|
TẬP SAN DƯỢC SƯ
-
Ăn Để Mà Sống
- Chơn Đức
- --o0o--
-
-
Trong cuộc sống hằng
ngày của chúng ta, vấn đề mọi người thường lưu tâm hàng đầu
chính là việc ăn uống. Nếu con người không cần phải ăn uống,
chắc là trên đời không có chuyện đấu tranh giành giựt, không có
chiến tranh xâm lăng, vì quyền lợi của dân tộc mạnh, cuộc sống
của nhân loại sẽ thái bình, an ninh, vui tươi, và hạnh phúc. Đó
là phạm vi chung của nhân loại. Với quan niệm ăn để mà sống chứ
không phải sống để mà ăn, thì chúng ta thấy rằng thức ăn tuy có
nhiều thứ, nhưng dầu sao đi nữa cũng không ngoài bốn loại đó là:
Đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực và thức thực.
-
01- Đoàn Thực:
-
Loại thức ăn thứ nhất
là Đoàn Thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta.
Loại ăn nầy được chia thành hai khuynh hướng đó là: Ăn Mặn và Ăn
Chay.
-
a- Ăn mặn là từ ngữ
chỉ việc ăn uống thông thường, bình thường, thường nhựt của bất
cứ người nào trên thế gian, không quan hệ với bất cứ phong tục,
tập quán, hay tín ngưỡng nào. Nói một cách khác:
-
- Ăn mặn có nghĩa là
ăn tất cả các loại thực phẩm có thể ăn được, trên trái đất này,
bao gồm thịt động vật, trứng, sữa, và các loại thực vật, rau cải
trái cây ...
-
b- Ăn chay là từ ngữ
có nhiều nghĩa khác nhau, tùy theo phong tục, tập quán, hay tín
ngưỡng. Có nhiều nơi ăn chay có nghĩa là:
-
- Không ăn thịt heo,
hay cữ thịt bò.
-
Có nhiều nơi, ăn chay
có nghĩa là:
-
- Không ăn các loại
thịt động vật, sống trên mặt đất, nhưng có thể ăn các loại sinh
vật, sống ở dưới nước.
-
Như vậy với quan niệm
ăn chay có hai lý do chính:
-
- Một là, vì lý do
phong tục, tập quán, hay tín ngưỡng; hai là, vì lý do sức khỏe.
-
Đối với người Phật Tử
đại thừa chúng ta, loại thức ăn đoàn thực nầy được nói một cách
đơn giản đó là ăn chay. Ăn chay có nghĩa là:
-
- Ăn tất cả các thức
ăn, thực phẩm không có liên quan đến mạng sống của chúng sinh.
-
Theo các nhà dinh
dưỡng học, muốn có một cuộc sống đầy đủ sức khỏe, muốn có đủ
năng lực hoạt động trong cuộc đời, chúng ta phải lưu tâm đến
việc ăn uống điều độ, và đầy đủ chất dinh dưỡng. Sách có câu:
-
- Tinh thần minh mẫn
trong một thân thể tráng kiện.
-
Chúng ta thường được
chỉ dẫn, nên theo một chế độ ăn uống thích hợp, với bao nhiêu
phân lượng chất đạm, chất xơ, chất bột, chất béo, chất ngọt,
chất khoáng, chất vôi, chất sắt, chất nước, và các loại sinh tố,
trong một ngày, để cơ thể có đủ năng lượng hoạt động, một cách
tốt đẹp, và sống lâu trăm tuổi, một cách khỏe mạnh.
-
Theo các báo cáo khoa
học, rau cải, ngũ cốc, hoa quả, thực vật, cũng đầy đủ chất dinh
dưỡng cho sức khỏe, cho nhu cầu sinh hoạt hằng ngày, trong đời
sống của con người. Các người ăn chay vẫn sống khỏe sống thọ,
không khác những người ăn mặn. Ăn chay còn có ích lợi như dễ
tiêu hóa hơn, ít gây bệnh tật hơn. Trên thế giới ngày nay, Tây
Phương cũng như Đông Phương, số người ăn chay, vì lý do sức khỏe
ngày càng nhiều hơn. Theo khuyến khích của giới y khoa và số
người ăn chay, vì lý do tín ngưỡng, cũng gia tăng nhiều hơn.
-
Những người phát tâm
ăn chay, vì lòng từ bi, không cứ phải là người theo đạo Phật,
nhưng bất cứ một ai khi đã phát tâm ăn chay thì thường cảm thấy
an vui lợi lạc, và nhẹ nhàng hơn, dễ cảm thông với các loài sinh
vật khác, và yêu mến thiên nhiên hơn, cảm nhận được vũ trụ vạn
vật đều đồng nhứt thể. Những người ăn chay, vì lý do sức khỏe,
cũng như lý do tâm linh, thường hiền lành hơn, ít náo động hơn,
tâm tánh dễ dãi hơn, nhưng vẫn sinh hoạt bình thường, như bao
nhiêu người khác. Những người chung quanh thường cảm thấy an tâm
hơn, khi sống gần gũi với những người ăn chay.
-
Như chúng ta đã biết,
ngoài những ích lợi về phương diện sức khỏe về thể chất, ăn chay
trong đạo Phật có mục đích cốt yếu là:
-
- Tránh nghiệp sát
sinh và trưởng dưỡng tâm từ bi.
-
Thực vậy, vì con người
không có tâm từ bi thực sự, cho nên con người còn ám hại con
người, con người còn ganh tỵ đố kị con người, con người còn muốn
thấy người khác đọa địa ngục vì không theo tôn giáo mình, không
cùng môn phái, không cùng pháp tu, không đồng quan điểm với mình
về một vấn đề nào đó. Nếu một người như thế thì làm sao có thể
biết, và nghĩ đến việc ban vui cứu khổ cho muôn loài. Do vậy mà
nếu chúng ta là người biết tự nguyện phát tâm ăn chay, thì chúng
ta là người đó có tâm từ bi và coi muôn loài như bản thân mình,
không thích giết hại một sinh vật nào, không muốn nhìn thấy một
sinh vật nào đau khổ, để thỏa mãn dục vọng của chúng ta. Trong
cuộc sống hằng ngày, người Phật Tử phải căn cứ trên hạnh từ bi,
bình đẳng và lợi tha, trong mỗi hành động, lời nói và ý nghĩ. Vi
cổ nhân đã từng có nói:
-
- Nhứt thiết chúng
sinh vô sát nghiệp,
-
Hà sầu thế giới động
đao binh.
-
Nghĩa là:
-
- Nếu tất cả chúng
sinh không sát hại lẫn nhau,
-
Thì lo gì thế giới có
chiến tranh.
-
Lòng từ bi của những
người ăn chay, biết thương yêu loài người, lan rộng đến các loài
sinh vật. Họ hiểu biết rằng các loài sinh vật đều ham sống sợ
chết, đều bình đẳng trước sự đau khổ, khi bị sát hại, cũng như
loài người, không khác. Chứ không phải, người ăn chay chỉ vì lý
do sức khỏe, không thể ăn thịt được, hoặc ăn chay với tâm mong
cầu được sống lâu hơn, được lên thiên đàng, được về cực lạc. Bởi
vì, con trâu con bò, con lừa, con ngựa cũng là ăn chay, vì chỉ
biết ăn cỏ, không ăn thịt được. Nhưng, đời sống của những loài
nầy rất là đau khổ.
-
Trong đạo Phật có hai
hệ phái:
-
- Hệ phái nguyên thủy
-
- Và hệ phái phát
triển.
-
Hệ phái Nguyên Thủy,
còn gọi là Nam Tông, chủ trương giữ y nguyên truyền thống Phật
giáo, từ thời nguyên thủy, cho nên quý sư là các vị khất sĩ,
mang bình bát đi khất thực, thiên hạ bố thí cúng dường vật thực
gì, các ngài dùng như vậy, không chọn lựa. Các ngài vẫn khỏe
mạnh, tinh tấn tu hành, và đạt đạo chứng đạo. Đó là hệ phái
truyền từ miền nam nước Ấn Độ, sang Tích Lan, Thái Lan, Miến
Điện, Ai Lao, Cao Miên. Phật giáo ở các quốc gia này đều là quốc
giáo.
-
Còn hệ phái Đại Thừa,
còn gọi là Bắc Tông, được truyền từ miền bắc nước Ấn Độ, sang
Tây Tạng, Trung Hoa, Việt Nam, Triều Tiên và Nhựt Bổn. Khi Phật
giáo du nhập vào các quốc gia này, tùy thuận văn hóa địa phương
cho nên dễ dàng hội nhập một cách hòa bình, và phát triển một
cách nhanh chóng trong lòng các dân tộc đó, biến thành Phật giáo
địa phương, đem lại an lạc và hạnh phúc cho người dân bản xứ.
Chẳng hạn như: Phật giáo Trung Hoa, Phật giáo Việt Nam, Phật
giáo Tây Tạng, Phật giáo Triều Tiên, Phật giáo Nhựt Bổn, đều có
những nét đặc thù, riêng của từng nơi. Ở các quốc gia này, chỉ
trừ Việt Nam có cả hai hệ phái cùng du nhập vào, chư Tăng Ni
không đi khất thực mà chỉ trụ xứ tại một tu viện, hay một ngôi
chùa nào đó, tự lo việc ăn uống. Cho nên các ngài ăn chay, chỉ
nhận cúng dường và dùng các thức ăn, không có liên quan đến mạng
sống của các sinh vật. Các ngài vẫn khỏe mạnh, tinh tấn tu hành,
và đạt đạo chứng đạo.
-
Điều đó chứng tỏ rằng,
vấn đề ăn uống hay một từ ngữ chuyện môn đó là loại ăn đoàn thực
để chỉ cho hai quan niệm ăn chay hay ăn mặn nói riêng, không
phải thực sự là vấn đề tối quan trọng trong đạo Phật, cũng không
phải là vấn đề trực tiếp liên quan đến sự tinh tấn tu hành, và
đạt đạo chứng đạo. Điều quan trọng trong đạo Phật chính là:
-
- Tâm trí có dính mắc
hay không dính mắc cảnh trần. Nếu tâm dính mắc gọi là tâm loạn
động. Nếu tâm không dính mắc, chính là tâm thanh tịnh.
-
Tâm từ bi là điều kiện
hàng đầu của người tiến tu theo đạo Phật, cho nên đối với hàng
Phật Tử tại gia, người nào phát tâm ăn chay trường được, thì
thực là đáng quý, đáng trân trọng. Đó là nhân duyên tốt để tiến
tu trên đường đạo, rất đáng khuyến khích. Tuy nhiên, đối với
những người, không ăn chay trường, lý do hoàn cảnh, vì lý do sức
khỏe, cũng đừng cố chấp, gây thêm rắc rối ở trong gia đạo. Có
thể ăn chay, vài ngày trong tháng, vì mục đích ăn chay là nhắc
nhở chính mình, phải luôn luôn nhớ, những lời Phật dạy, áp dụng
hằng ngày, tu tâm dưỡng tánh, cũng thực rất tốt. Tự nhắc nhở
mình:
-
- Tu là phải hiền,
phải có lòng từ bi, đối với tất cả mọi loài chúng sinh, bắt đầu
từ loài người cho đến loài vật, bắt đầu từ người thân cận, cho
đến người ở phương xa, mới là phải đạo vậy.
-
Nếu chúng ta là người
chưa thể ăn chay được theo nghĩa đen, vì lý do sức khỏe, vì lý
do hoàn cảnh, hay vì bất cứ lý do nào, thì chúng ta cũng có thể
ăn chay qua ba nghiệp thân, miệng, ý. Nghĩa là:
-
a- Thân
-
- Không sát sinh,
-
- Không trộm cướp,
-
- Không tà dâm,
-
b- Miệng
-
- Không nói dối,
-
- Không nói lời dua
nịnh,
-
- Không đâm bị thóc
thọc bị gạo,
-
- Không nói lời thô
tục độc ác.
-
c- Ý
-
Không nghĩ cách vu oan
giá họa, không tức giận thù oán người, không chứa chấp lòng ganh
tị đố kỵ người khác.
-
Nói chung, không ăn
chay được bằng phương tiện vật chất, người Phật Tử tại gia nên
cố gắng giữ gìn thân, miệng, ý cho được thanh tịnh, trong bất cứ
thời điểm nào, tại bất cứ nơi đâu. Đó chính là tu tâm dưỡng tánh
vậy.
-
Hơn thế nữa, người
biết tu tâm dưỡng tánh, không bao giờ gây đau khổ cho bất cứ ai,
dù là người thân hay kẻ thù qua các hành động đánh đập, hãm hại.
Hoặc không bao giờ gây não loạn cho người khác, qua việc thưa
gửi kiện tụng, vu khống cáo gian. Hoặc không bao giờ gây tổn hại
thanh danh và hạnh phúc gia đình người khác, qua những lời nói
ác độc có chủ ý, đặt điều thêm bớt, có nói không, không nói có,
kết án bừa bải, bóp méo sự thực, ... lợi mình hại người, trong
khi đó người khác sống chết, đau khổ như thế nào, thì cũng mặc
kệ họ là không nên!
-
Những người có bàn thờ
Phật tại gia, dù có ăn chay trường hay ăn chay kỳ, dù có thọ bồ
tát giới, tu bát quan trai giới, hay tu thập thiện giới, nhưng
tâm không thanh tịnh, vẫn còn tiếp tục những hành động, những
lời nói, và những ý nghĩ, lợi mình hại người, vẫn muốn người
khác chết để mình sống, vẫn muốn người khác nhục để mình vinh,
vẫn muốn người khác thua để mình thắng, lợi dụng lòng tốt của
mọi người, để sung sướng tấm thân, thì thực là uổng công vô ích.
Như thế không ích lợi gì cho việc trở về nguồn cội, cho việc
thoát ly sanh tử luân hồi, cho việc dứt trừ phiền não khổ đau
của chúng ta! Trong kinh sách có câu:
-
- Sân si nghiệp chướng
không chừa.
-
Bo bo mà giữ tương dưa
làm gì?
-
Nghĩa là:
-
- Người nào vẫn tiếp
tục tạo nghiệp chướng, tâm tham lam, tâm sân hận, tâm si mê, vẫn
còn y nguyên,
-
Như vậy, thì dù có thờ
Phật tại gia, ăn chay lễ lạy, tụng kinh bái sám thì cũng chẳng
có ích lợi gì.
-
Ngày nay, chúng ta có
thể thấy những hình ảnh đó hiện tiền, trên truyền hình, qua các
chương trình dạy nấu ăn, hay qua các màn ăn uống trong nhà bếp
tại gia, hay bếp của các nhà hàng, trong khi các con vật vẫn còn
sống, ngo ngoe giẫy giụa trên tấm thớt, dưới con dao phay, hoặc
bò lăn bò càng trên chảo nóng, hoặc vùng vẫy trong nồi nước sôi,
hoặc bị cột trói cứng ngắc, chịu đớn đau vô cùng tận. Thực là
cảnh tượng địa ngục ở trần gian, vô cùng khủng khiếp, mà những
người có tâm từ bi tránh được bao nhiêu tốt bấy nhiêu.
-
Dĩ nhiên, người Phật
Tử chân chánh tuyệt đối không bao giờ nên bày đặt cách ăn uống
cầu kỳ quái dị, vui thú trên sự đau đớn rên la của các sinh vật
còn sống ngay tại bàn tiệc, như bậc vua chúa, trưởng giả giàu
sang, thường hay hưởng thụ. Chúng ta nên biết rằng những vị vua
chúa, hay các nhà giàu sang quyền quý, là những người có rất
nhiều phước báo, từ nhiều đời nhiều kiếp trước, nên đời này kiếp
này mới được như vậy.
-
Phước báo ví như tiền
tiết kiệm dành dụm từ trước, không biết làm việc thiện tạo thêm
phước, lại tiêu xài phung phí nhiều quá, cũng có ngày cạn hết.
Cho nên khi hưởng hết phước báo, vì trong kiếp này, không biết
tu tâm dưỡng tánh, lại còn tạo tội nghiệp như vậy, thì có lẽ
cuộc đời của họ sẽ kết thúc hết sức bi thảm. Chúng ta đọc sách
báo xưa nay thường thấy các vị vua chúa, bị ám sát chết, bị lật
đổ không chỗ chôn thân, các nhà giàu sang quyền quý, khánh tận
tài sản, đến nỗi phải quyên sinh, kết thúc mạng sống của chính
mình. Các vị hoàng gia hoàng tử, công chúa quận nương, bị tai
nạn thảm khốc, chết không toàn thây, ở trên xa lộ, hoặc dưới
biển sâu. Chúng ta là những người thực sự kém phước báo hơn các
vị đó nhiều lắm, vì thế chớ nên tạo thêm tội nghiệp, bằng cách
này hay cách khác, mà phải tu và nhiếp phục các căn nhiều bao
nhiêu tốt bấy nhiêu.
-
Chúng ta là người tỉnh
thức, đang tu học Chánh Pháp, đang muốn trở về nguồn cội, đang
muốn chuyển hóa cuộc đời của mình, đang muốn thoát ly sanh tử
luân hồi, càng phải nên hết sức cẩn thận trong cách hành xử hằng
ngày trong cuộc sống.
-
Muốn được gặp Phật,
phải bỏ tâm ma. Điều nầy thực là đơn giản, không tìm đâu xa mà
chúng ta phải vận dụng chánh kiến để biết phân biệt những loại
đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại. Chúng ta phải
biết những thức ăn và thức uống nào gây tàn phá và làm mất sự
điều hòa trong cơ thể. Khi chúng ta ăn những món hiền lành và bổ
dưỡng thì chúng ta cũng biết. Ðó gọi là chánh kiến. Chúng ta
thực tập chánh kiến ngay trong đời sống hằng ngày, trên bàn ăn
và trong khi nấu ăn, chứ không phải chỉ thực tập trong thiền
đường mà thôi. Do vậy trước khi ăn chúng ta nói:
-
- Chỉ xin ăn những
thức ăn có tác dụng nuôi dưỡng và ngăn ngừa tật bệnh.
-
Đó là chánh kiến áp
dụng khi ăn và khi nấu ăn. Nói về đoàn thực, Phật đã dùng hình
ảnh của hai vợ chồng nhà kia ăn thịt con.
-
Hai vợ chồng này mang
đứa con trai duy nhất đi qua sa mạc. Họ nghĩ rằng số lương thực
đem theo là đủ dùng cho chuyến đi. Nhưng chưa ra khỏi sa mạc họ
đã hết thực phẩm. Hai vợ chồng biết rằng cả ba người sẽ chết
đói. Cuối cùng họ phải đành tâm ăn thịt đứa con để sống mà ra
khỏi sa mạc. Họ vừa ăn thịt con vừa khóc. Khi kể câu chuyện nầy
xong Đức Phật hỏi rằng:
-
- Này các thầy, khi
hai vợ chồng đó ăn thịt đứa con thì họ có thấy thích thú gì
không?
-
Các thầy thưa:
-
- Bạch đức Thế Tôn,
làm sao thích thú được khi biết mình đang ăn thịt con.
-
Phật dạy:
-
- Trong đời sống hằng
ngày, trong khi tiêu thụ, chúng ta cũng phải biết thức ăn của
mình đã có thể được tạo ra bằng sự đau khổ cùng cực của kẻ khác,
của những loài sinh vật khác.
-
Do vậy trong chiều
hướng tưởng niệm đến công lao cực khổ của người khác, mỗi khi
chúng ta dùng nên thường quán niệm:
-
- Thức ăn nầy là tặng
phẩm của đất trời
-
Và công phu lao tác
của mọi người.
-
Hoặc là:
-
- Hai tay nâng bát cơm
đầy,
-
Dẻo thơm một hạt đắng
cay muôn phần.
-
Do vậy mà ăn không có
chánh niệm, chúng ta sẽ tạo khổ đau cho mọi loài và khổ đau cho
chính bản thân chúng ta. Cho nên khi chúng ta hút thuốc, uống
rượu, ăn nhiều thức béo vào, là chúng ta đang ăn bộ phổi của
chúng ta, đang ăn buồng gan, trái tim của ta, chúng ta tự đang
ăn thịt chúng ta.
-
Qua câu chuyện Đức
Phật kể cha mẹ ăn thịt con để sống trong lúc đi qua sa mạc, nếu
là cha, là mẹ thì lúc đó chúng ta đang ăn thịt con chúng ta tại
vì các con cần có để nuôi dưỡng cha mẹ mạnh khỏe, tươi vui. Và
nếu cha mẹ trong khi ăn uống mà tàn hại thân thể của chính mình
thì chính cha mẹ đã và đang giết con. Thành ra ăn như thế nào để
đừng tạo ra những khổ đau cho các loài và đừng tạo khổ đau cho
chính mình, đó là chánh niệm và chánh kiến. Ðạo Phật trong cả
hai trường phái Nam Tông và Bắc Tông đều tin rằng chúng sanh từ
đời này sang đời khác thay phiên lần lượt làm cha làm mẹ, anh em
dòng họ của nhau. Vì vậy mỗi khi ăn thịt, chúng ta hãy có ý
thức rằng có thể ta đang ăn thịt cha mẹ hay chồng vợ, con cái,
anh em của chúng ta. Do đó chúng ta đã tập ăn chay và tập không
sát sanh.
-
02- Xúc Thực
-
Loại thức ăn thứ hai
là xúc thực, tức là loại ăn qua các căn trần thức. Chúng ta có
sáu căn là:
-
- Mắt,
-
- Tai,
-
- Mũi,
-
- Lưỡi,
-
- Thân
-
- Và ý.
-
Chúng tiếp xúc với
sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Chúng ta phải thấy rằng việc
tiếp xúc đó có đem chất độc vào trong con người chúng ta hay
không. Ví dụ như khi chúng ta xem truyền hình, mắt ta tiếp xúc
với hình sắc. Phải thực tập chánh kiến xem chương trình truyền
hình kia có đưa vào trong tâm ta những độc tố như sợ hãi, căm
thù và bạo động hay không. Có những phim mang lại cho chúng ta
sự hiểu biết, lòng từ bi, chí quyết tâm muốn giúp người, quyết
tâm không làm những điều lầm lỗi, chúng ta biết chúng ta có thể
xem phim đó. Đó là cách mà chúng ta thực tập chánh kiến. Người
lớn cũng như trẻ em, trong khi xem phim, phải biết thực tập
chánh kiến. Phải biết rằng có những chương trình truyền hình
chứa đựng rất nhiều độc tố như bạo động, căm thù và dục vọng.
Ngay cả những phim quảng cáo cũng khơi động thèm khát, dục vọng
hay sợ hãi của người ta. Khi xem một tờ báo không có chánh niệm,
chúng ta có thể tiếp nhận rất nhiều độc tố. Ðọc xong ta có thể
mệt nhoài vì những điều chúng ta đọc có thể khiến chúng ta chán
nản, lo lắng và ghê sợ. Chính những câu chuyện hàng ngày cũng có
thể mang nhiều độc tố. Ðó là xúc thực.
-
Chánh kiến phát sinh
ra chánh niệm và chánh niệm cũng làm phát sinh chánh kiến. Chúng
ta biết rằng nhìn, nghe và tiếp xúc với những gì thì thân tâm
chúng ta sẽ khỏe khoắn, nhẹ nhàng và an lạc và chúng ta quyết
định mỗi ngày nên tiếp xúc với những chất liệu đó. Còn những thứ
làm chúng ta mệt, buồn, lo, giận thì chúng ta nên tránh không
tiếp xúc. Ðó là chánh niệm về xúc thực, có được nhờ chánh kiến
về xúc thực. Phật dạy rằng:
-
- Con người rất dễ bị
thương tích, trên cơ thể cũng như trên tâm hồn.
-
Vì thế mà Đức Phật đã
dùng hình ảnh một con bò bị lột da dẫn xuống sông. Dưới sông có
hàng vạn loài sinh vật li ti bu lại hút máu và rỉa thịt con bò.
Và khi chúng ta đưa con bò tới đứng gần một bức tường hay một
cây cổ thụ, cũng có những sinh vật li ti sống trên bức tường và
trong cây cổ thụ bay ra, bám vào con bò để hút máu. Từ khuynh
hướng nầy, nếu chúng ta không giữ gìn thân và tâm bằng chánh
kiến và chánh niệm thì các độc tố trong cuộc đời cũng bám lại và
tàn phá thân tâm chúng ta cũng như vậy. Năm giới mà chúng ta
tiếp nhận và hành trì là bộ da bao bọc thân thể và tâm hồn chúng
ra. Nếu không hành trì năm giới là chúng ta không thực tập chánh
kiến. Và trong mỗi chúng ta vốn đã có sẵn hạt giống của chánh
niệm. Thực tập chánh niệm, cũng là cách chúng ta tạo ra những
kháng thể để chống lại sự thâm nhập của các độc tố từ bên ngoài
đưa vào.
-
03- Tư Niệm Thực
-
Loại thức ăn thứ ba là
tư niệm thực. Ðó là những nỗi ước ao ta muốn thực hiện cho đời
của chúng ta. Mong muốn làm giám đốc một hãng buôn lớn, hay mong
muốn đậu bằng tiến sĩ ... Những mong muốn như thế thâm nhập vào
người ta giống như một thức ăn. Mong muốn là một loại thực phẩm
gọi là tư niệm thực. Ước muốn lành mạnh sẽ giúp ta năng lượng để
thực hiện hoài bão, nhưng có những loại tư niệm thực làm cho ta
khổ đau suốt đời. Như danh, lợi, tài và sắc ... Muốn được mạnh
khỏe và tươi vui, muốn được giúp đỡ cho gia đình và xã hội, muốn
bảo vệ thiên nhiên, thì chúng ta phải tu tập để chuyển hóa, để
thành một bậc giác ngộ độ thoát cho đời. v.. v.. Đó là loại tư
niệm thực có thể đưa tới an lạc, hạnh phúc.
-
Về tư niệm thực, Đức
Phật kể chuyện một người bị hai lực sĩ khiêng ném xuống hầm lửa
đang bốc cháy. Phật nói rằng khi chúng ta bị những tư niệm thực
bất thiện chiếm cứ, bị danh, lợi, tài và sắc lôi cuốn thì cũng
như chúng ta bị những anh chàng lực sĩ kéo đi liệng xuống hầm
lửa. Do đó người tu học phải có chánh kiến, phải nhận diện được
tư niệm thực trong chúng ta là loại nào.
-
04- Thức Thực
-
Loại thức ăn thứ tư là
thức thực. Chúng ta hiệc có mặt và được xử dụng đầy đủ các tiện
nghi như hiện nay là sự biểu hiện của thức, gồm có y báo và
chánh báo. Chánh báo là con người gồm năm uẩn của chúng ta và y
báo thuộc hoàn cảnh chung quanh ta. Vì hành động từ nhiều kiếp
xa xưa, cho nên bây giờ chúng ta có chánh báo này, với y báo
này. Chánh báo và y báo đều là sự biểu hiện của tâm thức. Khi
làm công việc nhận thức, tâm cũng giống như cơ thể đón nhận các
món ăn. Nếu trong quá khứ, tâm thức chúng ta đã tiếp nhận những
thức ăn độc hại, thì ngày nay tâm thức chúng ta biểu hiện ra
những y báo và chánh báo không lành. Những gì chúng ta thấy,
nghe, ngửi, nếm, tiếp xúc, suy tư, tưởng tượng, tất cả những thứ
ấy đều như muôn sông chảy về biển tâm thức. Và những vô minh,
hận thù và buồn khổ của chúng ta đều trở về biển cả của tâm thức
ta. Vì vậy ta phải biết mỗi ngày chúng ta nhận vào tâm thức của
ta những món ăn nào. Chúng ta cho nó ăn từ, bi, hỷ, xả hay là
chúng ta cho nó ăn trạo cử, hôn trầm, giãi đãi, phóng dật?
-
Về thức thực, Phật đã
dùng hình ảnh một người tử tù và ông vua. Buổi sáng vua ra lệnh
lấy 300 lưởi dao cắm vào thân thể của một tử tội. Tới buổi chiều
vua hỏi:
-
- Người tù đó bây giờ
sao?
-
Những người cận vệ trả
lời:
-
- Tâu bệ hạ, nó còn
sống.
-
Nhà vua nói:
-
- Vậy thì đem nó ra,
lấy 300 lưỡi dao đâm qua người nó một lần nữa.
-
Và buổi tối, vua hỏi:
-
- Kẻ đó bây giờ ra
sao?
-
Cận Vệ đáp:
-
- Còn sống.
-
Nhà Vua nói:
-
- Hãy lấy 300 mũi dao
đâm qua thân thể nó một lần nữa!
-
Phật dùng ví dụ đó để
nói cho chúng ta biết là chúng ta cũng đã và đang hành hạ tâm
thức của chúng ta y như thế. Mỗi ngày chúng ta đâm 300 mũi dao
của độc tố vào trong tâm thức ta. Những mũi dao của tham lam,
giận dữ, ganh tỵ, hờn giận, thù oán, vô minh...
-
Bốn loại thức ăn trên
là bốn ví dụ nghe rất ghê sợ, có tác dụng răn bảo chúng ta phải
tỉnh táo giữ gìn chánh kiến và có một khái niệm khá rõ ràng về
vấn đề này, để có thể áp dụng vào trong đời sống thực tế hằng
ngày. Vì thế mà cổ nhân có dạy:
-
- Ăn để mà sống chứ
không phải sống để mà ăn.
-
Nghĩa là:
-
- Con người sanh ra,
trên trái đất này, ngoài chuyện ăn uống, để giữ mạng sống, bồi
dưỡng sức khỏe, chúng ta còn nhiều, chuyện khác để làm, đem lại
ích lợi, cho người cho đời, và chính bản thân.
-
Nói tóm lại, trong đạo
Phật, vấn đề ăn uống không phải là chuyện quan trọng hàng đầu.
Dù ăn mặn hay ăn chay, cần nên giản dị, không nên cầu kỳ, mà
chúng ta phải dành nhiều thời giờ, cho những việc làm có ích lợi
cho bản thân, đối với cuộc sống tâm linh, và đời sống tinh thần.
Chính chuyện tu tâm dưỡng tánh mới đáng làm chúng ta bận tâm, và
phải thực hành hằng ngày. Chuyện ăn uống tuy là chúng ta cần
phải sống, nhưng nó thuộc về phạm vi thể chất, bồi bổ cho tấm
thâm tứ đại giả tạm này, để làm phương tiện cho việc tinh tấn tu
tâm dưỡng tánh, cho đến ngày giác ngộ và giải thoát, cho nên
chúng ta không vì vậy mà lãng phí thì giờ và tạo nghiệp ác sâu
nặng. Do vậy chư Tổ có dạy:
-
- Cơ tắc xan hề, khốn
tắc miên
-
Nghĩa là:
-
- Ðói đến thì ăn, mệt
ngủ khò.
-
Lúc chúng ta đói bụng,
một củ khoai nhỏ, cũng tạm ấm lòng. Khi ăn quá no, căng bụng
tràn họng, lúc đó món nào, dù mặn hay chay, cũng chẳng còn ngon.
Sách có câu:
-
- No mất ngon, giận
mất khôn.
-
Nói tóm lại, tất cả
mọi người chúng ta ai cũng muốn sống một cuộc đời an nhàn tự
tại, vì thế chúng ta không nên chú tâm, không nên lệ thuộc quá
nhiều về sự ăn uống. Việc học hiểu để phát triển trí tuệ, và
thực hành Chánh Pháp, ngay trên cuộc đời, tại thế gian này, cho
đến khi được viên mãn, mới thực sự là việc quan trọng của người
Phật Tử, tại gia và xuất gia. Đó mới thực sự là mục đích cứu
kính của Đạo Phật, cho nên ăn uống chỉ là một phương tiện, trong
bao nhiêu phương tiện khác, mà thôi.
-
Một thực tế khác về
vấn đề ăn mặn và ăn chay chúng ta cần nên hiểu biết. Đó là các
thứ nông phẩm dùng để ăn chay như cơm gạo, rau cải, hoa quả,
trái cây ... thu hoạch được sau khi trải qua quá trình trồng
trọt, tưới nước, bón phân và trừ khử các loại sâu rầy phá hoại
mùa màng. Nghĩa là các nông gia phải lao động khổ nhọc và phải
sát trùng, để mùa màng được tươi tốt, thu hoạch được cao trong
lúc tăng gia sản xuất. Vì thế khi dùng các nông phẩm đó, để gọi
là ăn chay, tránh nghiệp sát sinh, trưởng dưỡng tâm từ bi, tu
tâm dưỡng tánh, chúng ta đã không tránh được sát giới, một cách
hoàn toàn dù không trực tiếp, cũng là gián tiếp, cũng chịu cộng
nghiệp với các nông gia. Cho nên, người Phật Tử tại gia hay xuất
gia mỗi khi thọ thực, chúng ta cần phát tâm từ bi, thương xót
những người chưa thể ăn chay được, vì bất cứ lý do gì, hoặc là
các nông gia phải phạm sát giới, để làm nên các nông phẩm chúng
ta đang dùng, bằng cách tự đọc lời cầu nguyện trước khi ăn, để
hồi hướng phước báu ăn chay, hay công đức trì giới của mình đến
tất cả chúng sinh, trong khắp pháp giới. Hoặc chúng ta chắp tay
cầu nguyện cho tất cả chúng sinh, ít ra cũng đều có những bữa
cơm đạm bạc như chúng ta:
-
- Hai tay bưng bát bát
cơm đầy
-
Dẻo thơm một hạt đắng
cay muôn phần.
--o0o--
|
|