|
TẬP SAN DƯỢC SƯ
- Kết
Quả Của Niềm Tin
-
Tịnh Nghiêm
-
--o0o--
-
-
Chúng ta là Phật Tử Đại Thừa Phật Giáo đến với giáo Pháp của
Phật, và tự chúng ta lựa chọn cho mình một phương pháp tu tập
thích hợp. Lẽ tất nhiên đối với những ai lựa chọn cho mình
Pháp Môn Nhị Lực là Pháp Môn Niệm Phật, Thiền Tọa và Kinh Hành
thì chúng ta phải sớm hôm thực tập, hành trì. Nhưng nếu có
người nói rằng đây là:
-
- Là pháp môn mê tín dị đoan
-
- Là pháp môn tiêu cực, chỉ biết nương tựa, cầu cạnh vào oai
lực của chư Phật
-
- Là pháp môn chậm lụt dành cho những ngươi tâm trí chậm lụt
...
-
01- Bàn Về Mê Tín & Chánh Tín
-
a- Chánh Tín
-
Nói mê tín là tự mình chưa xét qua, chưa hiểu rõ ràng thì đã
chạy theo và hướng dẫn cho người khác tin một cách mù quáng.
Bất kỳ một pháp môn nào cũng vậy, không có gì để chúng ta gọi
là mê tín, hay chánh tín. Mê tín hay không là thái độ tín
ngưỡng và cung cách hành trì của chúng ta. Nếu như chúng ta đã
thâm nhập và hiểu rõ, trải qua sự quan sát và suy nghĩ, cho là
pháp môn đó không có sai lầm và quan niệm của chúng ăn khớp
với nhau, mà phát sinh ra một sự tin tưởng, thì đó là sự tín
ngưỡng của lý trí. Mà đã được coi là tín ngưỡng của lý trí thì
đó là chánh tín.
-
b- Mê Tín
-
Nếu trường hợp chúng ta chưa rõ hiểu, chỉ nghe người khác nói
là Đạo Phật rất tốt, ai tu theo Phật cũng làm ăn giàu có, hoặc
giả nương nơi truyền thống của gia đình mà tín tưởng theo,
hoặc sau khi tin tưởng còn chưa thâm nhập hiểu rõ, chỉ thuần
túy ngay trên việc làm là tín ngưỡng, như thế tức là Phật Giáo
bị tín ngưỡng làm cho chúng ta có nhiều tốt đẹp, thì bản thân
của chúng ta là mê tín. Cũng vậy, nếu như chúng ta không hiểu
rõ về Pháp Môn tu của chúng ta, chỉ nghe người khác nói pháp
môn nầy dỡ, cho nên chậm đến quả vị Phật là mê tín. Hoặc nhìn
thấy một vài nghi thức biểu tượng của Phật giáo, mà chưa hiểu
qua, chưa thâm nhập rõ hiểu ở nghĩa lý, thì đã bình phẩm Phật
giáo là mê tín, rồi nói cái thành kiến, mê chấp của chính mình
cho người khác, như thế thì chúng ta là người mê tín.
-
Nhưng nhìn chung theo tinh thần của người học Phật, Phật giáo
lúc nào cũng khuyến khích con người, những ai hoài nghi về
Giáo Pháp, hoặc pháp Môn mình đang tu tập thực hành, đều có
thể đem những việc hoài nghi đó lên bàn để mà thảo luận. Chúng
ta phải biết hoài nghi, thì mới có thể nhận chân được sự vật
để bàn xét để có được giải đáp thì nhân đây mới có thể sản
sinh ra tín tâm chân chính. Trên sự thật, không có bất kỳ tôn
giáo nào như là Phật giáo chịu cho con người hoài nghi kiểu
này, khai phóng kiểu này và không mê tín kiểu này.
-
02- Bàn Vê Tiêu cực & Tích Cực
-
a- Tiêu Cực
-
Là người học Phật, là tín đồ Phật Giáo cho dù tu tập, thực
hành pháp môn nào đi nữa, nhưng tất cả cũng đều lấy từ bi làm
gốc, nhẫn nhục làm hành động. Do vậy, đối với các món: Sắc,
Thanh, Hương, Vị, Xuc.. Nghĩa là những món lợi, năm dục, sáu
trần, là phải xa tránh. Ở điểm nầy tâm tình của người học Phật
không giống như tâm tình của người đời không biết đủ. Tâm của
con người trần tục chỉ biết ôm đồm càng nhiều càng tốt. Với tư
tưởng sai lầm nầy cho nên người đời tự cho rằng họ là người
tích cực tiền tiến, và vì vậy không ngần ngại lên án cho rằng
Phật giáo không thích hợp đối với xã hội hiện tại, là loại xã
hội chủ trương cạnh tranh mạnh được yếu thua này. Nhưng những
sự nhận xét về Giáo Nghĩa của Phật Giáo và Pháp Môn Tu của
Phật giáo có tiêu cực trốn đời thật không, thì chỉ cần con
người chúng ta đối với Phật pháp, và các pháp môn tu học có
chút ít hiểu rõ thì có thể biết được tinh thần tích cực nhập
thế của Phật giáo, và các pháp môn tu tập thực tiển của Đạo
Phật.
-
b- Trốn Đời
-
Có người thường nói:
-
- Tôi thường nhìn thấy các Thầy hoặc người tin Phật, chỉ ở
trong núi thẳm hoặc trong tự viện tụng kinh niệm Phật, thiền
tọa kinh hành.. cuộc sống như vậy là cuộc sống trốn đời...
-
Những ai mà có những suy tư như vậy, là người chỉ biết một mà
không biết hai. Phải biết rằng tinh thần của đại thừa Phật
Giáo là khắp độ chúng sinh, nếu độ chúng sinh thì cần phải học
tập phương pháp độ sinh. Phải biết rằng đệ tử phật là những
người không biết câu nệ về hình thức, vì thế cũng không câu nệ
là tỳ kheo xuất gia hoặc tín chúng tại gia, cũng không có quan
niệm cứng nhắc nhất thiết phải sống trong núi thẳm hoặc trong
tự viện tụng kinh niệm Phật, thiền tọa kinh hành mà phải biết
rằng bất kỳ nơi đâu, làm bất kỳ chuyện gì thì sự tu tập trước
sau gì cũng vẫn không thay đổi. Đặc biệt hơn nữa, người biết
tu tập là người đã phát nguyện rộng cứu người, đang luyện tập
kỹ thuật độ đời. Không có pháp môn tu tập nhuần nhuyển thì
không thể cứu người được. Đây không phải là những lời biện hộ
cho đệ tử của Phật, mà thực tinh thần của Phật giáo xưa nay
như vậy.
-
Tinh thần của người học Phật luôn luôn có một sự uyển chuyển
để thích hợp với mọi điều kiện và hòan cảnh của từng mỗi thời
điểm. Chẳng hạn như tuy chủ trương những ai muốn trở thành một
Bồ Tát lớn, pháp thực hành Sáu Ba La mật, và Nhẩn Nhục là hai
trong sáu độ để hoàn thành nhân cách của Bồ Tát, nhưng xả thân
vì pháp, cũng là giáo nghĩa Phật Giáo. Chẳng hạn vì bạo lực
xâm lăng, chánh pháp có cái nguy cơ sắp diệt thì người Phật tử
cũng sẽ phấn khởi đại hùng, đại lực dõng mãnh, đứng dậy chống
đối với bạo lực. Như trong kinh Nhân Duyên Tăng Hộ chép rằng:
-
- Vì hộ sinh mệnh của Phật pháp, thà bỏ tiền tài. Vì cứu hộ
một nhà, thà bỏ một người. Vì cứu hộ một thôn thà bỏ một nhà.
Vì cứu hộ một nước thà bỏ một thôn. Rắn độc cắn tay thì tráng
sĩ chặt đứt cổ tay.
-
Ðoạn kinh văn ở trên, là tinh thần hùng tráng, cả quyết, quả
cảm nhất của người tu theo Phật. Vì vậy nói đến tinh thần tích
cực, tiến thủ của người đời đã từng nói, đó chẳng qua là chiêu
bài trá hình của sự tranh dành, tham vọng của những ai thích
theo đuổi trên đường danh lợi, say đắm trên thinh sắc. Vậy thì
ai là người đã từng nghĩ đến sự hy sinh của chính ta để phổ độ
chúng sinh trong tinh thần: Trên thì cầu Ðại giác, dưới hóa độ
chúng sanh, và tinh tấn không biếng nhác, thì những người đó
mới đáng được gọi là tích cực.
-
03- Những Lầm Lẫn Lớn
-
Hiểu về Phật Giáo nói chung và Pháp Môn tu học nói riêng đối
với một số người không hiểu đã đành, nhưng có số người hiểu
nhưng cố tình bôi bẩn cũng có, vì thế đã tạo cho sự mâu thuẩn
càng trầm trọng thêm, chẳng qua cũng chỉ là vấn đề chánh tín
và mê tín. Ngày nay trong thời đại vật chất, con người chịu
ảnh hưởng qua lối nhìn chỉ biết chú trọng đến vật chất, cho
nên đối với Phật giáo còn có những điểm không hiểu rõ, vì thế
khi nói đến vấn đề tín ngưỡng, quan niệm thứ nhất một số người
đã từng nhận xét:
-
- Đây là việc làm mê tín.
-
Trên sự thật, không phải là Phật giáo mê tín, mà là Phật Giáo
bị những phần tử cố tình phá họai, tự đề cao bản thân và tôn
giáo của họ, nên họ không tiếc lời cố ý vu báng miệt thị, điên
đảo trắng đen, cho nên đối với Phật giáo họ không ngần ngại
thân tặng cho từ ngữ:
-
- Tiêu cực, mê tín...
-
Nhưng sự thật Phật giáo là một tôn giáo lấy từ bi làm gốc,
nhẫn nhục làm hành động, mặc dù cho người, cho cuộc đời, cho
kiếp người có nói, và cho như thế nào đi nữa thì tín đồ Phật
giáo cũng không cần biện minh, cũng không cần giải thích. Có
lẽ vì vậy mà cũng đã khiến cho trong xã hội hiểu lầm đối với
Phật giáo càng lúc càng sâu. Nếu chúng ta chịu khó nhìn kỷ thì
chúng ta sẽ thấy những người có cái nhìn lầm lẫn về Phật Giáo
rất dễ, và khá trong sáng về sự lầm lẫn hoặc cố tình bôi bẩn
nầy.
-
Nguyên do của sự lầm lẫn nầy là vào thời đại đời sống con
người chưa mở mang, cho nên đối với các hiện tượng đe dọa của
thiên nhiên, cho nên con người cho là phải có một loại Thần
oai lực không thể so sánh hiện đang thao túng khống chế, từ đó
mà có sự sợ sệt và cầu đảo lạy lục. Con người vào thời kỳ đó
cho là sự sống, chết, thọ, yểu của con người đều do họa phước
tai ương, không việc gì là không do những vị Thần Thánh nào đó
nắm lấy. Do đó đối với những vị thần thánh này, nếu con người
cung kính cầu đảo, thì được phước, nghịch lại hay xúc phạm thì
bị họa. Người đời vì cầu phước diệt họa, do đó lấy lễ và dùng
giấy tiền vàng bạc để cúng tế Thần Thánh, để làm vui cho Thần
Thánh. Thông lệ đó cứ thế mà lưu truyền cho đến đời sau. Càng
đến đời sau, thì thần thánh càng lúc càng nhiều. Một nhà sinh
sống về nông nghiệp, Thần Thánh được kính phụng có: hoàng
thiên, thổ địa, môn thần, táo thần,... đều ở trong nhà mỗi vị
chiếm một ghế. Mục đích của việc kính phụng thần thánh, mặt
tiêu cực là cầu khỏi họa, mặt tích cực là cầu ban phước... Đối
với người mê của thì cầu sự bảo hộ giúp đỡ của thần, như phát
hoạnh tài, không nhọc sức mà được. Người mê quan chức cầu giúp
đỡ của thần được thăng cấp liền liền ...
-
Đó là những quan niệm và cách sinh tồn trong nhân gian, nhưng
thực ra nếu chúng là những người không trồng nhân thiện, mà
vọng cầu quả thiện, thần nếu có linh, thì cũng không thể nào
theo chỗ ham muốn của chúng ta mà cho như vậy được. Đó là lập
trường khá vững chãi của người con Phật từ xưa cho đến nay
không ai là không biết.
-
Phải biết rằng mọi hiện tượng trong vũ trụ, mỗi cái đều có
nhân quả của nó. Muốn cầu ngũ cốc được mùa, cần phải ra công
canh tác. Muốn cầu nhân khẩu bình an không bệnh hoạn, cần phải
cẩn thận ăn uống vệ sinh. Muốn trong gia đình hạnh phúc thì
phải biết nhịn nhường nhau. Trong việc cúng tế thần linh thì
đôi khi có thể đúng, nhưng không nhất thiết là luôn luôn phải
đúng. Thí dụ chẳng hạn như một học sinh vái van với Thần Thánh
cho mình thi đổ, nên anh ta cố gắng thức khuya dậy sớm để học
thì chắc chắn anh ta sẽ đổ đạt. Nghĩa là một người muốn có
duyên tốt kết quả tốt thì phải tạo nhân tốt, thì duyên tốt mới
có hội cơ gặp gỡ. Đối với những không có phép tắc, bị phạm
pháp mà cầu thần thánh giúp đỡ thì kể ra cũng khó mà mãn
nguyện. Người đời vì không rõ lý nhân quả mà vọng cầu không
nhân mà được quả, thật là không biết chuyện. Hành động không
biết chuyện này tức là mê tín. Nhưng điều đáng nói ở đây
những người được gọi là trí thức trên xã hội cố tình đem ngòi
bút thiếu suy tư, thiếu chánh niệm làm cho người đời hiểu sai
về Phật Giáo. Ngay cả có người còn đem đồng cốt, thờ bái thần
linh cho đó là Phật Giáo. Nhưng ai cũng biết Phật giáo khác
với đạo Thần Thánh, đó là chỗ tin và phụng thờ của Phật Giáo
là:
-
a- Phật
-
Phật nghĩa là người giác ngộ; người mà tự mình giác ngộ và
giác ngộ cho người khác, giác hạnh tròn đầy gọi là Phật.
-
b- Bồ Tát;
-
Bồ Tát nghĩa là giác hữu tình. Giác hữu tình là giác ngộ cho
tất cả chúng sinh hữu tình. Bồ Tát là trên cầu pháp Ðại giác,
dưới độ tất cả hữu tình. Bồ Tát tu thành công đức tròn đầy,
cũng tức là Phật. Trong chùa viện hoặc ở gia đình theo truyền
thống Phật Giáo Đại Thừa, Việt
Nam
chúng ta việc thờ Phật và chư Bồ Tát thì có:
-
a- Chư Phật:
-
Ðức Phật giáo chủ cõi Ta Bà là Thích Ca Mâu Ni. Ðức Phật A Di
Ðà ở Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, Đức Dược Sư Phật thì ở thế
giới Lưu Ly Phương Đông ...
-
b- Bồ Tát
-
Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Phổ Hiền, Bồ Tát
Ðại Thế Chí, Bồ Tát Ðịa Tạng...
-
Ngoài ra việc kính thờ là: Thiên đế, đại đế, thiên hậu, nương
nương cho đến tiên cô, chân nhân... có thể nói là đối với Phật
giáo hoàn toàn không có quan hệ.
-
Hơn hai ngàn rưỡi năm trước, Ðức thế tôn Thích Ca đã bảo rằng
đệ tử không được mê tín. Trong kinh Bát Nhã Tam Muội nói rằng:
-
- Không được làm việc các đạo khác, không được lạy trời, không
được cúng tế quỷ thần...
-
Nhưng nói cho cùng, người đời cúng tế thần thánh, tuy thuộc về
mê tín, nhưng trong mắt, trong tâm của họ cũng còn có quan
niệm thần quỷ, vì thế họ còn sợ nhân quả báo ứng. Sở dĩ gọi là
người mê tín, là vì họ không gặp được thiện tri thức để khai
mở chánh tín cho họ. Những người như vậy thật đáng thương xót,
tuy nhiên vẫn còn khá hơn những người không có quan niệm thần
quỷ, họ không tin nhân quả, không sợ quỷ thần, cho nên họ
thích làm những việc hồ đồ vọng tưởng, chẳng sợ báo ứng. Chắc
chắn những người như vậy, sau khi chết đọa lạc, không biết
kiếp nào mới ra khỏi ba đường: Địa Ngục, Ngạ Qủy Súc Sanh.
-
04- Một Niệm Trí Tin
-
Phật pháp là pháp lớn cần cho con người chuyển mê khai ngộ,
chuyển si sanh huệ, chuyển phàm thành thánh. Nếu có người đối
với Phật pháp một điều cũng không biết, hoặc chỉ hạn chế ở nơi
nghe đạo từ sự nói lại, hoặc hiểu biết cạn cợt, để rồi kết
luận Phật giáo là mê tín. Những người như vậy không khác nào
như người mù rờ voi, hoặc ngồi dưới đáy giếng mà dòm trời. Sự
thật, trên thế gian cũng có những tôn giáo mê tín là những tín
ngưỡng ngoại lực đó, những người theo tín ngưỡng nầy là đem
tất cả chính bản thân mình giao phó cho tôn giáo, cho thần
linh ở bên ngoài, mà chẳng tin tưởng chính bản thân mình. Phật
giáo tin tưởng tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, chúng sinh
đều có thể tu trì thành Phật, đây là loại tôn giáo được cũng
cố xây dựng niềm chính tự thân mà không tùy thuộc vào bất cứ
một đấng thần linh nào. Tôn giáo tín ngưỡng ngoại lực là loại
tôn giáo tin thần thánh ở ngoài loài người, đang là chủ tể tất
cả nhân loại, cho nên tất cả những việc tốt xấu, lành dữ họa
phước của người đều có thể xin cầu sức lực của thần. Loại tôn
giáo này có thể phân làm hai loại nguyên thỉ và tiến bộ.
-
a- Loại Tôn Giáo Nguyên Thỉ
-
Đây là loại tôn giáo được phát sinh khi nhân loại còn trong
thời kỳ nguyên thỉ, lúc đó trí thức con người chưa mở mang,
cho nên khi đối diện với những hiện tượng tự nhiên trong vũ
trụ như vậy thường có sự lo sợ:
-
- Trời lấy gì lập, đất lấy gì chở, oai lực của điển chớp, và
những lúc tai hại của nước lửa... đều cảm thấy sợ sệt.
-
Ở trong sự khốn đốn mê mờ, sợ sệt, huyễn tưởng như vậy con
người mới nghĩ là có một loại thần có oai lực không thể so
sánh, là kẻ thao túng đang khống chế tất cả vũ trụ. Con người
cho rằng ai mà đụng đến, hay nghịch đến những vị thần nầy thì
con người phải chịu tai hại họa ương, nhưng nếu thuận theo đó
thì được tha thứ giúp đỡ. Vì vậy việc cúng tế thần Thánh trở
thành một việc đại sự trong cuộc sống loài người, do vậy mà đa
thần giáo cũng phát sinh từ từ đó.
-
b- Loại Tôn Giáo Tiến Bộ
-
Nhất thần giáo được coi là một tôn giáo tiến bộ hơn so với tôn
giáo đa thần. Do ở nơi kết quả sự tăng tiến trí huệ của loài
người khiến cho một số tôn giáo, thấy tôn giáo đa thần với sự
không hợp lý của nó. Những bí mật sâu xa của vũ trụ như:
-
- Sự sanh diệt của muôn vật,
-
- Đầu mối thời gian như sinh già bệnh chết; cùng tột sự yểu và
thọ ...
-
Nhưng những biến chuyễn đó, trên thực tế lại giống như lần
lượt phép tắc vận hành nhất định. Ở đó khiến cho một số người
cho là trên vũ trụ, trong cái mờ mịt ấy có một cái chủ tể vạn
năng là thượng đế. Kẻ chi phối là chủ tể của tất cả thế gian
gồm lại thì vũ trụ vạn hữu, đều là chỗ sáng tạo của thượng đế.
Ðây cũng là do từ nơi quan niệm đa thần mà dẫn đến nhất thần,
cho nên các tôn giáo như:
-
- Bà La Môn giáo của Ấn Ðộ,
-
- Cũng như Ca Tô Giáo của người Do Thái,
-
- Hồi giáo của Ả Rập ...
-
Đại để đó là những tôn giáo lớn mà chúng tôi vừa tiêu biểu đều
thuộc một loại này.
-
Tất cả các giáo nghĩa của những tôn giáo này, hình thái và
nghi thức có chỗ không đồng, nhưng chỗ tương đồng của họ là
chỉ lấy một món đối tượng làm việc sùng bái. Hiểu cho tường
tận thì những sự kiện nầy chẳng qua do ở nơi nhân loại tư
tưởng tiến bộ, khoa học phát triển mà có được những cục diện
như ngày hôm nay, chớ vạn vật không phải do thượng đế tạo, thế
giới cũng không phải do thượng đế làm chủ tể.
-
Trừ ngoài tôn giáo tín ngưỡng về tha lực, hãy còn có tôn giáo
tín ngưỡng về tự lực mà chúng tôi đã từng nhắc, đó chính là
Phật giáo. Phật giáo không chủ trương vũ trụ là do thần sáng
tạo hoặc có một vị thần nào đó làm chủ tể. Ðối với vũ trụ vạn
hữu, hiện tượng sanh diệt đổi khác, Ðức Thích Ca thường nói:
-
- Những hiện tượng này, ở nơi phép tắc tự nhiên thì xưa nay
cũng đều là như vậy.
-
Phép tắc tự nhiên tức là luật nhân quả của vạn hữu. Muôn pháp
từ nhân duyên mà sinh, muôn pháp cũng từ nhân duyên mà diệt.
Ðây sinh, đây diệt, đều là quả của nhân duyên sinh. Tinh thể
vận hành, đầu mối thời gian dời trôi trong đó có nhân quả,
sinh già bệnh chết .... Trong đó cũng có nhân quả. Nhân như
vậy, quả như vậy, mảy tơ sợi lông không thể mượn nhờ. Nhân
đây, hiện tượng tự nhiên trong vũ trụ chắc chắn không có vị
thần nào chưởng quản. Con người gặp gỡ cũng chẳng phải do
Thượng đế chủ tể sắp đặc. Tục ngữ xưa nói rằng:
-
- Họa phước không cửa, chỉ người tự chuốc.
-
Tự mình cũng là chủ tể chính mình, không có thần nào, có thể
lấy làm chủ tể con người, cũng không có thần nào có thể đối
với con người mà ban phước giáng họa.
-
Ngày thành đạo, lúc Ðức Thích Ca ở dưới cội bồ đề mắt thấy sao
sáng ngộ đạo, câu nói thứ nhất mà ngài mở miệng để nói:
-
- Kỳ thay kỳ thay, tất cả chúng sinh đều đủ đức tướng Như Lai
trí huệ, nhưng do vì vọng tưởng chấp trước, không thể chứng
được, nếu lìa vọng tưởng thì nhất thiết trí, tự nhiên trí tức
được hiện tiền.
-
Ðức tướng Như Lai, trí huệ Như Lai, ở đây Đức Phật muốn nói
chính là Phật tánh, mọi người đều có. Tánh này ở nơi thánh
không tăng, ở nơi phàm không giảm. Người người nương nơi pháp
tu trì, chuyển mê khai ngộ, đều có thể thành Phật. Nhưng nương
nơi pháp tu trì chuyển mê khai ngộ hoàn toàn cần dựa vào lực
thực hành thật tiễn chính mình, và pháp môn do chính mình lựa
chọn chứ không phải là dựa vào sự ban phát của Thần. Phật tánh
người người đều có đủ, do vì vọng tưởng chấp trước mà chẳng
thể chứng được. Ðiều nầy tương tự như cái gương phủ bụi, thì
cần phải lau chùi đi bụi bặm, tự mình nương theo pháp môn tu
trì khôi phục lại trí tánh sáng suốt sẳn có của mình. Ðây hoàn
toàn dựa vào sự tu trì của chính mình. Người đời không hiểu lý
này, lấy tôn giáo mong nhờ thần lực cứu giúp. Nhưng đối với
người tu Tập pháp môn Niệm Phật, Thiền Tọa, và Kinh Hành thì
việc Niệm Phật là tạo thêm vườn hoa đẹp trong vườn hoa đã sẵn
có của chính mình.
-
Nếu một người nào đó trong số chúng ta mà trong đời chưa từng
tạo cho mình một hương hoa thơm nào, thì ngay bây giờ chúng ta
hãy nên niệm tánh giác của mình để kịp làm nhân cho vườn hoa
hiện tại và tương lai. Và nếu có ai đã lỡ tạo nhân hoa không
tốt, hương hoa không tịnh thì lại càng nên sớm mau khơi dậy
tánh giác, trồng niệm hoa thơm để hương hoa tinh khiết phủ
trùm hương bất tịnh và biến tất cả hương hoa trong vườn thành
hương hoa thanh tịnh giải thoát, như trong kinh Quán Phật Tam
Muội, Phật dạy về công đức và công năng của niệm Phật nhất
định sẽ sanh ra trước Phật, quyết được vãng sanh, tức là có
thể cải biến tất cả điều ác, sanh đại từ bi. Và hiện đời chúng
ta sẽ an lạc vì chúng ta có thể:
-
01- Sống Tỉnh Thức
-
Bởi vì chúng ta là người biết niệm Phật, tụng kinh, thiền tọa
và kinh hành thì chắc chắn chúng ta là người biết tin nhân
quả, thiện có thiện báo, ác có ác báo, biết rõ ràng phải trái,
nhìn rõ tình đời cho nên việc ác chúng ta không làm, chỉ thích
làm những điều thiện. Nhờ biết đủ như vậy cho nên cuộc sống
yên ổn đạm bạc giản dị, tâm tình chúng ta trở nên cởi mở, vì
thế mà những liên hệ không lành mạnh đến thế tục chúng ta có
thể buông đi. Nếu có phải nhận công tác nào đó trong công sở
thì đối với một người biết tu tập như vậy, một khi đã hiểu rõ
nợ nần nghiệp báo thì phải dốc hết bổn phận làm việc, trân
trọng nghề, vui với tập thể, giữ bổn phận, giao tế với người
quan hệ hài hòa. Một người như vậy ngước lên không thẹn với
trời, cuối xuống không tủi với đất, thì tự nhiên được yên ổn,
tốt đẹp, tự tại, vui sướng, nhìn các việc đều thoải mái thích
hợp thuận mắt. Đó là người biết sống tỉnh thức
-
02- Quán Sát Tự Thân
-
Người biết niêm Phật, thiền tọa và kinh hành là người biết
nương giáo lý của Ðức Phật mà chiếu xét tư tưởng và hành vi
của chính mình. Như có cái gì bất chánh thì đưa vào chỗ chánh,
cái gì chưa nề nếp thì đưa vào nề nếp, tu dưỡng ở nơi thân tâm
chính mình, rất có bổ ích, đây là triết học của thuật xử thế.
Đối với chân tướng của nhân sinh có chỗ nhận thức, có nhận
thức thì chúng ta biết hóa giải cho nên tâm tánh của chúng ta
không gấp rút ồn ào, không biến động giận dữ, tâm tình trở nên
hòa diệu. Đối với một người có công phu hàm dưỡng như vậy thì
khi gặp những vấn đề khó khăn ngay trước mặt như:
-
- Không mỹ mãn về cuộc sống,
-
- Hoàn cảnh buồn phiền
-
- Những trở ngại thiếu sót hạn chế của xã hội hiện thực,
-
- Đối diện với những thành phần phiền não xấu xa.
-
Tuy là sự việc như thế nào đi nữa thì người học Phật chúng ta
không vì thế mà buồn phiền hay chán nản giận hờn mà trái lại
chúng ta biết hóa giải cho nên tâm tánh của chúng ta không
thuần lại, và biết hòa diệu trước mọi hoàn cảnh. Do đó tuy là
còn hiện hừu ở cõi Ta Bà, chúng ta cũng sẽ có được ba kết quả
tốt đẹp đó là:
-
a- Hiện Tiền Có Nơi Nương Tựa
-
Nghĩa là trong cuộc sống hiện tại, nhất là trong phương diện
sinh hoạt tinh thần có chỗ nương tựa vững chải: Tin Phật, có
lý tuởng là sẽ thành Phật ở thời gian nào đó trong tương lai,
và hiện tại sống cuộc sống vui vẻ, tự tại.
-
b- Thông Suốt Sanh Tử Luân Hồi
-
Một khi chúng ta tin Phật và thông suốt sanh tử luân hồi có
nghĩa là người ấy biết được sanh tử, ra khỏi luân hồi sáu nẻo,
xa lìa khổ vui, vãng sinh về Cực Lạc thế giới, và được thành
Phật.
-
c- Biết Trước Ngày Giờ Vãng Sanh
-
Thông thường người đời lúc chết, thường chết trong cái chết
đau đớn khổ sở, muôn nghìn người khó có được một người lúc
chết không đau đớn khổ sở, không thể biết là đứng hoặc ngồi
chết được, lại càng khó có thể biết trước giờ mệnh chung.
Trong khi đó đối với người biết niệm Phật tu hành đến lúc mệnh
chung, thân không bệnh khổ, biết trước giờ chết, chánh niệm
hiện tiền, tâm không điên đảo, đang đứng hoặc đang ngồi mà
niệm Phật vãng sinh về thế giới Cực lạc; nếu công phu niệm
Phật sâu dày, thì ở hiện đời được nhất tâm bất lọan, căn lành
sâu dày, lại có thể thân chứng niệm Phật tam muội.
-
Nói tóm lại, khi đã có một niềm tin vững chãi rồi, thì tất cả
các việc nếu cần đối diện phải đối diện, nhờ vậy mà chúng ta
có thể mở bày trí tuệ, và điều chỉnh tâm cảnh bất bình của
chính mình, cho nên chúng ta có thể trở thành yên vui hòa
thuận, bình tĩnh, điềm đạm. Từ đó tình tự của chúng ta cũng
không bị những sự vui buồn hờn giận trong cuộc đời chi phối.
Lúc đó chúng ta có thể xem phú quý như khói mây qua mắt, lấy
tâm biết đủ để tiếp xử với muôn vật. Không vọng cầu, không
vọng chấp, không bị sự trói buộc bởi những sự vật ở bên ngoài,
vì thế tâm lý được an, cho nên tùy duyên qua ngày, và cuộc
sống chúng ta sẽ được hạnh phúc vui vẻ. Đó là thành quả thu
gặt từ nơi tu tập, hay nói cách khác đó là kết quả của niềm
tin.
--o0o--
|
|