều có thể được.
Thế giới Tây Phương Cực Lạc trang nghiêm đẹp đẽ như thế. Đi đến đâu cũng có những thành tựu tốt đẹp như thế, cho nên chúng ta phải nên chuyên cần thực tập Niệm Phật, Thiền Tọa và Kinh Hành, một pháp môn có thể thành tựu dễ dàng như ước nguyện của chúng ta. Đối với các vị Bồ tát thành tựu ở những pháp môn khác, nếu không hội nhập vào cảnh giới này, đều cho rằng đây là một pháp môn khó tin, khó hiểu.
            Khi thực hành pháp môn Thiền Tịnh Song Tu, hay còn gọi là Nhị Lực Pháp Môn, chúng ta có thể nói với mọi người rằng niệm Phật, thiền tọa và kinh hành là pháp môn rất tốt, rất thù thắng để tu tập. Có người họ sẽ chưa tin, nhưng có lẽ phải đợi đến khi thực tập rồi họ mới chịu tin. Điều nầy cũng là bình thường. Bởi vì một việc nhỏ ở thế gian này mà người đời còn không hiểu, không tin được, nói gì đến cảnh giới thù thắng, viên mãn ở thế giới Tây Phương Cực Lạc. Từ chuyện nhỏ suy rộng đến chuyện lớn. Chúng ta có thể nhận thức được phần nào để tăng trưởng thêm niềm tin và thiện căn của chúng ta hầu đem hết tâm nguyện của chúng ta ra thực hành, đồng thời khuyến khích mọi người cùng thực hành để cầu sanh về Tịnh Độ, chắc chắn chúng ta sẽ được thành tựu.
Với  pháp môn thù thắng vi diệu, không những chúng ta thành tựu được sự thanh tịnh giải thoát nơi bản thân, chúng ta còn có thể cứu độ những thân bằng quyến thuộc của chúng ta, bởi vì có câu:
- Nhất kiếp bất tu vạn kiếp khổ
Nhất nhơn hành đạo cửu huyền siêu.
            Sự kiện nầy cho chúng ta thấy đây là một vấn đề hết sức là quan trọng chúng ta cần phải quan tâm đến. Theo quan niệm thông thường của người đời cho rằng sau khi chết là hết, việc gì mà phải cúng kiến cầu nguyện cho thêm phiền. Nhưng đối với chúng ta là người học Phật chúng ta biết rằng chết không phải là hết mà là trạng thái thay đổi từ thế giới vật chất với tâm linh, hoặc sự hay đổi từ cảnh giới nầy và những cảnh giới khác, nghĩa là trong ba đường sáu nẻo cứ tùy theo phước hoặc là nghiệp mà thọ sanh chứ không phải hết. Vì vậy điều mong mõi duy nhất và tha thiết của người thân chúng ta là trông nhờ sự hổ trợ của con cháu. Do đó con cháu cần phải tu học Phật pháp, theo đúng phương pháp của Phật đã dạy để tu hành khi tâm lượng của chúng ta rộng lớn, thì chúng ta có thể chuyển những năng lượng của chúng ta có đến cho người thân của chúng ta bất cứ nơi nào cũng chuyển tới được. Đây là cách thức giúp đỡ có hiệu quả nhất.
Trong Phật pháp có đến 8 vạn 4 ngàn pháp môn. Pháp môn niệm Phật, Thiền Tọa và Kinh Hành là phương pháp dễ tu và mau chóng đạt kết quả nhất. Nếu chúng ta thật sự phát tâm, nếu gần vì muốn cứu thân bằng quyến thuộc vĩnh viễn xa lìa ác đạo, và xa là muốn cứu độ chúng sanh vạn lọai thì chúng ta phải mạnh dạn bước vào Chùa, chân thật học đạo hành trì, đồng thời phải có tâm kiên cố không thối chuyển. Biết rằng trong cuộc sống, dẫu có nhiều bận rộn, tuy nhiên một tuần ít nhất chúng ta cũng nên đến Chùa một ngày để tu tập. Nếu có lúc chúng ta để hết thời giờ để đầu tư trong sự nghiệp của chúng ta trong cuộc sống thì chúng ta cũng nên dành một ít thì giờ đầu tư trong sư nghiệp tu học của chúng ta. Sự đầu tư nầy rất có thể là cho chúng ta, nhưng cũng có thể là cho thân bằng quyến thuộc của chúng ta. Vì giúp đỡ thân bằng quyến thuộc hiện kiếp cũng như thân nhân nhiều đời nhiều kiếp đã qua chúng ta phải tích cực nổ lực. Công đức này thật to lớn vô cùng.
Hiện nay trong Chùa Dược Sư của chúng ta, mỗi tháng đều có một ngày quán niệm vào tuần lễ thứ hai của mỗi tháng và Thiền Quy Hướng Tịnh Độ vào tuần lễ thứ tư từ 10 giờ sáng cho đến 5:00 giờ chiều, và mỗi ngày thứ Bảy đều có lễ cầu nguyện hằng tuần. Mỗi ngày Quán Niệm, Thiền Quy Hướng Tịnh Độ hoặc những ngày lễ hằng tuần như vậy, quý vị hãy buông xã thân tâm, vạn duyên thế giới bên ngoài. Dùng tấm lòng chân thành, thanh tịnh, từ bi, đồng thời với tâm niệm báo ân để niệm Phật, thiền tọa và kinh hành. Được như thế việc tu tập của chúng ta mới mong có kết quả tốt và nhất là đối với ông bà, tổ tiên, cha mẹ đã quá cố của chúng ta cũng được vô cùng lợi lạc, công đức của chúng ta cũng thật là to lớn.
Khi thực hành như vậy chúng ta cũng có thể kiểm chứng để biết sự ảnh hưởng đó có đến người thân của chúng ta hay không thì chúng ta cứ căn cứ vào sự phát tâm và sự hành trì của chúng ta. Nghĩa là ngay lúc chúng ta phát tâm chân thành niệm Phật thiền tọa và kinh hành, thì ngay tức khắc người thân của chúng ta thoát khỏi ác đạo. Bởi vì việc làm của chúng ta chân thật, không giả dối thì liền được cảm ứng, chứ không phải chờ đến khi chúng ta niệm Phật, đến lúc công phu thành tựu người thân của chúng ta mới được siêu thoát. Tuy nhiên nếu công phu của chúng ta thành tựu, nghĩa là không xen tạp, không gián đoạn, có thể gọi là chứng tiểu quả thì phước báu của nguời thân chúng ta sẽ được sanh lên cõi Trời, cõi người. Trường hợp công phu niệm Phật của chúng ta không ngừng nâng cao, thì thân bằng quyến thuộc của chúng ta sẽ không bao giờ trở lại ác đạo. Đến đây chúng ta đã hiểu rõ hai mặt lý và sự của công đức thực nghiệm rồi, vậy thì từ đây chúng ta phải tự biết mình phải làm thế nào khi phát tâm niệm Phật, thiền tọa và kinh hành để đền đáp công ơn sâu dày đối với Cửu huyền Thất Tổ, thân bằng quyến thuộc của chúng ta.
Vì bản thân, hoặc vì người thân của chúng ta mà phát tâm niệm Phật thiền tọa và kinh hành là điều rất tốt. Tuy nhiên nếu không có ngoại duyên hổ trợ, nghiệp chướng, tập khí của chúng ta lại công phu không được đắc lực. Do vậy không khí nghiêm tịnh trong một ngôi Chùa là một tăng thượng duyên giúp chúng ta tu hành, duyên này rất thù thắng. Có nhiều Phật Tử từng nói với chúng tôi rằng:
            - Cứ mỗi lần con về Chùa, con thưởng thức mùi nhang trầm, không khí trang nghiêm thanh tịnh, thấy chung quanh đều có hình Phật, khiến con có cảm giác như chính mình cũng là Phật vậy.
Lời nói đó và cảm giác đó thật sự không sai, điểm thù thắng khác ở Chùa là được mỗi ngày nghe giảng Kinh thuyết pháp. Sau khi nghe và hiểu được nghĩa lý trong kinh, siêng năng tu hành. Đây gọi là:
- Giải hành tương ưng.
Do vậy chúng tôi hy vọng rằng mỗi đạo tràng ở những nơi khác, nơi đó tuy không có Thầy Cô hướng dẫn đều có đủ thắng duyên hầu giúp mọi người cùng nhau thực hành pháp môn thù thắng nầy. Tuy nhiên, một nhân tố cần thiết không thể thiếu, đó là phải hiểu rõ lý lẽ. Muốn hiểu lý lẽ, phải có người giảng kinh thuyết pháp không gián đoạn. Nếu quý vị không tìm được người giảng pháp, có thể dùng những băng giảng của các thầy để nghe, mỗi ngày nên mở băng nghe hai giờ đồng hồ. Như vậy, nơi đạo tràng đó của quý vị với Chùa có Thầy Cô hướng dẫn sẽ không có sự khác biệt xa quá.
Khi công phu thực hành của chúng ta một khi đã thành tựu, không những thân bằng quyên thuộc của chúng ta ở kiếp này, mà ngay cả đến nhiều đời kiếp trước mà chúng ta không biết hoặc không thể nhớ, họ vẫn được siêu độ. Nghĩ đến việc này, nếu chúng ta không siêng năng nổ lực tu hành, chúng ta thật có lỗi với ông bà, Tổ tiên, dòng họ, thân bằng quyến thuộc của chúng ta. Do đó khi vào niệm Phật, thiền tọa và kinh hành chúng ta phải lưu ý đến việc biết ân, và báo ân để thực hành. Chính cái tâm này là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy chúng ta tinh tấn, dõng mãnh không ngừng. Hiện tại rất có thể người thân của chúng ta vẫn còn kẹt trong ác đạo, không có khả năng giải thoát, cho nên họ hoàn toàn trông cậy vào sự giúp đở của chúng ta, vậy chúng ta là người biết Phật Pháp, hiểu Phật pháp, hiểu giáo lý phải nên chân thật y giáo phụng hành. Tâm y giáo phụng hành nầy không những giúp người thân của chúng ta ra khỏi cảnh khổ, mà ngay cả mọi tai kiếp hiện nay trên thế giới cũng đều có thể giải hóa, có thể đạt đến chỗ quốc thái dân an như lời Phật nói. Cho nên việc dấn thân hành trì không phải vì chính mình, mà vì thân bằng quyến thuộc, vì tất cả chúng sanh.
Việc hành trì không những giúp cho bản thân chúng ta có một nguồn năng lực nội tại, mà còn có thể cứu độ cha mẹ bảy đời quá vãng, không những một ngày nào đó chúng ta sẽ sanh về cảnh giới cao hơn tốt đẹp hơn, mà ngay trong cuộc sống hiện tại nầy chúng cũng có những cảm nhận an lạc thảnh thơi tốt đẹp hơn. Nhất là trong cuộc đời nhiều phiền luy khấy nhiểu nầy chúng sẽ không bị ma vương khấy phá, nghiệp chướng quấy rầy. Đa số chúng ta đều biết, Phật có tướng hảo quang minh, Phước báu của Phật vô cùng to lớn. Phật có hào quang kim sắc của Phật nhu hòa khiến cho chúng ta mỗi khi tiếp xúc đều có cảm giác nhẹ nhàng tươi mát, an ổn, vui vẻ, tự tại. Vì vậy khi thực tập giáo pháp của Phật rồi chúng ta không sợ bị phiền muộn quấy nhiểu, bị Ma làm tổn hại. Điều này hết sức quan trọng. Phương pháp hữu hiệu nhất để đối phó với phiền não, ma vương là:
- Chúng ta phải luôn giữ Chánh Niệm.  
Khi giữ được chánh niệm, chẳng những phiền não, ma vương tham lam không thể làm tổn hại, ngược lại còn tùy theo sự điều khiển của chúng ta nữa. Quả thật như vậy, khi xưa Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi thị hiện và thành đạo, Ma Ba Tuần liền đến và dùng đủ mọi thủ đoạn uy hiếp cản trở. Đức Thế Tôn chánh niệm phân minh, như như bất động. Sau cùng Ma không còn cách nào để phá hại nữa, nên sanh lòng tôn kính, bái phục, nguyện làm hộ pháp cho Ngài. Do đó tâm niệm của chúng ta cần phải tương ưng với Giới Định Huệ ba môn học, đây là phương thức quan trọng nhất để đối trị với sức cản trở, lay động của Ma vương cũng là ma phiền não.
Trong xã hội ngày nay, những người tu học Phật pháp, đặc biệt là giới thanh niên, bị sai lầm rất nhiều, nhất là những ai thích có thần thông, cảm ứng đều dễ bị kết duyên với Ma. Ma sẽ lợi dụng nhược điểm đó của chúng ta đến lay động quấy phá. Cho nên người tu học Phật pháp trong thời đại này cần phải có cảnh giác cao độ. Nghĩa là khi niệm Phật, thiền tọa và kinh hành phải giữ tâm thật chân thật, không nên mong cầu cảm ứng. Trong Kinh điển Phật dạy chúng ta như thế nào, chúng ta ngoan ngoãn làm theo. Điều gì Phật nói chúng ta không nên làm, chúng ta quyết định không làm. Phật dạy chúng ta vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thì chúng ta cầu sanh Tịnh độ. Phật bảo chúng ta liễu sanh tử, thoát khỏi luân hồi, chúng ta tuyệt đối không luyến tiếc với lục đạo. Thuận theo lời chỉ dạy của Phật, Ma sẽ không làm gì được đối với chúng ta. Giới trẻ ngày nay đa số vì muốn có thần thông, có cảm ứng, nhưng đâu ngờ đã tự chính mình làm hư hoại hết cả tương lai tốt đẹp của chính mình. Do vậy chúng ta nên hết sức thận trọng, nhất là phải có sự cảnh tỉnh đối với con cháu, bà con quyến thuộc. Bởi vì trong lúc quý vị khởi tâm mong cầu thần thông, cảm ứng, Ma liền có dịp giả hình dáng Bồ tát, giả Phật Di Đà đến mê hoặc và lừa gạt dẫn dắt quý vị đi theo.
Xin được nhắc lại là khi chúng ta phát tâm chân thật hành trì thì chúng ta sẽ được các vị hộ pháp thiện thần, thiên long bát bộ già lam bảo hộ cho chúng ta. Thiên thần hộ pháp nhất quyết không dung thứ cho các loài yêu ma quỷ quái. Cho nên khi chúng ta niệm Phật A Di Đà, thỉnh thoảng mơ thấy Phật A Di Đà, như vậy là công phu niệm Phật được cảm ứng, nếu thường xuyên thấy Phật thì phải cẩn thận, coi chừng công phu không đúng hoặc có vấn đề. Nhiều người hỏi:
- Lúc mới niệm Phật tôi thường mơ thấy Phật A Di Đà, tới nay, niệm Phật đã nhiều năm rồi, lại không hề thấy. Như vậy có phải tôi bị thối chuyển so với lúc ban đầu không?
Trả lời:
- Cũng có thể thối chuyển.
Nhưng nếu không bị thối chuyển cũng không nên thường xuyên mơ thấy, thường xuyên mơ thấy là ma cảnh. Cho dù quả thật mơ thấy Phật cảnh hiện ra cũng không nên sanh tâm chấp trước, sanh tâm tham và vui mừng.
Trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có chỉ dạy cho chúng ta phương pháp đối phó với Ma cảnh như sau:
- Khi gặp cảnh giới hiện ra, phải giữ tâm không để ý đến, không tìm hiểu sâu vào.
Bởi vì khi Ma hiện ra, có nghĩa là công phu của chúng ta đã đạt tới mức khả quan, nếu không Ma cũng chẳng thèm tới để làm gì. Mục đích của chúng đến để làm chướng ngại, phá cho tan nát công phu tu tập và đạo tâm của chúng ta. Cho nên ý nghĩa câu hồng danh A Di Đà Phật giúp chúng ta giữ tâm như như bất động trước Ma cảnh rất quan trọng và rất tương quan mật thiết với công phu tu tập của chúng ta.
Nói tóm lại tâm nguyện chúng ta muốn tự độ cho chính chúng ta, và cứu độ cho thân bằng quyến thuộc, cho ông bà cha mẹ bảy đời quá vãng cũng như cha mẹ hiện tiền, đây không phải là những hoang tưởng mà là thật. Với pháp môn Thiền Tịnh Song Tu, hay còn gọi là Pháp môn Nhị Lực bằng cách là Niệm Phật Thiền Tọa và Kinh Hành là một pháp môn dễ tu và rất tiện lợi, để hổ trợ cho việc tu học, để có thêm hành trang trên Hành Trình Về Phương Tây, ngoài ba tiêu chuẩn Tín, Nguyện và Hành, chúng còn phải mở rông tâm lượng, phát tâm bồ đề, có được những những yếu tố nầy thì chúng ta đã có hành trang tốt đẹp trong chuyến Hành Trình Về Phương Tây.