|
TẬP SAN DƯỢC SƯ
- Tịnh
Uế Do Tâm
- Trúc Giao
- --o0o--
-
- - Tịnh là
trong sạch.
- - Uế là nhơ
bẩn, ô nhiễm.
- Chúng ta là
Phật Tử theo truyền thống Đại Thừa Phật Giáo, đặc biệt là tại
Chùa Dược Sư chúng ta thực tập theo pháp môn: Niệm Phật, Thiền
Toạ và Kinh Hành, do vậy bên cạnh ngồi thiền chúng ta còn có
tụng Kinh. Bộ kinh mà chúng ta quen biết và thường trì tụng đó
là Kinh A Di Đà.
- Kinh A Di
Đà là một quyển kinh thuộc truyền thống Phật Giáo Đại thừa,
thuộc về nền văn học Phật Giáo phát triển. Đạo Phật chúng ta
có mường tượng giống như một cây đại thọ và cũng là một thực
tại rất là sinh động. Nếu đã là một thực tại sinh động, thì
bất kỳ một cái gì đang sống cũng phải lớn lên, và phát triển.
Một cây đang sống thì ngày nào cũng cho thêm cành, lá. Cành
dài ra thêm, lá mọc nhiều thêm. Có cành mới, lá mới, hoa mới
và trái mới thì cây càng ngày càng sum suê thêm. Đạo Phật cũng
vậy, nhất là đạo Phật mới là một thực tại linh động, một cái
gì đang sống. Vì vậy, mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm, đạo Phật
phải phát triển thêm, không phải chỉ có ở Ấn Độ, Tích Lan,
Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam mà là khắp mọi nơi trên thế
giới. Như vậy trong chiều hướng phát triển nầy, nếu chúng ta
tìm về nguồn thì Đạo Phật Đại Thừa là những hoa trái phát
triển từ cội nguồn Phật Giáo Nguyên Thỉ.
- Lẽ tất
nhiên chúng ta không muốn Đạo Phật là một cái xác khô nằm
trong Bảo Tàng Viện mà là một thực tại sống động, mỗi ngày đều
có thêm sức sống. Và vì vậy, chúng ta phải chấp nhận rằng cây
Phật Giáo mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm phải có thêm cành mới,
lá mới. Đạo Phật phát triển không ngừng, nhưng trước sau gì
thì Đạo Phật cũng vẫn là Đạo Phật, chứ không vì vậy mà Đạo
Phật là một cái gì khác với Đạo Phật.
- Kinh A Di
Đà hiện nay đang được đọc tụng ở khắp các chùa, dầu là chùa
Thiền Tông, vì kinh A Di Đà trình bày một giáo lý rất dễ thực
tập. Những người không có căn trí lớn, những người không đủ
Niệm, Định, Tuệ cũng có thể thực tập, và đọc được kinh A Di
Đà. Nói như vậy, không có nghĩa là những người có căn trí lớn
thì không thực tập được. Tại vì kinh A Di Đà có thể được hiểu
rất sâu, cũng có thể được hiểu rất cạn. Người hiểu sâu cũng có
thể thực tập, người hiểu cạn cũng có thể thực tập, người biết
chữ cũng thực tập được mà người không biết chữ cũng thực tập
được. Vì vậy chúng ta ai cũng phải học kinh A Di Đà bằng một
nhận thức hết sức cởi mở, bởi vì kinh A Di Đà là một giáo pháp
có tính cách phổ biến. Người đại căn thực tập cũng được, mà
người căn trí nhỏ hẹp thực tập cũng được. Khi người có đại căn
niệm:
- - Nam mô A
Di Đà Phật.
- Thì cái
thấy, cái biết và sự thành tựu của họ rất lớn lao. Khi người
có căn trí nhỏ hẹp niệm câu:
- - Nam mô A
Di Đà Phật
- Thì tuy
người ấy cũng có cái thấy, cái biết, và sự thành tựu nhưng có
thể nhỏ bé hơn. Niệm Phật, chúng ta cũng có thể đạt tới Niệm,
Định và Tuệ rất cao. Chúng ta cũng có thể niệm Phật mặc dù
năng lượng Niệm, Định và Tuệ chưa hùng hậu. Hiệu quả của câu
niệm Phật có thể lớn hay nhỏ, đó là do cách hành trì của chúng
ta. Hiệu quả lớn hay nhỏ là do Niệm và Định vững chãi của
chúng ta nhiều hay ít. Để có một khái niệm về cụm từ:
- - Tịnh uế
do tâm.
- Chúng ta là
người học Phật nên có một vài ghi nhận căn bản:
- 1- Trong
Đạo Phật nguyên thỉ, phương pháp Niệm Phật đã là một phương
pháp rất quan trọng. Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm
Giới, niệm Thí và niệm Thiên đều là những phương pháp thực tập
có ngay trong thời Phật tại thế. Phương pháp này được gọi là
Tùy niệm, và ngay trong thời Phật tại thế đã có nhiều người
Phật tử thực tập Niệm Phật. Đức Thế Tôn đã có vững chãi, có
thảnh thơi, có từ bi, có hỷ xả, và do vậy mỗi khi nhớ tới đức
Thế Tôn thì tự nhiên chúng ta thấy trong người khỏe lại, vì
chúng ta cũng có được tính vững chãi, tính thảnh thơi của đức
Thế Tôn. Cho nên thời bấy giờ có nhiều người, bên cạnh cách
niệm đơn giản là:
- - Nam mô A
Di Đà Phật
- Chúng ta
cũng có thể chắp tay lại và đọc:
- - Kính lạy
Đức Như Lai là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.
- Chúng ta
đọc mười danh hiệu của đức Phật và chúng ta hiểu được mười
danh hiệu đó. Mỗi danh hiệu tượng trưng cho một đức tính, một
năng lượng của đức Phật. Khi đọc lên các danh hiệu đó thì
chúng ta đã thấm được một ít năng lượng, và thấy có thêm sự
vững chãi và thảnh thơi trong con người chúng ta ngay.
- Từ ngàn
xưa, chư tổ đức cũng đã từng niệm Phật, và niệm Phật là để có
sự vững chãi, thảnh thơi, an lạc. Ngoài ra còn có niệm Pháp,
niệm Tăng và niệm Giới... Như vậy, niệm Phật là một pháp môn
chính thống ở trong truyền thống Phật giáo ngay từ ban đầu.
- 2- Theo
nguyên tắc của pháp môn niệm Phật thì trước hết chúng ta nghĩ
rằng Phật là một thực tại ở bên ngoài chúng ta, đó là muốn nói
đến tha lực. Chúng ta có thể nghĩ là Ngài đang cư trú ở Tây
Phương Tịnh Độ, hay Ngài đang cư trú ở Tu Viện Kỳ Viên, hay
trên Núi Linh Thứu cũng được. Khi nghĩ như vậy và trong lúc
chúng ta niệm đến danh hiệu của Phật, thì tự nhiên chúng ta sẽ
tiếp xúc được với sự thảnh thơi, vững chãi, đồng thời những
chất liệu Từ, Bi, Hỷ và Xả tức thì có mặt trong con người của
chúng ta.
- Như vậy khi
chúng ta bắt đầu thực tập Niệm Phật, thì Phật là một đối tượng
ở bên ngoài chúng ta, nhưng khi chúng ta hành trì thâm sâu rồi
thì từ từ Phật trở thành một thực tại vừa ở trong, vừa ở
ngoài. Tại vì trong tâm thức của ta cũng có những hạt giống
vững chãi và thảnh thơi, của đức Từ, Bi, Hỷ, Xả, của Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế
Tôn.... như Đức Phật. Khi chúng ta niệm Phật như vậy, chúng ta
tiếp xúc được vừa với thực tại của Phật ở ngoài và vừa với
thực tại của Phật ở trong tâm. Nếu chúng ta giỏi thì chúng ta
nhận thức ra rất sớm, rằng Phật luôn luôn có mặt trong tâm
chúng ta. Nhờ đó mà mặc dầu hiện tại chúng ta chưa từng gặp
được Đức Phật Thích Ca vì Ngài đã vào Niết Bàn, cũng như chư
Phật khác trong mười phương, nhưng chúng ta biết rằng các Ngài
luôn luôn ở trong chúng ta. Ngài không bao giờ mất.
- 3- Đối với người
vừa mới thực tập niệm Phật, thì Phật là một thực tại ở ngoài.
Nếu người ấy thực tập cho sâu sắc thì Phật trở nên một thực
tại ở trong tâm, cũng có thể vừa ở trong mà cũng vừa ở ngoài.
Và vì vậy, dù Phật ở Tịnh Độ hay Phật ở trong cuộc đời nầy,
thì Ngài vẫn có mặt trong tâm chúng ta và trong tâm của ta vẫn
thường có Tịnh Độ.Chư tôn đức sau này đã nói rằng Phật A Di Đà
có mặt trong tâm mình và Tịnh Độ cũng có mặt ngay ở trong tâm
mình. Đó gọi là:
- - Tự tánh
Di Đà, Duy Tâm Tịnh Độ.
- Đến đây xin
đại chúng ghi nhận là: Ý niệm về cảnh giới Tịnh Độ của Đức
Phật A Di Đà là một thực tại ở ngoài, nằm về Phương Tây đó
chẳng qua chỉ là ý niệm ban đầu. Nếu chúng ta thực tập giỏi
thì chúng ta sẽ thấy rằng Phật A Di Đà và cõi Tịnh Độ không
phải chỉ nằm ở Phương Tây mà nằm ở trong tâm chúng ta, mà cũng
không phải chỉ có ở trong tâm của chúng ta không thôi, mà là ở
khắp cùng cả mọi phương. Như vậy, cả người thực tập giỏi, lẫn
người thực tập chưa giỏi đều đạt tới kết quả, nhưng đối với
người tu tập giỏi thì kết quả rất lớn và mau hơn, còn người tu
tập chưa giỏi thì kết quả chỉ vừa vừa, và chậm hơn.
- Trong hệ
thống Kinh Tạng Pali có kinh Đại Thiện Kiến Vương. Nội dung
của kinh này cũng có nói đến:
- - Thất
trùng lan thuẫn, thất trùng la võng, thất trùng hàng thọ,...
- Và:
- - Hoa sen
lớn như bánh xe.
- Chúng ta
thấy sự diễn tả nầy rất giống cảnh giới mầu nhiệm của Kinh A
Di Đà ở trong truyền thống Phật Giáo Đại Thừa.
- Ngược dòng lịch
sử, nhớ lại lúc đức Phật sắp viên tịch, tăng đoàn của Ngài
đang đi lên miền Bắc, khi tới được thành Câu Thi Na thì Đức
Phật nghĩ rằng Ngài nhập diệt nơi đây cũng được. Vì đây là một
thành phố nhỏ. Thầy A Nan biết được ý của Phật, cho nên Thầy A
Nan yêu cầu Ngài đừng nhập diệt ở đây, đợi tới một thành phố
nào thật đẹp mới nên nhập diệt. Thật ra trong thâm tâm của
Thầy A Nan không có phân biệt lớn nhỏ, mà đây là chiến thuật
của Thầy. Thầy muốn Đức Phật chậm nhập diệt giờ phút nào thì
quý giờ phút đó. Cho nên Thầy A Nan thưa:
- - Bạch Đức
Thế Tôn, thành phố Câu Thi Na này nhỏ xíu, Đức Thế Tôn đừng
nhập diệt ở đây, xin Ngài đợi đến một thành phố nào lớn hơn và
đẹp hơn rồi hãy nhập diệt.
- Đức Phật
cười và nói:
- - Này A
Nan, Thầy đừng nói rằng đây là một thành phố nhỏ hẹp. Thuở quá
khứ, thành Câu Thi Na này có tên là Câu Thi Vương, giàu có
cùng tột, dân chúng đông đúc. Thành nầy dài mười hai do diên,
rộng bảy do diên. Ở đây, người ta đã dựng lên các tháp cao
bằng một người, hai, ba, bốn cho đến bảy người. Không những
vậy mà thành Câu Thi Vương ở bên ngoài có bảy lớp hàng rào bao
bọc, các hàng rào được xây bằng gạch với bốn loại châu báu là
vàng, bạc, lưu ly, thủy tinh; bảy lớp hào thì được rãi bằng
cát với bốn lớp châu báu là vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh.
- Này A Nan, Câu Thi
Vương cũng được bao bọc bởi bảy lớp tường thành. Ở ngoài các
lớp tường thành ấy, cũng được xây dựng bằng bốn lớp châu báu
vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh. Thành Câu Thi Na cũng được bao
bọc bởi bảy lớp cây đa la. Các cây ấy được dựng bằng bốn lớp
châu báu. Cây đa la bằng vàng thì hoa, lá, và trái bằng bạc.
Cây đa la bằng bạc thì hoa, lá, trái bằng vàng. Cây đa la bằng
thủy tinh thì hoa, lá, trái bằng lưu ly và cây bằng lưu ly thì
hoa, lá, trái bằng thủy tinh. Khoảng giữa cây đa la có đào
những ao hoa. Trong các ao ấy có trồng các loại bông dưới nước
như hoa sen xanh, hoa sen đỏ, hoa sen trắng, hoa sen hồng. Bờ
ao hoa ấy có đắp bốn loại châu báu là: Vàng, bạc, lưu ly và
thủy tinh. Ở đây, ao hồ trải cát bằng bốn loại châu báu: Vàng,
bạc, lưu ly, thủy tinh. Trong các ao ấy, có thềm cấp bằng bốn
loại châu báu là: Vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh ...
- Nói tóm lại, mặt
dầu là kinh thuộc truyền thống Nguyên Thủy nhưng cũng do Phật
nói, cho nên chúng ta thấy có những chi tiết về những vẻ đẹp
của Tây Phương Tịnh Độ. Riêng về Tịnh Độ, các vị Tổ Sư của tôn
phái nầy đã có nhiều tác phẩm chú giải kinh A Di Đà và nhiều
tác phẩm diễn giải rất sâu sắc. Chúng ta có thể thừa hưởng
được những bộ sách diễn giải đó.
- Chúng ta là
Phật Tử Đại Thừa, học hỏi và thực tập như những sự hướng dẫn
trong kinh A Di Đà theo phương pháp thiền quán: Hiện pháp lạc
trú để đừng bị chìm đắm, dù là chìm đắm trong những lý thuyết
thậm thâm vi diệu. Chúng ta học hỏi và áp dụng kinh A Di Đà
trong đời sống tu tập hàng ngày của chúng ta, học hỏi và thực
tập như thế nào để cho có hạnh phúc, an lạc, vững chãi và
thảnh thơi, để Đức A Di Đà và cõi Tịnh Độ có thể có mặt trong
đời sống hàng ngày của chúng ta. Vì vậy khi nghe giảng Kinh,
nhất là về kinh A Di Đà, chúng ta hãy nghe và học kinh A Di Đà
bằng nhãn quan mới, chúng ta hãy nhìn giáo lý của kinh A Di Đà
bằng cách nhìn của Đạo Phật Nguyên Thỉ. Tức là cái nhìn như
khi Đức Phật còn tại thế thì chúng ta mới thấy sự sinh động,
hùng tráng của tăng đoàn và chư Phật Tử hết lòng tu đạo, và hộ
đạo vào thời kỳ đó.
- Chúng ta nên biết
rằng niềm ao ước sâu xa nhất của xã hội con người là tìm ra
được môi trường sống có an ninh, tình thương và sự hiểu biết.
Tất cả chúng ta đều mong ước có một môi trường như vậy. Nội
dung Kinh A Di Đà cho chúng ta những chất liệu và những hình
ảnh đẹp đó. Ở đó chúng ta thấy người chủ trương Tịnh Độ là Đức
Phật A Di Đà, là người đã từng tu học và cũng đã có ước vọng
đó, cho nên Ngài đã tạo ra một khung cảnh có an toàn, có tình
thương, có những điều kiện để thực tập. Các đức Bồ Tát, các
đức Thế Tôn trong mười phương cũng thấy được những ước muốn
của chúng ta, và của mọi loài chúng sanh. Không phải chỉ riêng
chư Phật và chư Bồ Tát mà bất cứ một ai một khi đã biết thực
tập một cách thông minh và vững chãi thì cũng đều nghĩ tới sự
thành lập những môi trường như vậy, để mình tự nuôi dưỡng
mình, và để mình có thể nuôi dưỡng những người khác. Vì vậy ý
hướng thành lập Tịnh Độ là tâm niệm của tất cả những người tu
học. Trong chúng ta, người đã tu lâu năm hay người mới tu cũng
vậy, ai cũng ao ước thiết tha là làm thế nào để lập ra một
khung cảnh trang nghiêm tương tự như vậy, trong đó chúng ta
được sống có thầy, có bạn, có an ninh, được che chở, được
thương yêu và có điều kiện đi tới trên con đường thành tựu đạo
nghiệp và chuyển hóa khổ đau.
- Chúng ta là người
Phật tử nhất là Phật tử đại thừa, một khi mà biết tu tập giáo
pháp giải thoát thì ai cũng ôm ấp ước muốn như vậy. Chúng ta
cũng muốn lập ra một khung cảnh để an trú, để có nơi đón tiếp
những người bạn của mình, những người thương của mình, mời họ
đến đó để cùng chung sống, cùng tu học, cùng hưởng được sự có
mặt của vững chãi, thảnh thơi, tình thương và sự an lạc.
- Tuy là nuôi
dưỡng tâm niệm đó, nhưng có khi chúng ta không có nhiều may
mắn. Lý do là chúng ta đã có duyên cùng chung ở với nhau,
nhưng vì có những người bạn, những người thương của chúng ta
không có ai chịu lắng nghe ai, không ai chịu nhịn nhường ai,
thay vì chúng ta đến để gặp nhau, và chia xẻ những hạnh phúc
an lạc cho nhau. Nhưng trong khi đó chúng ta chỉ tạo điều
kiện đau khổ cho nhau. Nghĩa là không tạo ra được sự an lạc,
hòa hợp và thanh tịnh của một tăng thân. Nếu chúng ta không
tạo được một khung cảnh an lạc có nội dung thương yêu như vậy,
thì chúng ta chỉ là những người làm nô lệ cho sự tham, sân,
chấp ngã, của chúng ta mãi mãi và không bao giờ sửa được, rốt
cuộc chúng ta không có thì giờ để chăm sóc cho bản thân chúng
ta và cho những người đến với chúng ta.
- Như vậy, từ
khởi điểm thì bản nguyện của chúng ta cũng cùng bản chất với
bản nguyện của đức Phật A Di Đà, nhưng sau đó chúng ta bị lầm
lạc sang một nẻo khác, đó là những nẻo đường ganh ghét tị
hiềm. Do vậy mà chúng ta mất hết những thảnh thơi, mất hết an
lạc và chúng ta không thực hiện được bản hoài ban đầu của
chúng ta. Như vậy, chúng ta phải khéo léo lắm mới xây dựng
được một Tịnh Độ, nếu không, chúng ta sẽ đánh mất luôn cả bản
thân của chúng ta. Một khi đã được gọi là tịnh độ thì trú xứ
đó phải có chất liệu an tịnh thì chúng ta mới gọi nó là Tịnh
Độ được. Tịnh tức là không có sự ô nhiễm. Ô nhiễm tức là không
tịnh. Trước hết chúng ta gọi tên của những ô nhiễm mà chúng ta
thường vướng phải đó là sự bận rộn. Chúng ta bận rộn quá nhiều
về những chuyện:
- - Đến người
nầy nói xấu người kia...
- Bận rộn về
chuyện:
- - Tìm kiếm
chỗ dỡ của người kia ...
- Chúng ta cứ
bận rộn như vậy thì đâu có thì giờ để tu học, đâu có thì giờ
chăm sóc cho nhau, đâu có thì giờ để thương nhau. Có sự bận
rộn là không có tịnh, tức là nhiễm. Cõi Ta Bà của chúng ta
đang sinh sống đây được mệnh danh là Uế Độ, không phải Tịnh
Độ. Bởi vì chúng ta để tiền bạc thống trị chúng ta, chúng ta
để tiền bạc và quyền lực của nó chi phối chúng ta. Ở trong
khung cảnh đó, người nào cũng muốn làm lớn, người nào cũng
muốn có uy quyền với những người khác, người nào cũng muốn lấy
tiền bạc, oai phong của mình ra để trên bàn thì còn có ai chịu
nghe ai đâu. Như vậy cõi đó không còn là cõi Tịnh Độ nữa. Vì
trong hoàn cảnh như vậy, chúng ta chỉ thấy có sự ganh tỵ, giận
hờn và sợ hãi. Tất cả các yếu tố ấy đều là không thanh tịnh.
Những gì làm ô nhiễm môi trường thì ta gọi là không thanh
tịnh.
- Ban đầu thì
tâm của chúng ta rất tốt, chúng ta muốn tạo ra một cõi Tịnh
Độ. Nhưng vì thiếu khéo léo, thiếu chánh niệm mà chúng ta đã
tạo ra một cõi Uế Độ. Bận rộn tìm kiếm lỗi lầm, sai trái của
người khác, là yếu tố làm hư hoại môi trường sống chung quanh,
làm ô nhiễm môi trường sống của chúng ta. Do vậy, khi tới một
đạo tràng để tu học, chúng ta thử hỏi Đạo Tràng đó có bị ô
nhiễm không? Nơi đó có chuyện tranh giành quyền bính không?
Người ta có thì giờ để tu học, người ta có thì giờ để thương
nhau, để chăm sóc cho nhau không? Người ta có ganh tỵ, giận
hờn và sợ hãi nhau không? Người ta có sống an lạc không? Tất
cả những câu hỏi đó, và chúng ta có thể trả lời được.
- Nhờ sự tu
tập, nhờ sự quyết tâm của chúng ta mà chúng ta giữ được khung
cảnh thanh tịnh, khung cảnh của sự không ô nhiễm. Đó là Tịnh
Độ. Cõi của chúng ta có thể là Tịnh Độ hay Uế độ, điều đó tùy
thuộc theo tâm niệm của những người sống ở trong cõi đó. Chúng
ta có quyền và có khả năng tạo ra một Tịnh Độ để sống với
nhau, chăm sóc nhau, thương yêu nhau, giúp cho nhau tu học và
chuyển hóa. Chúng ta cũng có quyền tạo ra một Uế Độ, trong đó
sự giành giật, sự ganh tỵ, sự sợ hãi, tiền bạc và quyền lực
đóng vai trò then chốt.
- Khi đọc kinh A Di
Đà, chúng ta nghe nói cõi Tịnh Độ là do đức A Di Đà sáng tạo
ra bằng bốn mươi tám nguyện lực của ngài. Kinh A Di Đà có nói
về dân chúng của cảnh giới Tịnh Độ, và về sinh hoạt hàng ngày
của những người trong cõi Tịnh Độ. Tiêu biểu như là:
- - Sáng sớm, những người trong
nước có thì giờ đi nhặt hoa trên trời rơi xuống để đem cúng
dường các vị Phật và Bồ Tát ở các cõi nước trong mười phương.
Họ đi bằng thần thông, nên sau khi viếng thăm và cúng dường
hoa cho các vị Phật và các vị Bồ tát ở nước khác rồi mà về vẫn
còn dư thì giờ để ăn trưa. Ăn trưa xong thì đi thiền hành.
- Những điều đó rất
là tươi mát, và được nhiều người Phật Tử chúng ta ưa thích
nhất trong kinh, do vậy chúng ta có thể chia xẻ với những
người chung quanh. Nhất là mỗi khi có gió nhẹ thổi qua, các
hàng cây xao động. Từ trong tiếng xao động của lá cành, nếu
lắng tai chúng ta có thể nghe được tiếng thuyết pháp về:
- - Năm Căn,
Năm Lực, Bảy Bồ Đề Phần, Tám Chánh Đạo phần và Bốn Thánh Đế.
- Và bay
liệng giữa hư không có những loài chim mầu nhiệm như:
- - Chim bạch
hạt
- - Chim anh
võ
- - Chim
khổng tước
- - Chim Ca
lăng tần già ...
- Khi chúng
ta lắng nghe tiếng hót của các loài chim ấy, chúng ta cũng
lắng nghe được pháp âm của các đức Như Lai. Kinh không nói đến
một cách trực tiếp hay đầy đủ về phần đóng góp của dân chúng
mà chỉ nói đến thần lực của đức A Di Đà trong việc tạo ra một
cõi Tịnh Độ. Tuy nhiên chúng ta phải hiểu rằng, trong một
khung cảnh sinh hoạt, tất cả những người tham dự đều có bổn
phận đóng góp. Nếu chúng ta biết sống an lạc và thảnh thơi như
những người đang sống ở Tịnh Độ, có thì giờ lắng nghe tiếng
gió trong cây, nghe tiếng chim, đi nhặt hoa cúng dường, ăn cơm
và đi kinh hành, tức là chúng ta đã đóng góp được vào việc
kiến thiết Tịnh Độ rồi.
- Dầu đức A
Di Đà có thảnh thơi cách mấy, có vững chãi cách mấy, có thương
yêu các chúng sanh trong quốc độ của Ngài cách mấy, trong khi
đó những người vãng sinh về cõi A Di Đà vẫn còn bận rộn, vẫn
còn nhiều tập khí nặng nề, còn những bước đi như bước trên
than hồng, vẫn chưa nói được với nhau những lời ái ngữ thì cõi
đó chưa thể gọi là một cõi Tịnh Độ được. Hãy tưởng tượng trong
cõi Tịnh Độ mà còn có những bộ mặt như mới vừa đưa đám tang
xong, một người đang đi như bị ma rược, và trong cõi Tịnh Độ
còn có những người đang nói với người khác bằng giọng trách
móc, điêu ngoa, chua chát, thì cõi Tịnh Độ đó tan biến liền
lập tức. Như vậy, Tịnh Độ là một sáng tạo cộng đồng của đức A
Di Đà và của dân chúng trong nước đó. Vì thế, tịnh hay không
tịnh, tịnh nhiều hay tịnh ít, điều đó không phải chỉ do đức A
Di Đà mà còn do dân chúng trong cõi ấy nữa.
- Khung cảnh
mà chúng ta tạo ra ở tại chùa Dược Sư, hay bất kỳ ở đâu để cho
một số người về tu học cũng vậy, không phải chỉ là sự sáng tạo
của vị Thầy Trụ Trì, hay Thầy Viện Trưởng đứng ra thành lập cơ
sở đó, mà là sự sáng tạo chung của tất cả những người đã tới
tham gia ở nơi đó bằng những bước chân thảnh thơi, bằng nụ
cười hiền hậu, bằng cái nhìn bao dung, bằng lời nói ái ngữ của
họ. Như thế là chúng ta cùng chung sức tạo ra một cõi Tịnh Độ,
trong đó mọi người đều được sống an vui trong tình thương và
sự hiểu biết. Cho nên Tịnh Độ phải là một sự sáng tạo và được
duy trì chung của tất cả mọi người trong cộng đồng mà không
phải chỉ là sự sáng tạo và đuợc duy trì bởi một người, dầu cho
người đó là một người có nhân cách vĩ đại như đức Phật A Di
Đà. Chúng ta hãy tưởng tượng một người chưa biết đi thiền
hành, chưa biết tu niệm là gì, bây giờ sanh sang bên kia và
tiếp tục gây gổ, đánh lộn nhau, chắc chắn Đức A Di Đà sẽ gọi
người ấy đến và nói:
- - Con hãy
tới đây, Thầy dạy cho con cách tu tập để cho con sống đời an
vui.
- Lẽ tất
nhiên bên Tịnh Độ có rất nhiều vị Thầy hướng dẫn, và đức A Di
Đà có thể dặn dò các vị Thầy hướng dẫn đó kiên nhẫn dạy phép
tu học, phép theo dỏi hơi thở và ăn cơm chánh niệm cho những
người vừa mới sanh về cõi Tịnh Độ. Một ngày có không biết bao
nhiêu là người sanh về Tịnh Độ, và chắc chắn là đức A Di Đà có
đủ số giáo thọ để lo dạy dỗ và hướng dẫn cho họ.
- Nói như vậy
là để chúng ta thấy rằng:
- - Dù đang ở
trong cõi Ta Bà, chưa sinh về cõi Tịnh Độ, nhưng nếu chúng ta
đi được từng bước vững chãi và thảnh thơi, nếu chúng ta biết
xử dụng ái ngữ, biết thương yêu nhau và đùm bọc cho nhau, thì
Tịnh Độ đã có thể có mặt ngay tại đây rồi, và chuyện gia nhập
vào cõi Tịnh Độ của đức A Di Đà trở thành một chuyện rất dễ.
- Nói tóm
lại, nếu ngay ở ngay trong cuộc đời nầy, chúng ta đã có Tịnh
Độ rồi thì đi đâu cũng là Tịnh Độ cả. Chúng ta không thể lấy
Tịnh Độ ra khỏi con người của chúng ta được, chúng ta ở đâu là
Tịnh Độ ở đó, vì Tịnh Độ ở ngay trong tâm của chúng ta. Và vì
đã quyết tâm thực hiện Tịnh Độ cho chúng ta và cho người khác,
cho nên đi tới đâu là chúng ta có Tịnh Độ ở đó. Như vậy Tịnh
Độ hay Uế Độ đều do chúng ta, hay nói một cách ngắn gọn:
- - Tịnh
nhiễm do tâm chúng ta.
- Nhưng phải
nhớ cho rằng Tịnh Độ là sự sáng tạo chung của cộng đồng của
chính bản thân chúng ta và với những người tham dự, chớ không
riêng một cá nhân nào. Và càng thực tập, chúng ta càng thấy rõ
ràng rằng đức A Di Đà và cõi Tịnh Độ là những sáng tạo phẩm từ
nơi Tâm của tất cả mọi người chúng ta.
--o0o--
|
|