|
TẬP SAN DƯỢC SƯ
-
Kiên Trì Để Thành Công
-
Chơn Đức
-
--o0o--
-
-
Nói đến đức tánh kiên trì là phải nói đến một người thanh niên
có một tấm lòng rộng rãi, hy sinh, đầy quả cảm, người đó không
ai xa lạ chính là Thái Tử Tất Đạt Đa. Sau khi Thái tử Tất Đạt Đa
rời bỏ cung điện nguy nga, giã từ vợ đẹp con thơ đi tìm chân lý,
Ngài đã trải qua không biết bao nhiêu thử thách nguy khó. Nhưng
vì mục đích chuyến đi của Ngài là tìm chân lý, tìm một lối thoát
cho chính mình và chúng sanh ra khỏi vòng sanh tử luân hồi, cho
nên Ngài không quản ngại khó khăn hiểm trở trên con đường tìm
đạo. Trong công cuộc tìm đạo nầy, Ngài đã từng tham học với các
vị Thầy Bà La Môn, nhưng ở nơi những vị Thầy đó Ngài không tìm
được con đường giải thoát, vì thế Ngài cương quyết thực hành
phương pháp khổ hạnh. Chưa có một ai trong lịch sử nhân loại
kiên trì khổ hạnh như Ngài. Mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè hay một
hạt đậu, và hạn chế mọi nhu cầu cho bản thân, cho đến khi thân
thể hao mòn, thịt khô máu cạn, chỉ còn da bọc xương cũng không
lay chuyển được ý chí sắt đá của Ngài.
-
Mặc dù ý chí kiên cường, nhưng xác thân thì đã quá kiệt quệ. Một
hôm Ngài ngã quị bên dòng sông Ni Liên Thiền. Khi tỉnh dậy, Ngài
mới nhận ra rằng con đường khổ hạnh đến tột cũng chỉ là hành hạ
thân xác, và đồng thời trí tuệ lại càng thêm thoái hóa. Do vậy
mặc dù không lợi dưỡng, nhưng cần phải có một xác thân tráng
kiện thì tâm hồn mới lành mạnh, có như thế trí tuệ mới minh mẫn.
Nghĩ như thế, Ngài liền xuống sông Ni Liên tắm rửa và bắt đầu
trì trai khất thực. Sau khi thọ thực, sức khoẻ được phục hồi,
Ngài ngồi tĩnh tọa dưới cội cây Bồ đề trên một nắm cỏ khô và
tham thiền nhập định. Khi đó Ngài phát nguyện:
-
- Du xương tan thịt nát, nếu chưa đắc đạo Ngài sẽ không rời khỏi
nơi nầy.
-
Nhờ năng lực an trú trong thiền định, Ngài cảm thấy tâm hồn nhẹ
nhàng, thư thái và sáng suốt lạ thường. Với tâm trí minh mẫn đó,
dần dần Ngài hồi tưởng đến những kiếp sống quá khứ của mình.
Ngài nhớ rõ trong những kiếp xa xưa ấy Ngài đã sống ở đâu, thuộc
giai cấp nào, vui khổ ra sao và cuộc đời sanh sanh tử tử trong
những cảnh giới nào. Tất cả chi tiết trong các kiếp sống trầm
luân của Ngài đã hiện lên trong ký ức rõ ràng như một cuốn phim
chiếu trên màn ảnh. Vào canh một, khi đang chú tâm quan sát về
những hiện tượng sinh diệt của kiếp sống, bỗng nhiên Ngài chứng
ngộ được tuệ giác đầu tiên tức là
Túc Mạng Minh.
-
Kế đến Ngài suy xét đến kiếp sống thăng trầm của chúng sanh
trong vòng sanh tử luân hồi để tìm ra nguyên nhân nào khiến cho
người thì sang giàu, kẻ khốn khổ; người thông minh, kẻ ngu dốt
và vì sao chúng sanh vẫn mãi đắm chìm trong bể sanh tử không thể
thoát ra khỏi định luật vô thường, khổ não. Nhờ trí tuệ sáng
suốt, trong canh hai Ngài đã tìm ra giải đáp và chứng ngộ tuệ
giác thứ nhì đó là
Thiên Nhãn Minh,
tức là trí tuệ thấu triệt nguyên nhân sanh tử luân hồi của tất
cả chúng sanh. Ngài biết rằng do nơi nghiệp thiện và không lương
thiện phát xuất từ thân, miệng, ý mà chúng sanh sinh trưởng
trong những cảnh giới khác nhau, trình độ khác nhau.
-
Đến canh ba, Ngài lại dùng trí tuệ soi xét và tìm kiếm phương
pháp nào khả dĩ chấm dứt dòng trầm luân sinh tử. Ngài nhận thức
rằng:
-
-
Đây là khổ, là
phiền não và ô nhiễm.
-
- Đây là nguyên nhân đau khổ, phiền não và ô nhiễm.
-
- Đây là sự diệt tận mọi khổ đau, ô nhiễm.
-
- Và đây là con đường dẫn đến sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau.
-
Nhận thức như thế, tâm Ngài đã được giải thoát ra khỏi dục lậu,
hữu lậu, kiến lậu và vô minh lậu. Từ đó dòng sinh tử luân hồi đã
hoàn toàn chấm dứt đối với Ngài. Đó chính là tuệ giác thứ ba mà
Ngài đã chứng ngộ tức là
Lậu Tận Minh.
-
Khi cuộc chiến thắng vinh quang vừa viên mãn, thì cả ba ngàn đại
thiên thế giới đều rúng động, hào quang năm sắc từ thân Ngài
chiếu khắp ba cõi. Quả thật cuộc chiến thắng vẻ vang của Thái Tử
Tất Đạt Đa có một ảnh hưởng sâu xa đối với nhân loại. Chúng ta
không lấy làm lạ khi nhiều người tôn Ngài là bậc vĩ nhân, hoặc
xem Ngài như một nhà đại cách mạng cứu thoát con người ra khỏi
thứ xiềng xích nô lệ cả hai phương diện đó là:
-
- Tinh thần thì nô lệ thần linh,
-
- Thể chất thì nô lệ giai cấp của xã hội.
-
Sự thành công lớn lao như vậy chắc chắn phải có những nguyên do,
chúng ta là Phật Tử và cũng là hàng hậu học, để cho có một hành
trang, tư lương trên đường tu, do vậy chúng ta thử đưa ra vài
nhận xét về ý nghĩa bài học chiến thắng của Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni.
-
1- Kiên Trì:
-
Về sự thành công trong việc chiến thắng nội tâm và ngoại cảnh,
trước và trên hết phải nói đến sức chịu đựng gian khổ, Đức tính
nhẫn nại không thối chuyển và ý chí tinh tấn có một không hai
của Ngài quả là một bài học vô giá đối với những ai muốn noi
gương Ngài đi tìm chân lý. Mặt khác, đức tính hy sinh của Ngài
quả thật vô bờ bến. Quả thật như vậy, vì cho đến ngày nay trong
lịch sử loài người, chúng ta chưa thấy một người nào dám từ bỏ
tiền tài danh vọng để đổi lấy đời sống tu hành khắc khổ, thế mà
Thái Tử ất Đạt Đa đã bỏ cung điện nguy nga và khước từ quyền uy
của một vị Chuyển Luân Thánh Vương để dấn thân vào con đường
chông gai hiểm trở, miễn là thực hiện được lý tưởng giác ngộ cho
chính mình, và hướng dẫn cho người khác.
-
2- Con Đường Trung Đạo:
-
Thời điểm năm 624 trước công nguyên là thời kỳ con người còn lạc
hậu, cho nên con người ai cũng tin tưởng rằng thờ phụng thần
linh hoặc khổ hạnh ép xác mới được cứu rỗi. Có người tương đối
sáng suốt hơn cho rằng thân xác là nơi phát xuất những tội lỗi,
những ham muốn của nhục dục. Ngày nào mà con người không còn nô
lệ nơi thân xác, thì lúc đó tâm hồn mới được thanh thoát, do đó
họ hành hạ xác thân cho đến khi sức cùng lực tận để mong thoát
khỏi ái dục. Nhưng Thái Tử Tất Đạt Đa đã chứng nghiệm rằng khổ
hạnh quá đáng là vô ích, vì tâm hồn chỉ minh mẫn trong thân thể
lành mạnh. Như vậy chỉ có con đường Trung đạo, không buông lung,
mới đưa ta đến cứu cánh giải thoát. Con đường Trung đạo đó là
phương pháp duy nhất để chế ngự thân, miệng, ý hầu hướng dẫn
hành động, lời nói và tư tưởng theo lẽ phải trong cuộc sống.
-
3- Thực Chứng:
-
Hầu hết các tôn giáo thời bấy giờ đều dạy phải thờ cúng thần
linh và con người phải quy phục trước uy quyền thưởng phạt của
Thượng đế. Sự thực chứng của Đức Phật chứng minh rằng tất cả
chúng sanh đều có khả năng thành Phật:
-
- Tất cả các chúng sanh đều có Phật tánh
-
Hay là:
-
- Ta là Phật đã thành, các con là Phật sẽ thành.
-
Do vậy, bất cứ ai kiên trì, nhẫn nại, tinh tấn bất thối chuyển
như Ngài cũng có thể tự mình giải thoát, giác ngộ và trở thành
bậc siêu phàm. Cho nên mỗi cá nhân đều có quyền tự do lựa chọn
cho mình một hướng đi và chịu trách nhiệm về mọi hành động của
mình. Trong sạch hay ô nhiễm, hạnh phúc hay khổ đau, trầm luân
hay giải thoát đều do mình tạo ra. Đây quả là một cuộc cách mạng
giải phóng tư tưởng nô lệ mà trong đó con người phải phục tùng
Thượng đế chứ không thể trở thành Thượng đế của chính mình. Có
nô lệ chăng là con người nô lệ nơi chấp ngã vì đã tự tạo và tự
trói buộc mình trong một thứ xiềng xích Vô Minh, Ái Dục. Từ sự
nô lệ đó con người trở thành phàm phu, thấp hèn. Chừng nào thoát
ra khỏi những trói buộc ấy con người mới được giải thoát và trở
thành thánh nhân, chứ không cần đến một đấng quyền uy nào cứu
rỗi cho chúng ta.
-
Trong tinh thần nầy, chúng ta thấy Đức Phật cũng là một nhà đại
cách mạng, chủ trương san bằng giai cấp khi Ngài dạy rằng:
-
-
Không có giai cấp trong nước mắt cùng mặn. Không có giai cấp
trong dòng máu cùng đỏ.
-
Ngài chứng tỏ rằng một người trong giai cấp hèn hạ nhất có thể
tự giác và trở thành toàn thiện. Trái lại, một người trong giai
cấp vua chúa hay Bà La Môn nếu hành động đê tiện, không sáng
suốt thì vẫn là kẻ hèn hạ nhất trong thiên hạ. Chúng ta còn học
được ở sự thực chứng của Ngài bài học:
-
-
Chiến thắng được mình là một chiến công oanh liệt.
-
Quả thật như vậy, chúng ta phải biết rằng, bên trong của mỗi
chúng ta đều có một đạo quân rất hùng hậu đang ngự trị đời sống
của chúng ta. Muốn đánh đuổi thứ ngoại xâm đó không phải là dễ,
vì giặc phiền não đã nằm ngay trong những phần sâu kín nhất của
tâm hồn chúng ta và đã trở thành một thứ bệnh rất nguy hiểm.
Hành động của chúng ta hằng ngày bị chúng chi phối mà không hề
hay biết. Khi tỉnh tọa dưới cội cây Bồ Đề, chính Thái Tử Tất Đạt
Đa đã đối diện với những đạo binh ma này và đã hàng phục chúng
trước khi trở thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Trong tinh thần
nầy, cho nên bất cứ ai muốn hoàn thành sứ mạng tự giác giác tha,
thì cũng phải rèn luyện ý chí quật cường và tinh thần dũng cảm
để phấn đấu bởi vì:
-
-
Chiến thắng
vạn quân không bằng tự chiến thắng mình.
-
Theo dòng lịch sử, và công cuộc chiến thắng vinh quang của Đức
Phật, Chúng ta thấy nơi Đức Phật:
-
- Ngài là một con người giản dị, có lòng nhiệt thành, một mình
tự lực phát huy ánh sáng tươi đẹp, một nhân vật sống thực, một
con người như mọi người, chứ không phải một nhân vật thần thoại
ẩn hiện như trong nhiều truyện hoang đường. Ngài cũng ban cho
nhân loại lời khuyên bảo có tánh cách phổ thông. Nhiều quan niệm
tân tiến và đạo đức của những trào lưu tư tưởng mới đều thích
hợp với nguồn giáo lý nhân bản ấy.
-
Quả thật như vậy, từ khi Đức Phật và nguồn giáo lý
nhân bản của Ngài có mặt trong xã hội cho đến nay, Đạo Phật đã
nghiễm nhiên trở thành điểm tựa vững vàng cho nhân loại, và cũng
là đề tài được các tôn giáo nhắc nhở tới vì những lý do:
-
- Kính nể vì đây là những tư tưởng mới lạ có tính cách xây dựng
xã hội, và mang niềm an lạc hạnh phúc đến cho con người.
-
- Ganh tỵ là vì từ khi đạo Phật xuất hiện, niềm tin của các tôn
giáo thời bấy giờ bị lung lay tận gốc rễ. Do vậy họ luôn tìm
cách chống đối sự phát triển của Đạo Phật.
-
Tuy nhiên dầu sao đi nữa, cho đến nay chúng ta đã tìm thấy nhiều
giải đáp cho con người khi phải lựa chọn cho mình một hướng đi,
mà qua đó khi nói rằng Tôn Giáo là hệ thống các tín điều, và tất
cả tín đồ phải tin tưởng và chấp nhận. Điều này rất đúng đối với
nhiều tôn giáo trên thế giới, nhưng không phù hợp với Đạo Phật
bởi vì Đạo Phật cho rằng:
-
1- Tín điều chỉ là một mớ ngôn từ không tuyệt đối. Danh từ tự nó
mang đặc tính hữu hạn, làm giới hạn chân lý. Chân lý không bao
giờ được chứa đựng một cách toàn vẹn trong ngôn từ. Danh từ có
thể là phương tiện để truyền đạt chân lý, nhưng chúng ta phải
hiểu rằng đó không phải là phương tiện hoàn hảo.
-
2- Tín điều chỉ đưa tôn giáo đến chỗ cứng đọng, giảm hiệu lực và
làm mất tính cách sống động, uyển chuyển của nó.
-
3- Khi đã tin vào một số tín điều nhất định nào đó, thì con
người dễ sinh ra cố chấp, bảo thủ những tín điều ấy, và xem
thường hay gạt bỏ những tín điều của những tôn giáo khác. Đây là
lý do đưa đến tham vọng bắt mọi người chấp nhận tín điều của
mình, và cũng từ đó xẩy ra chiến tranh tôn giáo mà chúng ta
thường thấy trong lịch sử.
-
4- Tín điều là kết quả của những nỗ lực đưa chân lý vào hình
thức của các mệnh đề chỉ thuần túy hoàn toàn về lý thuyết. Trái
lại Phật Giáo không bao gồm một hệ thống thuần túy về lý thuyết
mà là một phương pháp thực nghiệm của cuộc sống.
-
Qua những chủ trương lỗi thời kia, chúng ta tìm thấy lời dạy sau
đây của Đức Phật trong Pháp Cú Kinh:
-
- Người nói nhiều Giáo Pháp nhưng không tự mình
thực hành
thì chẳng khác nào đếm bò cho kẻ khác. Người ấy không thể hưởng
được quả vị Thánh nhân. Người không nói được nhiều Giáo Pháp,
nhưng tự mình sống theo Pháp, từ bỏ tham lam, sân hận, si mê, có
chánh kiến và trầm tĩnh không cố chấp vào thế giới nà hay thế
giới khác, người ấy mới là đệ tử Như Lai.
-
Một định nghĩa khác, hầu hết các tôn giáo Tây phương đều được
thiết lập trên nền tảng tin tưởng vào Thượng Đế. Theo các tôn
giáo ấy thì mọi hành động, sinh sống của con người đều có một
ảnh hưởng lớn với Thượng Đế, nhờ đó mà con người biết được Ngài,
và vạn vật do Ngài sáng tạo. Riêng về Phật giáo không tán thành
như vậy bởi vì người Phật tử phải thấu hiểu vũ trụ, nhân sinh
qua kinh nghiệm, lý trí và trực giác, như thái độ của nhà khoa
học vừa học xong lý thuyết phải có sự kiểm chứng cụ thể bằng
tinh thần thực nghiệm để thấy được kết quả do những yếu tố phụ
thuộc xúc tác, mà không cần ai chấp nhận hay không chấp nhận,
ban bố hay không ban bố cho.
-
Thái độ của người Phật tử cũng giống như thái độ của Tất Đạt
trong Câu chuyện dòng sông của văn hào Hermann Hesse. Nội dung
trong câu chuyện cho chúng ta thấy:
-
- Tất Đạt nhìn nhận Đức Phật là bậc Toàn Chân, Toàn Thiện, Toàn
Mỹ. Lời dạy của Ngài rất hoàn hảo, nhưng chàng phải thực hiện
con đường riêng của mình, con đường mà chàng biết cuối cùng cũng
chỉ như lời Phật dạy và cứu cánh tối hậu của nó cũng chỉ là để
thành bậc Toàn Chân, Toàn Thiện, Toàn Mỹ như Đức Phật, vì không
thể có cái gì cao hơn được nữa.
-
Từ trong khuynh hướng nầy, người Phật tử không chấp nhận lời dạy
của Đức Phật như một tín điều bắt buộc họ phải chấp nhận một
cách tuyệt đối, mà tất cả những người Phật Tử hiểu đạo, chỉ xem
giáo lý của Đức Phật như những kinh nghiệm của người đi trước và
muốn đạt đến cứu cánh họ phải đi hết quãng đường bằng chính kinh
nghiệm, lý trí và trực giác của chính mình.
-
Một cách nhìn khác, có người coi tôn giáo như những tệ đoan của
xã hội mà qua đó sự cúng tế, cầu đảo là những tiêu biểu chính.
Sở dĩ có cách nhìn như vậy vì một vài tôn giáo Đông phương cũng
như Âu Mỹ tỏ ra rất chú trọng đến lễ nghi cúng tế. Những tôn
giáo này tin rằng thần thánh có một quyền uy ban ơn giáng họa
một cách tuyệt đối. Do vậy họ phải tỏ lòng cung kính và phục
tùng để được ban ân huệ. Mặt khác, họ tin rằng tội lỗi có thể
được ân xá hay tẩy trừ nhờ cúng tế hay ép mình để làm dân, hoặc
làm tôi tớ cho đấng thần linh đó. Trong khi đó Đạo Phật tuy cũng
có nghi lễ, nhưng không coi đó là mục đích cuối cùng của sự tu
tập và giác ngộ bởi vì:
-
1- Những nghi lễ cúng tế phiền phức làm mất tính cách giản dị
của một tôn giáo. Mặc dù có những lễ nghi cần thiết phải được
tôn trọng để làm tăng lòng thành kính của tín đồ, nhưng những
hình thức cúng tế quá rườm rà đều bị Đạo Phật loại bỏ.
-
2- Nghi lễ cúng tế có thể gây nên một sự hiểu lầm nguy hại.
Nhiều tín đồ đã nhầm lẫn giữa sự thờ cúng với việc tu niệm, vì
họ tin rằng tội lỗi sẽ được ân xá nhờ cúng tế. Nhưng thật ra tội
lỗi chỉ có thể tẩy trừ bằng ý chí cải thiện của mỗi cá nhân,
trong khi cúng tế là chỉ để tỏ lòng thành kính của môn đệ đối
với đấng thần linh hoặc Giáo Chủ.
-
3- Một khi đã chú trọng đến nghi lễ và cúng tế, con người có thể
vấp phải một khó khăn là những sự cúng lễ dễ bị lạc hậu. Lý do
nghi lễ mỗi thời một khác, địa phương này cũng không giống với
địa phương kia, điều này đưa đến tranh chấp nghi lễ cúng tế này
đúng, nghi lễ cúng tế kia sai. Đó là một trở ngại lớn lao cho
việc tu niệm và truyền bá.
-
4- Một tôn giáo chứa đựng quá nhiều hình thức thì nội dung dễ bị
lãng quên. Chúng ta phải nhìn nhận hình thức và nội dung phản
ảnh lẫn nhau, một khi nội dung tốt thì hình thức cũng tốt và
ngược lại. Như một bậc thánh nhân thì hẳn phải có dáng điệu phi
phàm. Nhưng đó phải là phản ảnh trung thực chứ không phải vẽ vời
hình thức để che giấu một nội dung trống rỗng.
-
Thật vậy, tôn giáo không thể không có nghi lễ, nhưng vấn đề cúng
tế
không đem đến một hiệu năng tác dụng nào, do vậy mà không thể
nào cứu vớt được con người ra khỏi biển đời đau khổ. Chỉ có sự
chế ngự tham dục, trừ bỏ sân niệm, và tiêu trừ si mê mới thật là
sự tế lễ đúng đắn.
-
Tương tự như vậy, đọc nhiều kinh điển, thờ lạy thần linh, tự đày
đọa thân thể hay bất cứ một hình thức khổ hạnh nào cũng không
thể làm cho con người trở nên thanh tịnh, sáng suốt. Phải biết
rằng:
Tụng kinh, niêm Phật, thiền toạ kinh hành ... cũng chỉ hữu ích
khi nào chuyên tâm nhất niệm để giữ cho ý được trong sạch và cải
thiện hành động cho phù hợp với lời Phật dạy thì việc làm đó mới
có ý nghĩa.
-
Như chúng ta đã thấy, những quan niệm có liên quan đến tôn giáo
thời xưa không thể áp dụng được với một tôn giáo như Phật Giáo,
và do vậy từ khi có mặt của Đức Đạo Sư, Ngài đã hướng dẫn cho
chúng ta đi trên con đường chân chánh, không phải là bao gồm
những tín điều, nghi lễ, cũng không cần phải phó thác sinh mạng
của chúng ta cho một đấng thần linh nào cả.
-
Như vậy, một người Phật Tử có tính kiên trì để thành công đúng
nghĩa là phải xây dựng nhân cách của mình bằng những thái độ thế
nào để có thể bộc lộ ra ngoài bằng những hành động đạo đức. Thái
độ ấy là thái độ tri thức chân chính, một tiêu chuẩn chính xác
để hành động thực tế trong cuộc sống hằng ngày. Như Đức Phật đã
dạy:
-
- Tất cả mọi hành động bắt nguồn từ sự suy tư và thái độ tri
thức.
-
Bởi vì một thái độ chân chính sẽ đưa đến một hành động đạo đức
và ngược lại. Đó là lý do tại sao Đức Phật dạy chúng ta muốn trở
thành một người đạo đức, trước hết phải phát triển một số thái
độ chân chính và phải loại bỏ những thái độ đối nghịch. Đôi khi
chúng ta căn cứ vào những qui luật đạo đức bên ngoài để đánh giá
trị thiện ác của một hành động, nhưng giá trị hành động tự nó
mang sẵn tính chất đạo đức của thái độ bên trong. Một khi thái
độ tri thức chân chính gắn liền với nhân cách con người thì điều
thiện có thể thực hiện được một cách tự nhiên không phải cố gắng
nữa. Đó là đạt đến chỗ chí nhân, chí thiện.
-
Vậy, một tôn giáo có mục đích đưa con người đến chỗ toàn chân,
toàn thiện thì phải đặt trọng tâm trong việc kiên trì để thành
công là phải cải thiện thái độ trí thức. Lời dạy của Đức Phật
đầu tiên trong kinh Pháp Cú đã chứng tỏ cho chúng ta tầm quan
trọng của thái độ tâm lý đối với đời sống của mỗi cá nhân rất
quan trọng:
-
- Sự hiện hữu của chúng ta là kết quả của những tư tưởng. Nó
được xây dựng trên tư tưởng và kết tinh bằng tư tưởng. Nếu một
người nói hay hành động với tư tưởng sai lầm thì khổ đau sẽ theo
người ấy như bánh xe lăn theo chân con bò kéo xe. Nhưng nếu nói
hay hành động với tư tưởng chân chính thì hạnh phúc sẽ theo
người ấy như bóng theo hình.
-
Tư tưởng sai lầm và tư tưởng chân chính là hai thái độ tâm lý
mâu thuẫn nhau, mỗi thái độ đem lại một kết quả khác biệt. Một
thái độ tâm lý gọi là sai lầm hay bất thiện khi nó mang bản chất
Tham, Sân, Si. Trái lại thái độ chân chính hay thiện khi nó
không bị ba trạng thái tâm lý ấy chi phối. Vậy muốn chuyển hóa
thái độ sai lầm sang chân chính phải diệt trừ ba nhân không
lương thiện đó là: Tham, sân, si, và những yếu tố liên hệ với
chúng. Xin gợi ý đến đại chúng sau đây là một vài thái độ tâm lý
căn bản được Đức Phật khuyến khích chúng ta nên phát triển.
-
1-
Đức Tin:
-
Về đức tin có hai khía cạnh là:
-
- Tin tưởng nơi Tam Bảo và
-
- Tự tin ở khả năng cải thiện của mình.
-
Như có người muốn đi đến một nơi nào đó phải tìm một người hướng
đạo kinh nghiệm, sáng suốt và từng hiểu rõ đâu là nơi muốn đến,
và chúng ta phải tin tưởng nơi con đường mà người ấy chỉ dẫn cặn
kẽ và hơp lý. Phải noi gương người đi trước, và tự tin là mình
có đủ sức đi hết đoạn đường. Cũng vậy, muốn đạt đến chỗ toàn
thiện chúng ta phải tin tưởng nơi Đức Phật là bậc thầy hướng đạo
giàu kinh nghiệm, đầy sáng suốt và đã trở thành bậc toàn thiện.
Phải tin ở Chánh Đạo mà Ngài chỉ dạy vì đó là con đường hơp lý,
thực nghiệm, và phải noi gương chư Tăng, những người đi trước.
Mặt khác chúng ta phải tự tin có thể đạt đến chỗ toàn thiện,
toàn chân, toàn mỹ.
-
Vậy Đức Tin là thái độ tâm lý đầu tiên hướng ta về điều thiện.
-
2- Tàm và Quý
-
Tàm là thái độ tâm lý của một người biết hổ thẹn trước điều ác.
Quý là thái độ tâm lý biết sợ hãi trước tội lỗi. Hai thái độ này
liên kết với nhau thành một bức thành trì vững chắc ngăn chúng
ta với điều ác. Một mặt nhờ có Tàm chúng ta biết hổ thẹn với
lương tâm khi sắp làm một điều ác, lương tâm cảnh cáo không cho
nhúng tay vào tội lỗi. Mặt khác nhờ có Quý chúng ta biết sợ hãi
khi phác họa ra trước mắt những hậu quả tai hại do việc ác gây
ra cho mình và cho kẻ khác. Ví dụ một người sắp sát nhân, nhưng
lương tâm anh ta không cho phép làm việc đó chính là Tàm, đồng
thời cảnh tượng nạn nhân đau đớn quằn quại trên vũng máu, cảnh
nheo nhóc, bi thảm của vợ con nạn nhân v.v. và cảnh tù tội của
chính anh hiện ra trước mắt khiến anh dừng tay không làm tội ác
sát nhân nữa đó là Quý.
-
Như vậy Tàm là hổ thẹn, và Quý là ghê sợ, là hai thái độ tâm lý
cần thiết giúp ta không tái phạm điều ác.
-
3- Tỉnh
Thức
-
Muốn biết rõ giá trị thiện ác của mỗi hành động, chúng ta phải
có một thái độ sáng suốt. Tỉnh thức tức là biết rõ nhất cử nhất
động của mình, vì vậy một khi đã tỉnh thức thì chúng ta không
hành động hồ đồ, vô ý thức.
-
Một người quá sân hận có thể sát hại đối thủ một cách hoàn toàn
mù quáng. Đến khi nguôi giận anh ta mới biết mình hành động điên
rồ. Sở dĩ như vậy vì hành vi của anh bị thúc giục bởi một xung
đột tình cảm là sân hận chứ không được nhận thức rõ ràng bằng
giác tỉnh, nghĩa là anh ta không kịp thời kiểm soát hành động
của mình bằng một thái độ tri thức sáng suốt.
-
Tỉnh thức thường đi đôi với Niệm, tạo thành một thế kết hợp để
ngăn chặn điều ác và giữ cho điều thiện luôn luôn hiện hữu.
Giống như một người lính canh gác, phải tỉnh táo thường xuyên đó
chính là tỉnh thức để nhận biết hành tung của kẻ địch bất cứ lúc
nào đó chính là niệm.
-
4- Vô Lượng Tâm
-
Con người sở dĩ gây nên tội ác là do tính hẹp hòi, vị kỷ, chấp
ngã, khinh mạn... Vì vậy muốn hướng thiện, đừng để lòng mình bị
giới hạn trong lớp vỏ bản ngã, phải để cho tâm hồn phóng đạt,
rộng rãi, bao trùm cả vạn vật chúng sinh.
-
Thái độ vì lợi ích cho người thường xuất hiện dưới bốn hình
thức: Từ, Bi, Hỷ và Xả.
-
- Từ: Là lòng mong mỏi cho tất cả chúng sanh, không phân biệt
chủng loại, được an vui hạnh phúc.
-
- Bi là lòng sẵn sàng hy sinh để xoa dịu đau khổ của tất cả
chúng sanh.
-
- Hỷ là lòng vui mừng trước sự thành công hay hạnh phúc của bất
cứ chúng sanh nào.
-
- Xả là lòng bình đẳng, vô tư, không bị chi phối bởi những tình
cảm yêu ghét, thích thú hay bất mãn.
-
Chúng ta không thể làm việc thiện nếu không có những thái độ tâm
lý: Từ, Bi, Hỷ, Xả. Vì bao lâu Tâm Vô Lượng chưa có thì chúng ta
còn bị những tình cảm sân, hận, đố kỵ tham dục chi phối, mà
những tình cảm này là mầm mống của tội lỗi.
-
5- Chánh Kiến
-
Muốn có một nhận thức đúng đắn về bản chất của kiếp sống, thì
chúng ta phải có thái độ cần thiết để hướng dẫn hành động. Đức
Phật dạy rằng có hai nhận thức sai lầm về vũ trụ và nhân sinh có
thể dẫn con người đi sâu vào tội lỗi đó là Thường Kiến và Đoạn
Kiến.
-
- Thường Kiến:
-
Nếu tin rằng bản ngã và thế giới là thường tồn bất biến là
thường kiến, thì con người không cần phải cải thiện, vì nói đến
cải thiện tức là nói đến đổi thay, mà bản ngã và thế giới một
khi đã bất biến thì làm thế nào cải thiện được. Đó là thái độ
nhận thức làm cản trở bước tiến hóa đến chỗ chí thiện.
-
- Đoạn Kiến:
-
Trái lại nếu cho rằng bản ngã và thế giới hoàn toàn hủy diệt sau
khi chết là đoạn kiến thì người ta sẽ bất chấp nhân quả, tội
phước. Và vì thế trật tự xã hội sẽ rối loạn, con người sẽ rơi
vào vực thẳm tội lỗi.
-
Để có thái độ nhận thức đúng đắn, chúng ta phải biết nhận xét và
phán đoán về thực chất của bản ngã và thế giới. Do vậy Chánh
Kiến rất cần thiết vì Chánh Kiến bao gồm tri kiến về Bốn Chân
Đế, trong đó có sự phân biệt nhân quả, thiện ác và phần tinh yếu
của nguyên lý vô thường của thế giới hữu vi đó là Bản Ngã và Thế
Giới Hiện Thực.
-
Hành động của mỗi người đúng hay sai tùy thuộc kiến thức bên
trong của người ấy chính xác hay không chính xác. Một vị bác sĩ
hiểu biết thâm sâu về y dược, cách khám bệnh, đoán bệnh và giàu
kinh nghiệm trong phương pháp trị liệu tất nhiên chữa bệnh có
kết quả hơn ông lang băm không rành y học. Một cậu sinh viên
không biết các định lý toán học, không biết chứng minh, không
thuộc công thức thì làm sao tìm đáp số đúng cho một bài toán.
Cũng vậy, muốn trở thành một con người toàn chân, toàn thiện
trước hết phải có chánh kiến tức là một thái độ tri thức nhờ đó
mà chúng ta hiểu được đâu là chân, đâu là giả.
-
Nói tóm lại, cuộc đời của đức Phật là cả một bức tranh tuyệt
đẹp, một bài văn, bài thơ tuyệt tác, mà qua đó những hình ảnh
đẹp, những đức tánh cao thượng là những bài học vô giá để khích
lệ chúng ta phải luôn luôn kiên trì để thành công, điều đó không
phải chỉ có người Phật Tử chúng ta thường ca ngợi, mà cả những
nhà văn hào trên thế giới cũng đã hết lòng ca ngợi. Một trong
những nhà văn hào đó là ông Sri Radhakrishman cũng nói rằng:
-
- Nơi Đức Phật Cồ Đàm chúng ta nhận thấy một tinh hoa toàn thiện
của người Đông Phương, ảnh hưởng Ngài trong tư tưởng và đời sống
nhân loại là một kỳ công hy hữu, cho đến nay không thua kém ảnh
hưởng của bất cứ một vị giáo chủ nào trong lịch sử. Mọi người
đều sùng kính, tôn Ngài là người đã dựng nên một hệ thống tôn
giáo vô cùng thâm cao huyền diệu. Ngài thuộc về lịch sử tư tưởng
thế giới. Ngài là kết tinh của người thiện trí thức. Đứng về
phương diện trí thức thuần túy, đạo đức trang nghiêm và tinh
thần minh mẫn, chắc chắn Ngài là một trong những bậc vĩ nhân cao
thượng nhất của lịch sử.
-
Quả thật như vậy, cho đến bây giờ và có lẽ cho đến tận ngàn sau,
cứ mỗi lần đọc, học hỏi những điều đã được ghi chép trong Tam
Tạng Kinh Điển, là chúng ta tìm thấy nơi đó rất nhiều thái độ
tri thức được Đức Phật giới thiệu và khuyến khích bằng chính
thái độ gương mẫu của Ngài. Trong bài nầy chúng tôi chỉ muốn đề
cập đến một vài thái độ tri thức căn bản: Kiên Trì Để Thành
Công, để rồi từ đó chúng ta có thể phát triển những thái độ tâm
lý chân chính khác hầu tự giải cứu chính chúng ta khỏi thế giới
giả vọng, để đến chỗ toàn chân.
--o0o--
|
|