|
TẬP SAN DƯỢC SƯ
-
Tâm Không Vọng Cầu
-
Nguyên Châu
-
--o0o--
-
-
Thông thường người đời
khi làm bất cứ một việc gì cũng đều có hậu ý, hay nói một cách văn
vẻ còn gọi là phòng xa, chẳng hạn như thường nói:
-
- Tích cốc phòng cơ
dưỡng nhi đãi lão
-
Tạm dịch là:
-
- Giữ gìn lúa gạo để
phòng đói
-
Nuôi con khôn lớn để nhờ
già
-
Thật ra hậu ý, hay tánh
phòng xa nầy theo thông thường ngoài thế gian thì không có gì sai
hết, nhưng cũng có nhiều người vì phòng xa mà lo lắng quá độ, cho
nên quên cả ăn ngủ và thành bệnh ... Tuy nhiên nếu nói đến hậu ý
hay phòng xa nầy, thì tuyệt đối người học Phật chúng ta không có.
Làm một việc gì dù là cho mình hay cho người cũng không có hậu ý,
vì có phòng xa có hậu ý tất nhiên là phải lo lắng và phải chờ đợi
sự đền đáp. Cho nên quan niệm đối với người tu học nó có hơi khác
thường một chút, nghĩa là nếu nói đến việc giúp một người nào đó,
thì sự giúp đỡ nầy chỉ vì người kia cần, cho nên chúng ta có mặt
mà không có một ẩn ý nào khác. Cũng vậy, khi nói định hướng của
cuộc đời thì chúng ta chỉ cần lựa chọn cho mình một hướng đi cho
vững chãi, rồi cứ thế mà đi. Hoặc lựa chọn cho mình một pháp môn
thích hợp rồi cứ thế mà hành trì cho đến khi nào thành tựu mới
thôi. Tuy nhiên trong lúc chưa đạt được sự thành tựu thì không nên
chờ đợi sự thành tựu của mình mà quên đi những hành trì cần thiết
trong hiện tại. Lẽ tất nhiên, lý tưởng của chúng ta trước sau gì
cũng đều nhắm đến việc ngộ đạo và giải thoát mọi triền phược trên
thế gian nầy. Mục đích hướng tới là như vậy, tuy nhiên, nói như
thế không có nghĩa là ai tu cũng đều được khai ngộ. Khai
ngộ không phải là việc dễ dàng như thế, nếu dễ dàng như thế thì
trên thế gian nầy ai tu cũng đều đã khai ngộ cả rồi. Cho nên chúng
ta là người tu học làm sao cho Tâm Không Vọng Cầu, vì tâm càng
vọng cầu thì lại tăng thêm một việc ở nơi tâm, tăng thêm việc ở
nơi tâm thì tăng nhiều thêm một phần chướng ngại. Ðó là lý do một
người thực tập pháp môn Thiền Tọa, Niệm Phật và Kinh Hành cần phải
lưu ý:
-
- Người niệm Phật tĩnh
tọa ngồi yên tĩnh, là niệm Phật mặc niệm, niệm cho thuần thục danh
hiệu Phật, để cho trong tâm có Phật, nhất tâm bất loạn thì tốt, có
thể được niệm Phật tam muội càng tốt.
-
Do đó chúng ta nên thực
tập Tâm Không Nên Vọng Cầu, và đừng nên coi vấn đề khai ngộ là
quan trọng để rồi dùng đó làm mục tiêu, coi đó là kết quả của sự
tu học thì không nên. Lý do người tu không nên có tâm mong cầu như
vậy, bởi vì nếu sự mong cầu lúc đó không khai ngộ được thì tâm
không thỏa mãn. Một khi tâm không thỏa mãn thì tụng kinh cũng
không xong, mà niệm Phật cũng không xong, đến lúc đó cả hai đều
rơi vào trống không, thì đó là trạng thái nguy hiểm không nên để
cho xảy ra.
-
Phải biết rằng, trong
việc tịnh tu, nếu có phải ngộ hay không khai ngộ cũng không nên
thất vọng mà điều trước tiên là phải biết phương cách tĩnh tọa.
Tĩnh Tọa hay Niệm Phật, Thiền Tọa, và Kinh Hành, là phương thức
điều hòa thân tâm cho thích hợp thì khí mới thuận, mới nhẹ nhàng.
Khi khí thuận, hơi thở điều hòa thì cho dù ăn một ngày một bữa,
hai ngày một bữa, ăn ít cũng không đói, ngủ ít cũng chẳng mỏi mệt.
Có như thế mới có thể ngồi được lâu, và sự hành trì mới bền bỉ.
Thành ra vì vậy trong vấn đề đào luyện thân tâm, chúng không nên
ăn no quá, mới có thể chuyên tâm tĩnh tọa, niệm Phật, kinh hành.
Không nên hàng ngày chỉ lo nghiên cứu các món ăn ngon, chạy theo
những tham muốn của thường tình, ăn cho thỏa mãn sự tham muốn cửa
miệng. Tâm địa như vậy khó có thể điều hòa trong việc tu tập.
-
Hơn nữa xin được lưu ý,
có những loại thực vật ăn sẽ giúp cho sự vận chuyển trong cơ thể
tươi mát, cũng có những loại thực vật ăn vào khí sẽ không thuận,
cho nên nó sẽ làm cho thân tâm khó chịu, vì vậy chúng ta cần phải
dùng thử một thời gian, nếu sau khi ăn phát hiện thấy hiện tượng
không thuận khí, thì không nên ăn nữa! Bởi vì tĩnh tọa cần phải
thư thái, thống nhất tập trung tinh thần trở lại sau khi bị giao
động. Cơ thể có tươi mát, tinh thần có tập trung sung mãn thì mới
yên được cái tâm, tâm có yên tĩnh thì mới có sự định tâm. Niệm
Phật cũng là một phương pháp định, nhất tâm bất loạn tức là Ðịnh.
Vì thế tĩnh tọa cần: Ðiều thân & An tâm.
-
a- Ðiều Thân:
-
Việc đầu tiên là làm cho
lưu thông, thư thái khí mạch, là bài trừ khí do chất tạp tích trử
trong cơ thể, đả thông khí mạch toàn thân, tiêu trừ bệnh chướng,
để cho thân thể thoải mái nhẹ nhàng. Ðiều thân, không phải là
luyện khí điều chỉnh hơi thở. Lúc ban đầu khi chúng ta ngồi tỉnh
tọa hoặc niệm Phật, thường thì thân thể có những trạng thái không
được thích hợp như đau tê, hay ngứa ngáy, đây là quá trình bắt
đầu, tuy nhiên nếu chúng ta thực tập lâu ngày thì sẽ lần hồi dẫn
đến bình thường. Lúc ban đầu ngồi ngay khi thở ra hít vào thì
chúng ta phải biết, chỉ cần biết thôi, chúng ta không cần lý giải
nó, nên thuận với tự nhiên. Qua một thời gian, chúng ta tự biết
ngay nơi khí hít vào hoặc khí thở ra. Qua một thời gian thực tập,
khi thấy khí hít vào nhẹ thoảng rồi, kế đến là lúc ngồi giống như
không có hít thở, lúc đó thân cũng được nhẹ nhàng. Trãi qua một
khoảng thời gian cảm giác đã không có hít thở, thì lúc nầy thì
thân của chúng ta không nên động.
-
Nếu đã không hít thở
rồi, tâm động lên lại biết có hít thở, lại phải đợi một khoảng
thời gian nữa mới cảm giác được không có hít thở, lại phải trải
qua một khoảng thời gian, thân không động, tâm không lăng xăng mà
nhập định.
-
Tĩnh tọa nói cách khác
là nhẹ nhàng thoải mái, cho nên có người đã ngồi mười năm, hai
mươi năm mà không mệt mỏi. Vì thế lúc ban đầu ngồi tốt nhất là có
thầy hướng dẫn, hay tìm mua quyển sách tập tĩnh tọa để tự tập
luyện, giúp tăng thêm một nửa công việc.
-
b- An Tâm:
-
Khi tâm an thì có thể
quán các pháp không, biết đó là huyễn, cho nên các tưởng mở mang
có thể nhìn suốt, buông bỏ những chấp trước, những bận tâm, những
nhiễu nhương, từ đó tâm sẽ bình khí sẽ điều hòa. Do đó mà làm cho
tâm chuyên chú một chỗ, thống nhất tập trung tinh thần trở lại,
không để cho tâm tán loạn, tạp niệm không khởi cho nên đối với tất
cả cảnh giới thiện ác cũng không vì vậy mà giao động, nghĩa là bên
ngoài thì xa lìa các tướng, và bên thì trong tâm không loạn.
-
Như có lần đã nói, việc
khai ngộ là mục đích cuối cần đạt đến của người tu nhưng không có
nghĩa là ai tu cũng đều được khai ngộ, và muốn khai ngộ, cần phải
tự lượng khả năng của mình là căn khí bực nào. Hơn nữa nói về khai
ngộ, trong khi tu tập mà chúng ta nếu còn cái tâm muốn khai ngộ,
thì trong tâm niệm của chúng ta không thanh tịnh rồi, mà đã là
niệm không thanh tịnh thì làm sao có thể khai ngộ được. Quả thật
như vậy, nếu trong tâm chúng ta còn tưởng đến sự khai ngộ, thì lẽ
tất nhiên trong tâm của chúng ta đã khởi lên những tạp niệm, và cố
tình mong đợi những sự nhận thức rất là cơ bản tương ứng với vấn
đề khai ngộ, như:
-
- Thấy được những hiện
tượng lạ
-
- Có được chút ít trí
huệ hiểu biết, và những linh cảm mơ hồ nào đó..
-
- Những ánh sáng, những
hình ảnh do huyễn mộng vọng tưởng, hoặc bị ma dối gạt....
-
Khi thấy được những hiện
tượng như thế là chúng ta tự cho là chúng ta đã khai ngộ rồi! Như
có lần chúng tôi nói, vấn đề khai ngộ, và chữ ngộ nầy đã có nhiều
người tự cho mình là người đã ngộ, nhưng trên căn bản không có
ngộ, bởi vì ngay cả bên kia bức tường cũng nhìn không thấy, thì
làm thế nào gọi là khai ngộ. Ðể làm sáng tỏ, và khuyến một số hành
giả cứ chấp chặc vào các thực hành và nghỉ rằng phải làm như thế
mới gọi là hành trì, có làm như thế mới có thế ngộ đạo đại khái
như:
-
- Phải thực hành thiền
tọa, và cứ ngồi lì như vậy từ ngày nầy qua ngày khác, để mong chờ
sự khai ngộ.
-
- Phải ngồi đối diện
trước Phật điện, trên tay cầm xâu chuổi, niệm Phật phải niệm cho
to để mọi người biết mình tu thì mới gọi là tu, và như thế mới là
ngộ đạo.
-
- Phải tỏ vẻ trầm tư mặc
tưởng một cách nghiêm túc....
-
Thật sự những cung cách
nầy cũng hết sức là cần thiết cho những người sơ cơ như chúng ta,
chúng ta chắc chắn phải hành trì như vậy nếu chúng ta có đầy đủ
tiện nghi về cả các phương diện thời gian và điều kiện. Nhưng cũng
phải hiểu thêm rằng, sự khai ngộ thật không phải là ngồi một chỗ
mới có thể khai ngộ, hay phải niệm Phật cho lớn mới khai ngộ; mà
là đi, đứng, nằm, ngồi, nghiên cứu kinh điển, hoặc nghe một câu
nói, xem một động tác, hay làm bất cứ việc gì cũng gọi là tu, cũng
gọi là hành, cũng gọi là thiền, cũng đều có thể khai ngộ.
-
Kể ra vấn đề tu và hành
trì, và sự khai ngộ, thì chữ Ngộ nầy, nếu chúng ta dùng miệng để
giảng, dùng văn tự viết thì rất khó diễn đạt cho rõ ràng. Ðể làm
cho dễ hiểu, chúng ta thử dùng chữ mê để nói ngược lại, chắc có lẽ
dễ hiểu hơn. Lúc chúng tôi còn là học tăng trong Phật Học Viện
Giác Sanh, thầy giáo thọ có kể câu chuyện là có một vị Thiền Sư
đọc kinh Pháp Hoa đến đoạn:
-
- Chư pháp tùng bản lai
-
Thường tự tịch diệt
tướng
-
Phật Tử hành đạo dĩ
-
Lai thế đắc tác Phật.
-
Nghĩa là:
-
- Các pháp từ bản lai
-
Tướng thường tự vắng
lặng
-
Phật tử hành đạo rồi
-
Ðời sau thành Phật Ðạo
-
Ðọc đến đoạn nầy Ngài
suy nghĩ hai câu:
-
- Các pháp từ bản lai
-
Tướng thường tự vắng
lặng.
-
Ngài tự hỏi, thế nào là
các pháp từ bản lai, thế nào là tướng thường tự vắng lặng. Ðối với
sự việc nầy Ngài luôn luôn suy tưởng, đi cũng tưởng, đứng cũng
tưởng, ngồi cũng tưởng, đi đến chỗ nào, và làm bất cứ chuyện gì
cũng tưởng một cách chuyên tâm nhất ý, tưởng... tưởng... tưởng...,
tưởng. Ngài tưởng đến nỗi có người khác đến ở trước mặt cũng chẳng
hay biết, cho nên người đời cho Ngài là Mê, ngay cả có người còn
cho đó là tu nhiều quá cho nên sinh ra si đần, ngay cả có người
kêu réo Ngài, Ngài cũng không hay biết, cho nên người đời gọi là
thất thần. Tình trạng nầy kéo dài mấy chục năm như vậy, đến một
hôm Ngài đứng trước cổng Chùa trong ngày đầu xuân, trăm hoa đua
nở, Phật Tử từ bốn phương về Chùa lễ Phật đầu năm rất là tấp nập,
lúc đó con chim hoàng oanh bay đậu trên cây liễu hót mấy tiếng rồi
bay đi. Nghe tiếng chim hót Ngài giật mình khai ngộ và Ngài đọc
tiếp theo hai câu trong bài kệ Kinh Pháp Hoa và trở thành bài kệ
cho hậu thế suy gẫm đó là:
-
- Chư pháp tùng bản lai
-
Thường tự tịch diệt
tướng
-
Xuân đáo bách hoa khai
-
Hoàng Oanh đề liễu
thượng.
-
Nghĩa là:
-
- Các pháp từ bản lai
-
Tướng thường tự vắng
lặng
-
Xuân đến trăm hoa nở
-
Chim Hoàng Oanh đậu trên
cành liễu.
-
Qua hình ảnh của vị
thiền sư nầy, chúng ta thấy Ngài mê, mê đến cực điểm và sự mê nầy
chính là trạng thái của nhập định, đến mấy mươi năm duyên đã chín
mùi, con chim Hoàng Oanh hót trên cành liễu làm Ngài tỉnh ngộ, đây
là trạng thái xuất định. Khi Ngài xuất định thì muôn cảnh tượng vũ
trụ nhìn thấy hết, cũng biết cả, nhìn càng xa, biết càng nhiều thế
là Ngài ngộ và để lại cho hậu thế bài kệ:
-
- Các pháp từ bản lai
-
Tướng thường tự vắng
lặng
-
Xuân đến trăm hoa nở
-
Chim Hoàng Oanh đậu trên
cành liễu.
-
Nói về Ngộ thì có tiểu
ngộ và đại tiểu ngộ. Và vấn đề khai ngộ, thật ra không phải mỗi
người tu hành ai cũng đều có thể đạt được, mà là tùy thuộc vào tư
chất thiên phú, cũng như chỗ dùng tâm mà lãnh hội. Lẽ tất nhiên
chỗ ra công sức của mỗi người có cạn sâu, chính là sự quyết định
Ngộ và Không Ngộ! Do đó tuy là tĩnh tọa như nhau, nhưng do thiên
tư bẩm sinh chẳng đồng, căn lành có cạn có sâu, và sự ra công sức
không đồng, khai ngộ cũng có trước sau, lớn nhỏ sai biệt, hoặc là
không ngộ. Cho nên đừng vì mình chưa khai ngộ mà buồn sầu phiền
muộn. Chúng ta là Phật Tử tại gia, vì việc nhà bận rộn, công ăn
việc làm, công tác xã hội... nghĩa là nhiều việc làm cho tâm
phiền muộn, cho nên muốn yên tĩnh cũng không yên tĩnh được, mà khi
đã không yên tĩnh tất nhiên là không thể Ðịnh, không định thì
không thể ngộ. Nói như vậy chúng tại gia muốn khai ngộ thì cần
phải chuyên tu một cách nghiêm túc! Hơn nữa muốn khai ngộ, thì
phải nên tranh thủ thực tập lúc tuổi còn trẻ, người tuổi trẻ thì
khí huyết tràn đầy, có thể hành trì lâu dài. Già rồi, khí suy
huyết kém, xương cốt cứng đờ, tiến bộ có thể có, nhưng cũng chỉ ở
một mức giới hạn nào đó thôi.
-
Trong hai giới đệ tử
xuất gia cũng như tại gia nếu có cố gắng hành trì, và nếu muốn
biết mình tu học tiến bộ đến đâu thì cần phải ấn chứng chính chúng
ta, nghĩa là thì phải tự mình kiểm tra:
-
1- Ðối với giáo pháp
nghĩa chơn thật, chính ta phải nhận thức cho rõ ràng, coi có còn
nghi ngờ gì không.
-
2- Ðối với những việc
phải trái, chánh tà phải phân minh rõ ràng, và coi có thể viên
dung giữa không và có hay không? Phiền não chấp trước có thể giảm
ít cho đến không còn hay không?
-
Nghĩa là mỗi việc đưa ra
là tự chính ta khẳng định. Những hành vi thiếu đạo đức, những tư
tưởng thiếu lành mạnh, tức là dính mắc nơi dấu hiệu của ma, cần
nên siêng năng hơn lên mà sám hối sửa đổi cho chơn chánh, tránh
khỏi bị sự vây bủa của ma.
-
3- Lúc ngồi nếu như:
-
- Thấy hào quang,
-
- Thấy Phật và các cảnh
tượng ...
-
Tất cả đều không nên
khoe khoang, tự mình vui, để khỏi bị anh linh bên ngoài khống chế,
mà đi vào đường tà. Không khinh sợ, không vui mừng, không dính
mắc, không xử lý, không tưởng đến, không lý giải, để khỏi chướng
ngại.
-
Nếu chúng ta không tự
chủ được với những nỗi vui mừng, và luôn nghĩ tưởng đến, thì lúc
đó những anh linh bên ngoài sẽ phụ gá trên thân của chúng ta. Lúc
đó thì tâm thần của chúng ta bị những anh linh bên ngoài làm mê
loạn và khống chế, làm cho chúng ta kiêu căng, biếng nhác, phá
giới và tạo các ác nghiệp. Trong khi đó chúng ta cứ tưởng là đã
ngộ đã khai. Ngược lại nếu chúng ta làm được việc không lý giải,
không khinh sợ, không vui mừng, không động tâm ... thì đây chính
là kết quả của sự thúc liễm thân tâm của chúng ta, và lúc đó chúng
ta sẽ an hưởng những giây phút tươi mát, vì đã được tắm gội trong
dòng suối cam lồ của chủ Phật. Lúc đó chúng ta sẽ thấy:
-
- Năng lễ sở lễ tánh
không tịch
-
Cảm ứng đạo
giao nan tư nghì...
-
Lúc đó dù
cho chúng ta không nghĩ chúng ta là Phật thì chúng ta cũng có thể
có những sự thành đạt đáng kể:
-
A- Những
Thành Ðạt Bước Ðầu:
-
1- Sau khi phiền não
khởi thì dễ chuyển, nháy mắt tức khắc tan biến.
-
2- Ðối với thói quen sâu
sắc thường ngày hãy còn ham mê, chợt nhiên dứt bỏ mà sửa đổi thành
thánh thiện tốt đẹp hơn.
-
3- Gặp việc không tự đặt
mình vào chỗ bế tắc, mà thường nghĩ tưởng đến cảnh giới giải thoát
yên vui.
-
4- Gặp việc thường quán
sát, phán đoán từ trên lý nhân quả, gặp việc tùy duyên, nhân đó mà
làm cho thích ứng, không nhờ vả, không khẩn cầu, vì thế mà tâm
không mất quân bình và tính chất giản dị độc lập của mình.
-
5- Ngay lúc gặp điều sỉ
nhục, thì cũng đối xử một cách thư thái, không được sinh giận hờn
không vui.
-
6- Ít bực tức, ít so đo,
ít tranh chấp.
-
B- Những Bước Tiến Tu:
-
1- Ðối với những người
có quan hệ thân yêu, hết lòng chiếu cố dẫn dắt, giúp họ tự cường
tự lập tự trị. Riêng về bản thân, cả ngày thảnh thơi trong mọi
công việc, không bị ràng buộc trói buộc thị phi, không lo đây nghĩ
kia ...
-
2- Ðối với sắc đẹp, vinh
hiển tôn quí, cừu địch giữa đời, những người ngang tàn bạo ngược,
tà đạo... những con người ấy, những hoàn cảnh như vậy lúc ứng phó
không có tâm thành kiến, dùng tâm bình đẳng bình thường để đối đãi
nhau.
-
3- Ðối với sự vật hay
công việc thường ngày hay thích nhất, thói quen và nỗi đam mê ..
v.v... có thể biết đó là vô thường, yêu mà chẳng chấp, thì không
bị nó làm lụy, mất cũng không cảm thấy khó chịu, không làm nô lệ
cho sự việc hay vật chất.
-
4- Ðối với danh lợi,
quyền thế, phô trương, sở trường, châu báu đã có, có thể biết
huyễn mà không dính mắc. Tùy duyên lấy, bỏ, được chẳng vui, mất
chẳng buồn, vì biết nó là vô thường.
-
5- Trong những lúc giao
tiếp, vui say, sợ sệt, lo lắng, có thể dung chứa mà không bị bức
bách, hoặc dứt khoát buông rời không luyến tiếc.
-
6- Ðối với hoàn cảnh
không tốt, tình đời không thuận, chỗ ở không thích nghi ... có thể
phá trừ sự kết buộc của tâm, tùy duyên mà ứng xử, tùy duyên mà tâm
cũng được an, không lấy cái khổ vui của thế tục mà làm khổ vui của
mình.
-
C- Sự Tiến Bộ Vượt Bực:
-
1- Có thể cải đổi tập
khí xấu, như là xả ly những thói xấu của ta như:
-
- Tư riêng,
-
- Ða nghi,
-
- Keo kiệt,
-
- Nôn nóng,
-
- Thô tháo,
-
- Ưa so tính, ưa tranh
luận
-
- Ưa làm phiền,
-
- Ưa hư vinh,
-
- Ưa bài xích chê bai kẻ
khác .. v.v...
-
Những thói quen cố chấp
khó lìa, từ câu nệ mà thoát khỏi, mà hào phóng, mà siêu việt, mà
thông suốt tròn đầy vô ngại, mà tự tại.
-
2- Gặp lúc thiên tai,
người bị họa, bệnh ách, khổ nạn... một cách nặng nề, thì chúng ta
biết tất cả sinh diệt vô thường, nguồn gốc là không là huyễn, để
từ đó không lo không sợ, đối xử thanh thản, tự tại không trở ngại.
-
3- Tuy biết phân biệt,
nhưng không trụ ở hai tướng: Không vì do sự so sánh mà sinh ra
vọng niệm, không do vì sự ghét yêu mà sinh ra phiền não, mà là ở
nơi trí không phân biệt.
-
Nói tóm lại, nói đến vấn
đề tu học và sự giác ngộ, đối với người tu chúng ta ai cũng cần
đạt đến mục đích cuối cùng như mình mong mỏi, nhưng không phải vì
vậy mà mà chúng ta vọng cầu quá độ. Càng vọng cầu thì phiền muộn
càng khởi dậy. Vì vậy, mặc dù chúng ta cũng là con người như bao
nhiêu con người khác, nhưng qua một quá trình tỉnh toạ, thực tập
niệm Phật, thiền tọa và kinh hành nghiêm túc, cho nên trong chúng
ta đã sạch hết các Hoặc, Nghiệp. Khi đã sạch hết các hoặc nghiệp,
thì cho dù chúng ta có vọng cầu hay không vọng cầu quả vị, hay bất
cứ một mục đích nào đi nữa thì tâm hồn của chúng ta cũng cảm thấy
sung sướng an nhiên tự tại trong cõi đời nhiều phiền lụy và khổ
đau nầy.
--o0o--
|
|