|
TẬP SAN DƯỢC SƯ
- Vườn Tâm
Hoa Tuệ
- Nguyên Châu
- --o0o--
-
-
Trong kệ chuông có đoạn:
-
- Nghe chuông phiền não tan mây khói
-
Ý lặng thênh thênh miệng mĩm cười
-
Hơi thở nương chuông về chánh niệm
-
Vườn tâm hoa tuệ nở xinh tươi.
-
Cụm từ:
-
- Vườn tâm hoa tuệ
-
Chúng tôi tạm mượn từ bài kệ thỉnh chuông như đã trích dẫn ở
trên.
- Nói đến vấn
đề làm vườn, có lẽ khi mới đến những vùng đất hoang để khai
khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho chúng ta nản lòng vì cỏ gai
và chướng ngại vật đầy dẫy. Vì chúng ta cần phải đào, phải
bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa. Tuy nhiên nếu chúng ta
không nản lòng, sau một hai năm xây dựng chúng ta sẽ thấy sự
khác biệt giữa hai quang cảnh mới và cũ.
-
Sự tu học của chúng ta cũng như vậy. Trước
khi tu thì tâm của ta rất là hoang vu và gai góc. Chúng ta tạo
ra rất nhiều đau khổ cho chính ta và cả cho những người chung
quanh. Do vậy chúng ta ai cũng thường có khuynh hướng muốn đi
tìm hạnh phúc và vì nóng lòng tìm hạnh phúc cho nên chúng ta
đã vô tình hoặc cố ý phủ nhận, chối từ những cái mà chúng ta
đang có trong hiện tại, vì nghĩ rằng hiện tại chỉ là khổ đau
phiền muộn. Chúng ta nghĩ hạnh phúc chỉ có thể có được ở trong
tương lai và con người đích thực của chúng ta chỉ có mặt trong
quá khứ mà bây giờ thì đã mất hết rồi! Cái khuynh hướng trốn
chạy và chối từ đó đã trở thành một tập khí, cho nên chúng ta
không đứng yên, không ngồi yên được. Người Việt chúng ta
thường nói ngồi như ngồi trên đống lửa! là vì chúng ta cứ lăn
xăn tìm kiếm con người thật của mình cho nên chúng ta đã mất
cái khả năng ngồi yên.
-
Như nói mời đại chúng an tọa, nghĩa là mời
anh, mời chị ... ngồi xuống trên một đóa sen, chứ không phải
mời ngồi trên đống lửa. Người không tu tập thì không có khả
năng ngồi yên. An tọa có nghĩa là ngồi yên và ngồi yên an lạc
thì đó là ngồi trên một đóa sen. Dầu ngồi trên một tảng đá,
dưới một gốc cây, hay trên một đồi cỏ, nếu chúng ta biết an
tọa thì chỗ ngồi đó sẽ biến thành một đóa liên hoa. Chúng ta
thường vẽ Phật ngồi trên đóa sen là vì Phật biết an tọa, cho
nên Phật ngồi ở đâu cũng là ngồi trên đóa hoa sen là vì Ngài
am tường nghệ thuật an tọa.
-
Trong truyền thống Phật Giáo, người phật tử
chúng ta thờ Phật để chiêm nghiệm tâm hạnh của Ngài và noi
theo gương Ngài, mỗi khi thấy Ngài ngồi yên trên toà sen. Hình
ảnh đẹp đó sẽ là bài học không lời luôn luôn nhắc nhở khi
chúng ta khi ở nhà, hay khi đi đâu xa lúc về tới nhà, là chúng
ta đã trở về nơi chúng ta thương yêu nhất, thoải mái nhất.
Nhất là mỗi lúc nhìn lên bàn thờ, thấy đức Phật ngự trên đài
sen từ bi mĩm cười, thì chúng ta có hạnh phúc an ổn không còn
suy nghĩ lo lắng gì cả. Gia đình Phật Tử Việt Nam có bài hát
tên là: Kính mến Thầy, trong đó có đoạn như thế nầy:
-
Hôm nay Thầy về
-
Chúng con xin kính mừng Thầy
- Trong giờ
phút vui này,
- Chúng con
biết làm gì đây?
- Chúng con
nguyền tinh tấn ...
-
Chúng ta nghĩ gì về đoạn nầy, thật ra như
có lẫn chúng tôi nói, chúng ta thờ Phật, thấy Phật ngự an lành
trên tòa sen là chúng ta an ổn không lo lắng gì cả. Cũng vậy,
việc chúng ta kính mến Thầy, chúng ta thương thầy và được gặp
thầy thì chúng ta chỉ cần ngồi yên, an tọa với thầy, nghe thầy
dạy bảo, nhắc nhở đó là chuyện phải làm, chớ không cần làm gì
cả. Ai mà thương mến nhất, điều gì khiến ta cảm thấy thoải mái
nhất, khi đã gặp được rồi, hoặc khi đã đạt rồi thì chúng ta
không còn lo lắng hoặc làm gì nữa, cho nên chúng ta không cần
thắc mắc là chúng ta phải làm gì khi gặp Thầy. Chúng ta chỉ
cần ngồi yên và nghe Thầy dạy, nếu cần thì chúng ta cứ phát
nguyện theo Thầy:
-
- Hôm nay,
- Thầy về nơi đây
- Con được gặp Thầy
- Con xin
mừng Thầy
- Quỳ dưới chân Thầy
- Học đạo Như
Lai.
- Nguyện ngày
kia giáo pháp cha lành
- Lan rộng
muôn nhà
- Giáo pháp
thậm thâm
- Tiêu diệt
si mê.
- Giáo pháp
vô thượng
- Hướng dẫn
nhân quần
- Hướng dẫn
đời con
- Thoát cảnh
gông cùm xích trần gian
- Thầy ơi,
- Con nguyện
theo Thầy
- Hoằng pháp
lợi sanh.
- Con nguyện
theo Thầy
- Học đạo tu
hành.
- Cuộc đời
của con
- Con xin
hiến trọn đời mình
- Con nguyện
vì đạo hy sinh
- Dẫu con
chịu muôn vạn khổ đau.
- Quỳ dưới
chân Thầy,
- Nguyện cầu,
- Thân tâm
Thầy luôn an lạc
- Hướng dẫn
nhân quần
- Hướng dẫn
đời con
- Ði trên con
đường Chân Thiện Mỹ
- Con nguyện
theo truyền thống cha lành
- Theo gót
chân Thầy.
- Thầy ơi,
- Con nguyện
theo Thầy
- Hoằng pháp
lợi sanh
- Con nguyện
theo Thầy
- Học đạo tu
hành.
- Cuộc đời
của con
- Con xin
hiến trọn đời mình
- Con nguyện
vì đạo hy sinh
- Dẫu con
chịu muôn vạn khổ đau.
-
Tu học mà không phát nguyện thì khó mà chịu
đựng những chướng ngại trên đường tu, do vậy mà có nhiều khi
thân tâm của chúng ta cứ thấy không yên ổn. Trong Truyện Kiều,
cụ Nguyễn Du có nhiều câu rất hay để diễn tả những người không
có khả năng đi đứng, nằm, ngồi yên ổn như là:
- - Vậy nên
những chốn thong dong,
- Ở không yên
ổn, ngồi không vững vàng,
- Ma đưa lối,
quỉ dẫn đàng,
- Lại tìm
những chốn đoạn trường mà đi.
-
Ở những chỗ thong dong dưới mái chùa, như
tại Chùa Dược Sư, mà chúng ta vẫn không an trú được, thì đúng
là chúng ta bị ma quỉ nó xúi đi về những nẻo đường tăm tối,
những nẻo tạo nên trạng huống đau buồn đứt ruột. Những nẻo
đường đó mà có, chính là do những tập khí năm xưa, và tập khí
đó là ma, là quỉ làm chướng ngại cuộc đời chúng ta. Việt Nam
chúng ta có một câu ví von khác là:
-
- Như bắt cóc bỏ vào đĩa
-
Con cóc sống mà đặt lên cái đĩa thì nó khó
mà ngồi yên. Tương tự như vậy nếu chúng ta ngồi không yên, đi
không vững ngay tại những nơi đáng lý chúng ta phải có an lạc,
thì đó là những năng lượng tiêu cực của tập khí, những năng
lượng phát sinh từ tư tưởng chúng ta đã đánh mất chánh niệm.
Nếu chuyên tâm và khôn khéo tu tập, chúng ta có thể tạo được,
khôi phục lại được con người thật của thuở ban đầu đó ngay bây
giờ và ở đây.
-
Như vậy phương pháp cày bừa để trồng trọt
trên một thửa ruộng chúng ta cũng cần tâm tình thảnh thơi để
xác định việc làm của chúng ta như thế nào thì nghệ thuật cày
bừa vun xới mảnh vườn tâm để khôi phục lại những năng lượng
tích cực, loại bỏ những tập khí lâu đời là đừng để tư tưởng
chúng ta đánh mất chánh niệm cũng như thế đó.
-
Một thí dụ cụ thể, chẳng hạn nói về Chùa
Dược Sư. Nói về Chùa Dược Sư, trong số đại chúng đây có nhiều
người đã biết Chùa Dược Sư cách đây chín năm, lúc đó quang
cảnh của Chùa Dược Sư không giống như bây giờ. Lúc ban đầu khi
Chùa mới dọn về đây, mới nhìn qua mọi người thường ví
von đây là Rừng Vô Minh. Nói là Rừng Vô Minh vì cây cối rậm
rạp, dây leo, gai góc mọc đầy... Những ngày đầu nơi đây trông
thật hoang sơ tiêu điều, có thể nói một người yếu bóng vía
không dám ở nơi nầy lâu. Nhờ sự phát tâm của chư Phật tử, từ
những người bạn trẻ cho đến các cụ già, mỗi người một tay hổ
trợ, quyết tâm mở một đạo tràng hoằng dương Phật Pháp. Lớn làm
việc lớn, nhỏ làm việc nhỏ, già cả làm theo sức và khả năng
của mình bằng cách là bưng nước đến từng người để giải khát,
hoặc nấu cơm, rán đậu cho những bữa cơm trưa chiều.. v..v..
rất là an vui trong tình Ðạo:
- - Có những
bàn tay những tấm lòng
- Mười phương
góp lại một Phương Ðông..
- Hoặc là:
- - Một ly
nước mát cho anh
- Ngọt ngào
hương vị đạo lành là đây
- Cùng nhau
xây dựng chùa nầy
- Khai quang
sửa đất trồng cây Bồ Ðề
- Tay sơn,
tay mộc, tay nề
- Tay phát cỏ
dại tay tề rừng cây
- Chánh pháp
như đã tỏ bày
- Ở trong
Phật sự tháng ngày an vui.
-
(Nhật Hoa Quang)
- Sau khi dọn
dẹp phía trong để thiết trí điện Phật cho có chỗ lễ lạy, tu
trì, công tác kế tiếp là quét dọn rừng Vô Minh. Những ngày đầu
thật khó khăn lắm mới mở được lối thông được từ mặt đường vào
bên trong. Công cuộc phát quang càng lúc càng tiến sâu vào
trong rừng Vô Minh, thì lộ trình cũng thu ngắn lại, cỏ dại của
Vô Minh cũng ít hơn, ngôi chùa hiện ra rất sáng sủa và rất
đẹp. Nhìn lại những thành quả đã thu gặt được sau bao ngày
gian khổ, ngôi chùa uy nghiêm dưới bầu trời trong xanh của
vùng đất Seattle, cảnh trí rất là thơ mộng. Khai quang rừng Vô
Minh quả thật là một việc làm phi thường, cỏ dại thì nhiều, mà
đám rừng cũng lớn, do đó mà người làm phía trước cỏ mọc phía
sau, trùng trùng điệp điệp. Người làm vườn nếu không có kiên
nhẫn đào gốc bứng rễ thì cỏ dại sẽ mọc lên lại rất nhanh.
-
Sự tu học của chúng ta cũng như vậy. Trước
khi tu thì tâm của ta rất là hoang vu và gai góc. Chúng ta tạo
ra rất nhiều đau khổ cho chính ta và cả cho những người chung
quanh. Cho nên trong Kinh Tăng Nhất A Hàm Đức Phật có nói:
-
- Này các vị khất sĩ, không có một sự vật
nào khi không được điều phục mà có thể đem lại nhiều đau khổ
như tâm của chúng ta. Này các vị khất sĩ, không có vật nào khi
đã được điều phục và chế ngự mà lại có thể đem lại nhiều hạnh
phúc như tâm của chúng ta.
-
Vì vậy tu học có nghĩa là điều phục tâm,
làm việc với tâm. Trong văn học Phật
Giáo, tâm có khi được ví với đất. Tại bất cứ nơi nào ở Chùa
Dược Sư, nếu quí vị xới lên một khoảng đất, bừa cho nhỏ rồi
tưới nước, một thời gian sau sẽ thấy rau dền, rau sam mọc lên.
Quí vị hỏi:
-
- Rau dền, rau sam ở đâu mà mọc ra như vậy?
- Thật ra rau
dền, rau sam đã có hạt giống ngay trong lòng đất ở khắp nơi
nói chung, và nói riêng là Chùa Dược Sư. Ngoài hạt giống rau
dền, rau sam đất ở Chùa Dược Sư còn chứa rất nhiều loại hạt
giống khác.
-
Chúng ta thường chứa hạt giống trong bồ
hoặc trong nhà để chờ ngày gieo và do đó chúng ta cứ nghĩ hạt
giống là một cái gì có ở ngoài đất. Kỳ thực, hạt giống luôn
luôn nằm trong đất. Nếu chúng ta có hạt giống chứa trong bồ
thì hạt giống cũng từ lòng đất mà ra, chứ không phải từ trên
không rơi xuống rồi đem cất vào bồ. Cái ý niệm đất là tâm là
một ý niệm vô cùng tuyệt diệu, vì vậy cho nên chúng ta thường
nói tâm, mà còn kèm theo chữ tâm địa là như vậy. Trong đất
tâm, chúng ta có đủ mọi hạt giống:
-
- Hạt giống của gai góc, đó chính là hạt
giống của tham giận, của si mê, của kiêu căng, của ganh tị
v.v...Õ Nhưng trong tâm ta cũng có các hạt giống lành mạnh đó
chính là hạt giống của hạnh phúc, của giác ngộ, của giải
thoát, của sự tha thứ, của sự thương yêu .. v.. v...
- Tu học có
nghĩa là thực tập và phân biệt cho được những hạt giống đó để
chuyển hóa những hạt giống xấu và tưới tẩm những hạt giống
tốt.
-
Trước khi tu tập, đất tâm của ta rất cứng
và với đất đó chúng ta không trồng trọt gì được cả. Vì vậy,
việc đầu tiên là phải cày đất. Lưỡi cày đất tâm là chánh niệm.
Tại Chùa Dược Sư chúng ta có rất nhiều cây mận và đào. Cây
mận có trước khi chúng ta về đây, cho nên việc trồng trọt
không tốn công sức nhiều, riêng về cây bông đào trước khi
trồng đào, chúng ta phải xới những chỗ đất mới. Ban đầu chúng
ta xới sâu khoảng 40cm rồi đặt những cây đào xuống. Sau đó
chung quanh những câu đào chúng ta phải bới đất chung quanh để
làm bồn chứa nước, khi nước nước sẽ được giữ lại và thấm từ từ
vào lòng đất để nuôi cây. Nếu cần chúng ta có thể làm vỡ những
tảng đất cứng ở dưới để sau này rễ bông đào có thể chui qua,
nhờ vậy mà cây đào sẽ phát triển nhanh. Sau đó một vài năm
chúng ta cũng xới lại, tiếp tục làm vỡ đất dưới sâu để cho rễ
đào có đường chui qua. Nếu không xới nhiều lần như vậy, rễ đào
chỉ đi qua trên mặt mà không bao giờ hút được nước và chất bổ
ở dưới lòng đất sâu. Vì vậy nhìn bề ngoài, chúng ta cứ tưởng
công phu trồng đào rất là đơn giản, nhưng thực ra chúng ta đã
dùng thời giờ và công phu chăm sóc, cày xới để cho đất ở tầng
phía dưới được phá vỡ và làm lộ lên những rễ cây, những hạt
giống kết tụ từ hàng trăm năm trước.
-
Tu học cũng vậy. Phải biết rằng, nếu đất
tâm của chúng ta không được điều phục thì đất tâm đó không
giúp được gì cho việc tu tập của chúng ta cả. Vì vậy phải cày
mảnh đất tâm của chúng ta bằng sự thực tập chánh niệm hàng
ngày. Chẳng hạn như tụng kinh, niệm Phật, thiền tọa và kinh
hành là một cách cày đám ruộng tâm của chúng ta. Chúng ta cũng
có thể làm cho tâm chúng ta được phòng hộ, và trở nên tốt đẹp
bằng cách cày sâu xuống mảnh đất tâm của mình. Vì vậy trong
đời sống hàng ngày, khi chúng ta nấu cơm, giặt áo, quét nhà,
gánh nước, bổ củi là những lúc chúng ta cũng cày miếng đất tâm
của chính mình bằng phương thực tập chánh niệm. Ruộng được cày
lên để tất cả những gai góc và rễ cây được xắn đứt, trồi lên
mặt đất để ta có thể lượm, quăng vào một đống rồi đốt đi. Cũng
tương tự ruộng tâm của chúng ta được cày xới bằng lưỡi cày
tụng kinh, niệm Phật, thiền tọa và kinh hành thì những gốc rễ
của tham, sân, si, mạn cũng bị đứt rễ không còn nơi bám víu
nữa.
-
Nói đến cày ruộng, Kinh Tạp A Hàm và Kinh
Tương Ưng Bộ ghi lại rằng: Một hôm Đức Phật đi khất thực với
các thầy ở miền quê nước Câu Tát La, quốc vương của nước nầy
là Vua Ba Tư Nặc. Hôm đó là ngày đầu mùa Xuân, các nhà nông
đưa trâu ra cày ruộng. Có một vị Bà La Môn tên Ba La Đậu Bà
Giá, là một chủ điền rất lớn. Ông đem theo tới 500 lưỡi cày,
500 con trâu và rất nhiều lực điền để cày ruộng. Đến giờ nghỉ
trưa, họ mang cơm ra ăn. Giáo đoàn của Phật đi ngang qua và
các thầy dừng lại để khất thực. Ông điền chủ Bà La Môn nầy
đứng dậy chỉ trích:
-
- Chúng tôi làm ruộng, chúng tôi có đất, có
hạt giống, có cày, có bò, chúng tôi cày ruộng, bừa ruộng, gieo
hạt giống, cấy mạ, vun bón rồi chúng tôi mới ăn. Các ông không
có đất, không có cày, các ông không tưới, không làm gì hết mà
các ông cũng đòi ăn là nghĩa làm sao?
-
Phật mỉm cười nói:
-
- Thưa ông, có chứ, chúng tôi có đất, có
hạt giống, chúng tôi có cày bừa, có trâu bò, chúng tôi có gieo
hạt, chăm sóc và chúng tôi ăn.
-
Ông Bà la môn nói:
-
- Thầy nói vậy làm sao tôi tin được. Đất
của Thầy đâu, hạt giống của Thầy đâu, bò của Thầy đâu, cày của
Thầy đâu mà Thầy dám nói rằng Thầy là người cày ruộng?
-
Phật liền đọc một bài kệ như sau:
-
- Đức tin là hạt giống
-
Công phu mưa phải thời
-
Chánh niệm là lưỡi cày
-
Tinh tấn là sức kéo
-
Cán cày là trí tuệ
-
Dây cột là ý căn
-
Rễ ách nạn nhổ lên
-
Quả Niết Bàn thu hoạch.
-
Kinh này cho chúng ta thấy rằng tu hành
cũng giống như làm ruộng. Tâm chúng ta là đất ruộng, và những
hạt giống mà chúng ta gieo trên đó là hạt giống của đức tin,
đức tin nơi Pháp môn của Phật, nơi Giáo Pháp và nơi Tăng đoàn.
Hạt giống đó cùng với đất tâm là vốn liếng của người làm ruộng
tâm. Khi tu tập, chúng ta biết tâm mình là ruộng đất, chánh
pháp là những hạt giống tốt và chánh niệm là lưỡi cày để phá
đất. Do vậy, chúng ta phải vun bón, phải chăm sóc thì mới có
sự thu hoạch.
-
Theo truyền thống Phật Giáo Đại thừa, chúng
ta thường gọi tâm là đất, và tâm của chúng ta cũng có nhiều
tác dụng, nhưng thường thường chúng ta chỉ nói tới hai tác
dụng chính của tâm:
-
- Tác dụng thứ nhất gọi là Tàng
-
- Và tác dụng thứ hai gọi là Ý.
-
Tàng ở đây là đất và đồng thời cũng là
những hạt giống. Những hạt giống dưới dạng tàng thức có thể
mọc lên thành hoa trái ở phía trên, đó là ý thức. Nếu người
làm ruộng phải làm việc với đất như thế nào thì người tu chúng
ta phải làm việc với tàng thức như thế đó. Nếu chỉ làm việc
với ý thức thôi thì chúng ta sẽ không thành công, vì ý thức
chỉ là người làm ruộng còn tàng thức mới chính là đất. Tất cả
những hạt giống đều nằm trong tàng thức tức là đất tâm, và
chính tàng thức mới cống hiến được những hoa trái của sự hiểu
biết, của sự thương yêu, và sự giác ngộ. Cho nên nếu chúng ta
không tu tập thì đất tâm chúng ta sẽ cho chúng ta những quả
khổ đau, giận hờn, vô minh, và kỳ thị. Vì vậy ý niệm đất rất
là quan trọng vì đất luôn luôn cất giữ những hạt giống. Có đất
là có hạt giống.
- Là Phật tử
đại thừa, nếu những ai đã tụng Kinh Địa Tạng, chắc quí vị còn
nhớ một câu trong bài tựa:
-
- Địa ngôn kiên hậu quảng hàm tàng.
-
* Địa có nghĩa là vững chải, là sâu dày, và
chứa đựng được rất nhiều;
-
* Kiên là chắc chắn;
-
* Hậu là dầy, là có chiều sâu, là chắc
chắn.
-
* Tính chất thứ tư của đất là quảng hàng
tàng. Quảng là rộng rãi, tàng là chứa đựng, quảng hàm tàng là
có khả năng bao gồm và chứa đựng rất rộng rãi.
-
Vì vậy chữ tàng thức rất có ý nghĩa, bởi vì
tàng thức là một cái thức chứa đủ tất cả các hạt giống, nó có
tính cách vững chải và sâu dày. Hạt giống ở tàng thức có đủ
loại:
-
- Hạt giống xấu, hạt giống tốt, hạt giống
của ma và hạt giống của Phật.
-
Hạt giống của khổ đau có mặt mà hạt giống
của hạnh phúc cũng có mặt. Vì vậy tàng thức có khi được gọi là
nhất thiết chủng thức, tức là cái tâm thức có đầy đủ tất cả
các loại hạt giống.
-
Ở Chùa Dược Sư, nếu chúng ta có dịp đứng
nhìn vào vườn rau, chúng ta thấy những luống cải xà lách, rau
dền, những bụi bông hồng rất đẹp. Chúng ta nên biết rằng những
luống đất đó đã được xới và chuẩn bị kỹ lưỡng cho nên chúng ta
mới có các loại rau mọc lên rất mạnh và tốt tươi. Cô Hoa Thiện
và Trúc Cẩm, cô Nghiêm Ái và đạo hữu Nhuận Chơn bốn người đã
để ra rất nhiều thì giờ và công phu để chăm sóc những luống
vườn rau ở Chùa Dược Sư. Các phật tử đó biết rất rõ nếu không
xới, không nhổ cỏ, không làm cho đất mềm, đất nhuyễn thì không
thể nào có rau và trồng rau được. Tâm của ta cũng vậy, nếu tâm
của ta không được điều phục, không được uốn nắn, không được
bảo hộ thì tâm của ta sẽ gây ra đau khổ và không thể nào tạo
được hạnh phúc cho mình và cho người mà chúng ta thương. Khi
mà chúng ta thường vun xới thì tâm chúng ta trở nên thuần
thục, lúc đó tâm của chúng ta trở thành rất dễ thương. Các
loại tâm dễ thương đó là:
-
1- Tâm Nhu Nhuyễn.
-
Nhu nhuyễn là mềm. Tâm nhu nhuyễn dễ làm
việc lắm, còn nếu tâm cứng ngắc thì rất khó làm việc. Đất cứng
mà không cày thì không trồng trọt gì được. Hãy lấy một cành
cây khô mà làm ví dụ. Khi chúng ta uốn cành cây khô này thì nó
sẽ gãy. Trong khi đó với một cành tre non hay một dây mây,
chúng ta có thể uốn nắm một cách rất dễ dàng. Sự khác nhau
giữa cành cây khô và sợi dây mây là ở chỗ một bên có sự nhu
nhuyễn, một bên không có sự nhu nhuyễn. Tâm của ta cũng vậy,
có khi nó cứng ngắc, cố chấp đủ thứ, dù có người muốn giúp, cố
nói cho chúng ta nghe một điều gì đó nhưng tâm chúng ta nó vẫn
trơ trơ, vẫn không chuyển lay. Tâm đó gọi là tâm không nhu
nhuyễn.
-
2- Tâm Thích Ứng.
-
Tâm thích ứng là tâm uyển chuyển, tâm có
thể chấp nhận được những hoàn cảnh mà chúng ta không chờ đợi
trước. Chẳng hạn như chúng ta có một ý niệm về Chùa Dược Sư,
vì nghĩ rằng Chùa Dược Sư là đẹp như thế này hoặc thế kia,
nhưng khi về tới Chùa Dược Sư thì thấy Chùa Dược Sư không
giống như những điều mà chúng ta đã nghĩ và đã vẽ ra, đã suy
nghĩ đến. Vì không bỏ được cái ý niệm trước của chúng ta về
Chùa Dược Sư cho nên chúng ta không thích ứng được. Kết quả là
chúng ta cảm thấy thời gian ở Chùa Dược Sư không hạnh phúc vì
những điều ta mong đợi đã không xảy ra. Tâm đó gọi là tâm
không thích ứng. Trong khi đó, tâm thích ứng là tâm dễ hội
nhập với hoàn cảnh trong hiện tại. Hội nhập ở đây không có
nghĩa là chúng ta phải bỏ cái của chúng ta và hoàn toàn đi
theo cái của người khác. Hội nhập ở đây là chúng ta hòa chung
với hoàn cảnh và tìm cách để đem những điểm tích cực của mình
ra cống hiến và phối hợp với cái tích cực của địa phương,
khiến cho hai cái tốt được phối hợp với nhau. Chúng ta không
đánh mất cái tốt của mình mà địa phương cũng không đánh mất
cái đẹp của địa phương. Đó gọi là thích ứng. Chẳng hạn như quý
Thầy ở Việt Nam có cái đẹp, cái hay của truyền thống. Nhưng mà
khi sang Chùa Dược Sư các Thầy thấy các Thầy tu học tại Mỹ
thỉnh thoảng thiếu những cái hay đó của truyền thống, nhưng
đồng thời các Thầy lại thấy các Thầy tu và được hướng dẫn ở
Hoa Kỳ cũng có những cái hay của Tây Phương, của những cái
không truyền thống. Nếu các Thầy thích ứng thì các Thầy chấp
nhận hoàn cảnh mới rồi từ từ trao truyền những cái hay, cái
đẹp trong truyền thống cho các Thầy được trưởng thành trên xã
hội Tây Phương, và đồng thời học những cái hay cái đẹp mà các
Thầy bên nầy có, tại vì mỗi nền văn hóa đều có những nét đặc
thù khác nhau. Nếu các Thầy bó tay và nghĩ là mình phải về lại
Việt Nam, còn nếu ở lại thì mình sẽ không làm được gì hết, đó
là vì các Thầy không có tâm thích ứng.
-
3- Tâm Xảo Diệu.
-
Tâm xảo diệu là tâm có khả năng làm được
những việc mà những tâm khác không thể làm được. Người có tâm
đó thì rất khéo léo, khéo léo như hai bàn tay của một cô y tá
khi chích thuốc hay băng bó. Phải tập luyện lắm mới có được
hai bàn tay của cô y tá. Tâm của mình cũng vậy, khi tâm của
chúng ta xảo diệu thì chúng ta có thể tuỳ theo hoàn cảnh và độ
đời một cách rất dễ dàng. Chúng ta có thể sống với các huynh
đệ khác ở trong chùa hay trong một tu viện một cách rất hạnh
phúc. Còn nếu không có tâm xảo diệu, nếu cứng ngắc và không
biết thích ứng thì chúng ta chỉ chịu chết thôi.
-
Tất cả những loại tâm nầy đều có hạt giống
ở trong tàng thức. Nếu chúng ta thực tập, tu học như chuyện
cày ruộng hàng ngày thì hạt giống của tâm nhu nhuyễn, của tâm
thích ứng và của tâm xảo diệu sẽ được tưới tẩm và chúng ta sẽ
trở thành một người sống có hạnh phúc trong bất cứ hoàn cảnh
nào. Vì vậy mỗi khi giận, buồn, hoặc thất vọng ê chề, chúng ta
thường hay thối thất muốn bỏ đi, muốn trốn tránh xã hội loài
người, thì chúng ta phải biết rằng cái tâm của chúng ta đang
còn là một miếng đất hoang, chưa được cày bừa, chưa được tu
tập.
-
Phật dạy rằng tâm không tu tập sẽ đem lại
rất nhiều khổ đau cho mình và cho người, trong khi đó tâm được
tu tập sẽ đem lại hạnh phúc cho mình và cho người. Vì vậy đối
với người tu hành, công việc hàng ngày là chúng ta phải cày
cấy mảnh đất tâm của mình. Khi ngồi thiền chính là lúc chúng
ta cày ruộng tâm của mình. Khi đi thiền hành chúng ta cũng cày
ruộng tâm của mình. Khi ăn cơm cũng đều là những lúc chúng ta
cày mảnh ruộng tâm của chúng ta cả.
-
Ngoài ra trong những công việc hằng ngày
như khi nấu cơm, thổi lá, rửa sân, tưới hoa cũng đều là những
lúc chúng ta cày miếng đất tâm của chúng ta. Đừng nghĩ rằng tu
hành chỉ xảy ra trong khi mình ngồi thiền hay nghe thuyết Pháp
mà thôi. Cái tâm của chúng ta phải luôn luôn được tu tập. Theo
danh từ Hán Việt, tu là làm cho đẹp, làm cho tốt, làm cho nó
có thể sử dụng được. Tiếng Phạn tu có nghĩa là cày bừa, trồng
trọt. Chúng ta phải cày bừa mảnh đất tâm của chúng ta, và phải
gieo hạt giống, phải tưới tẩm, đó là tu tập. Cố nhiên khi muốn
trồng thì chúng ta phải có đất mà đất thì đã có rồi. Nhưng có
thể đất của chúng ta còn hoang cho nên chúng ta phải dùng cày,
dùng bừa, phải tưới tẩm, phải vun bón, phải gieo hạt giống, và
phải trừ diệt cỏ. Tất cả những công việc đó đều thuộc vào phạm
vi tu tập.
-
Vì những phiền não hàng ngày quấy động và
vì chúng ta có hạt giống từ dưới chiều sâu của tàng thức, nếu
không tu tập thì những hạt giống xấu nầy nó sẽ lăng xăng, trỗi
dậy và làm cho quang cảnh của ý thức tiêu điều. Ý thức chúng
ta tạm ví như là phòng khách của chúng ta, còn tàng thức tương
tự như là kho chứa. Khi kho chứa của chúng ta đầy những hạnh
phúc thì thỉnh thoảng nó cũng đẩy cửa vào ngồi chểm chệ trong
phòng khách của ta. Và nếu một người khách dễ thương, một
người khách có hạnh phúc tới thăm thì chúng ta có hạnh phúc,
vì vậy mà chúng ta cứ tìm đủ mọi cách để giữ người đó lại.
-
Tương tự như vậy, khi kho chứa đầy khổ đau
thì thỉnh thoảng nó cũng đẩy cửa vào ngồi chểm chệ trong phòng
khách của chúng ta. Nếu không tu tập thì chúng ta không có khả
năng đuổi chúng đi, không có khả năng chuyển hóa chúng được.
Chúng ta không biết cách làm cho hạt giống đó đừng tạo ra
khung cảnh sầu đau, u ám.
-
Một trong những phương pháp để tránh khó
khăn là chúng ta nên tỉnh táo để mời thêm một người bạn biết
tiếp khách, đó là người bạn Chánh Niệm tới để soi sáng, vỗ về
và chăm sóc người bạn kia. Cũng như khi đứa con khóc thì bà mẹ
dù đang ở dưới bếp cũng chạy lên ẵm lấy con. Vì vậy mỗi khi ta
buồn chán, giận ghét chúng ta phải mời người bạn chánh niệm
lên để ôm lấy cái buồn, cái giận, cái ghét, cái chán đó mà an
ủi, chuyển hóa chúng.
-
Nói tóm lại, tu tập nghĩa là luôn luôn gọi
mời chánh niệm lên để ý thức được ai đang ở trong phòng khách,
và phải tiếp xử như thế nào để cho cái phòng khách của chúng
ta cho đẹp, cho vui hầu chúng ta luôn luôn có hạnh phúc. Cũng
cùng trong mục đích đó mà chúng ta phải niệm Phật. Niệm Phật,
niệm Pháp, niệm Tăng tức là chánh niệm. Vì biết phòng khách
của chúng ta cần có những người khách quí như vậy cho nên
chúng ta niệm Phật tức ta mời người khách hay nhất đẹp nhất,
hiền nhất, dễ thương nhất có giá trị bậc nhất vào trong phòng
khách của ta. Tại vì chúng ta biết rằng nếu người đó ngồi lại
lâu trong phòng khách của ta thì có lợi lắm. Mỗi phút có mặt,
người đó sẽ gieo vào tàng thức của chúng ta vô số hạt giống
thương yêu, hiểu biết.
-
Như vậy nếu có lúc người làm vườn giỏi là
người phải biết điều phục khu vườn của mình, phải biết cày
bừa, phải biết nhổ cỏ, phải biết chọn hạt giống, phải biết vun
bón, phải biết tưới tẩm thì sự tu học của chúng ta cũng vậy.
Chúng ta cũng phải biết săn sóc, vun xới tước tẩm thì mảnh
vườn tâm của chúng ta sẽ thuần thục, mảnh vườn tâm của chúng
ta có thuần thục thì những hạt giống thương yêu hiểu biết phát
triển tốt đẹp và những đóa hoa trí huệ sẽ nở rộ đó là điều
chắc chắc.
--o0o--
|
|