TẬP SAN DƯỢC SƯ

Kiên Trì Để Thành Công
Chơn Đức
--o0o--
 
Nói đến đức tánh kiên trì là phải nói đến một người thanh niên có một tấm lòng rộng rãi, hy sinh, đầy quả cảm, người đó không ai xa lạ chính là Thái Tử Tất Đạt Đa. Sau khi Thái tử Tất Đạt Đa rời bỏ cung điện nguy nga, giã từ vợ đẹp con thơ đi tìm chân lý, Ngài đã trải qua không biết bao nhiêu thử thách nguy khó. Nhưng vì mục đích chuyến đi của Ngài là tìm chân lý, tìm một lối thoát cho chính mình và chúng sanh ra khỏi vòng sanh tử luân hồi, cho nên Ngài không quản ngại khó khăn hiểm trở trên con đường tìm đạo. Trong công cuộc tìm đạo nầy, Ngài đã từng tham học với các vị Thầy Bà La Môn, nhưng ở nơi những vị Thầy đó Ngài không tìm được con đường giải thoát, vì thế Ngài cương quyết thực hành phương pháp khổ hạnh. Chưa có một ai trong lịch sử nhân loại kiên trì khổ hạnh như Ngài. Mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè hay một hạt đậu, và hạn chế mọi nhu cầu cho bản thân, cho đến khi thân thể hao mòn, thịt khô máu cạn, chỉ còn da bọc xương cũng không lay chuyển được ý chí sắt đá của Ngài.
Mặc dù ý chí kiên cường, nhưng xác thân thì đã quá kiệt quệ. Một hôm Ngài ngã quị bên dòng sông Ni Liên Thiền. Khi tỉnh dậy, Ngài mới nhận ra rằng con đường khổ hạnh đến tột cũng chỉ là hành hạ thân xác, và đồng thời trí tuệ lại càng thêm thoái hóa. Do vậy mặc dù không lợi dưỡng, nhưng cần phải có một xác thân tráng kiện thì tâm hồn mới lành mạnh, có như thế trí tuệ mới minh mẫn. Nghĩ như thế, Ngài liền xuống sông Ni Liên tắm rửa và bắt đầu trì trai khất thực. Sau khi thọ thực, sức khoẻ được phục hồi, Ngài ngồi tĩnh tọa dưới cội cây Bồ đề trên một nắm cỏ khô và tham thiền nhập định. Khi đó Ngài phát nguyện:
- Du xương tan thịt nát, nếu chưa đắc đạo Ngài sẽ không rời khỏi nơi nầy.
Nhờ năng lực an trú trong thiền định, Ngài cảm thấy tâm hồn nhẹ nhàng, thư thái và sáng suốt lạ thường. Với tâm trí minh mẫn đó, dần dần Ngài hồi tưởng đến những kiếp sống quá khứ của mình. Ngài nhớ rõ trong những kiếp xa xưa ấy Ngài đã sống ở đâu, thuộc giai cấp nào, vui khổ ra sao và cuộc đời sanh sanh tử tử trong những cảnh giới nào. Tất cả chi tiết trong các kiếp sống trầm luân của Ngài đã hiện lên trong ký ức rõ ràng như một cuốn phim chiếu trên màn ảnh. Vào canh một, khi đang chú tâm quan sát về những hiện tượng sinh diệt của kiếp sống, bỗng nhiên Ngài chứng ngộ được tuệ giác đầu tiên tức là Túc Mạng Minh.
Kế đến Ngài suy xét đến kiếp sống thăng trầm của chúng sanh trong vòng sanh tử luân hồi để tìm ra nguyên nhân nào khiến cho người thì sang giàu, kẻ khốn khổ; người thông minh, kẻ ngu dốt và vì sao chúng sanh vẫn mãi đắm chìm trong bể sanh tử không thể thoát ra khỏi định luật vô thường, khổ não. Nhờ trí tuệ sáng suốt, trong canh hai Ngài đã tìm ra giải đáp và chứng ngộ tuệ giác thứ nhì đó là Thiên Nhãn Minh, tức là trí tuệ thấu triệt nguyên nhân sanh tử luân hồi của tất cả chúng sanh. Ngài biết rằng do nơi nghiệp thiện và không lương thiện phát xuất từ thân, miệng, ý mà chúng sanh sinh trưởng trong những cảnh giới khác nhau, trình độ khác nhau.
Đến canh ba, Ngài lại dùng trí tuệ soi xét và tìm kiếm phương pháp nào khả dĩ chấm dứt dòng trầm luân sinh tử. Ngài nhận thức rằng:
- Đây là khổ, là phiền não và ô nhiễm.
- Đây là nguyên nhân đau khổ, phiền não và ô nhiễm.
- Đây là sự diệt tận mọi khổ đau, ô nhiễm.
- Và đây là con đường dẫn đến sự chấm dứt mọi phiền não khổ đau.
Nhận thức như thế, tâm Ngài đã được giải thoát ra khỏi dục lậu, hữu lậu, kiến lậu và vô minh lậu. Từ đó dòng sinh tử luân hồi đã hoàn toàn chấm dứt đối với Ngài. Đó chính là tuệ giác thứ ba mà Ngài đã chứng ngộ tức là Lậu Tận Minh.
Khi cuộc chiến thắng vinh quang vừa viên mãn, thì cả ba ngàn đại thiên thế giới đều rúng động, hào quang năm sắc từ thân Ngài chiếu khắp ba cõi. Quả thật cuộc chiến thắng vẻ vang của Thái Tử Tất Đạt Đa có một ảnh hưởng sâu xa đối với nhân loại. Chúng ta không lấy làm lạ khi nhiều người tôn Ngài là bậc vĩ nhân, hoặc xem Ngài như một nhà đại cách mạng cứu thoát con người ra khỏi thứ xiềng xích nô lệ cả hai phương diện đó là:
- Tinh thần thì nô lệ thần linh,
- Thể chất thì nô lệ giai cấp của xã hội.
Sự thành công lớn lao như vậy chắc chắn phải có những nguyên do, chúng ta là Phật Tử và cũng là hàng hậu học, để cho có một hành trang, tư lương trên đường tu, do vậy chúng ta thử đưa ra vài nhận xét về ý nghĩa bài học chiến thắng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
1- Kiên Trì:
Về sự thành công trong việc chiến thắng nội tâm và ngoại cảnh, trước và trên hết phải nói đến sức chịu đựng gian khổ, Đức tính nhẫn nại không thối chuyển và ý chí tinh tấn có một không hai của Ngài quả là một bài học vô giá đối với những ai muốn noi gương Ngài đi tìm chân lý. Mặt khác, đức tính hy sinh của Ngài quả thật vô bờ bến. Quả thật như vậy, vì cho đến ngày nay trong lịch sử loài người, chúng ta chưa thấy một người nào dám từ bỏ tiền tài danh vọng để đổi lấy đời sống tu hành khắc khổ, thế mà Thái Tử ất Đạt Đa đã bỏ cung điện nguy nga và khước từ quyền uy của một vị Chuyển Luân Thánh Vương để dấn thân vào con đường chông gai hiểm trở, miễn là thực hiện được lý tưởng giác ngộ cho chính mình, và hướng dẫn cho người khác.
2- Con Đường Trung Đạo:
Thời điểm năm 624 trước công nguyên là thời kỳ con người còn lạc hậu, cho nên con người ai cũng tin tưởng rằng thờ phụng thần linh hoặc khổ hạnh ép xác mới được cứu rỗi. Có người tương đối sáng suốt hơn cho rằng thân xác là nơi phát xuất những tội lỗi, những ham muốn của nhục dục. Ngày nào mà con người không còn nô lệ nơi thân xác, thì lúc đó tâm hồn mới được thanh thoát, do đó họ hành hạ xác thân cho đến khi sức cùng lực tận để mong thoát khỏi ái dục. Nhưng Thái Tử Tất Đạt Đa đã chứng nghiệm rằng khổ hạnh quá đáng là vô ích, vì tâm hồn chỉ minh mẫn trong thân thể lành mạnh. Như vậy chỉ có con đường Trung đạo, không buông lung, mới đưa ta đến cứu cánh giải thoát. Con đường Trung đạo đó là phương pháp duy nhất để chế ngự thân, miệng, ý hầu hướng dẫn hành động, lời nói và tư tưởng theo lẽ phải trong cuộc sống.
3- Thực Chứng:
Hầu hết các tôn giáo thời bấy giờ đều dạy phải thờ cúng thần linh và con người phải quy phục trước uy quyền thưởng phạt của Thượng đế. Sự thực chứng của Đức Phật chứng minh rằng tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật:
- Tất cả các chúng sanh đều có Phật tánh
Hay là:
- Ta là Phật đã thành, các con là Phật sẽ thành.
Do vậy, bất cứ ai kiên trì, nhẫn nại, tinh tấn bất thối chuyển như Ngài cũng có thể tự mình giải thoát, giác ngộ và trở thành bậc siêu phàm. Cho nên mỗi cá nhân đều có quyền tự do lựa chọn cho mình một hướng đi và chịu trách nhiệm về mọi hành động của mình. Trong sạch hay ô nhiễm, hạnh phúc hay khổ đau, trầm luân hay giải thoát đều do mình tạo ra. Đây quả là một cuộc cách mạng giải phóng tư tưởng nô lệ mà trong đó con người phải phục tùng Thượng đế chứ không thể trở thành Thượng đế của chính mình. Có nô lệ chăng là con người nô lệ nơi chấp ngã vì đã tự tạo và tự trói buộc mình trong một thứ xiềng xích Vô Minh, Ái Dục. Từ sự nô lệ đó con người trở thành phàm phu, thấp hèn. Chừng nào thoát ra khỏi những trói buộc ấy con người mới được giải thoát và trở thành thánh nhân, chứ không cần đến một đấng quyền uy nào cứu rỗi cho chúng ta.
Trong tinh thần nầy, chúng ta thấy Đức Phật cũng là một nhà đại cách mạng, chủ trương san bằng giai cấp khi Ngài dạy rằng:
- Không có giai cấp trong nước mắt cùng mặn. Không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ.
Ngài chứng tỏ rằng một người trong giai cấp hèn hạ nhất có thể tự giác và trở thành toàn thiện. Trái lại, một người trong giai cấp vua chúa hay Bà La Môn nếu hành động đê tiện, không sáng suốt thì vẫn là kẻ hèn hạ nhất trong thiên hạ. Chúng ta còn học được ở sự thực chứng của Ngài bài học:
- Chiến thắng được mình là một chiến công oanh liệt.
Quả thật như vậy, chúng ta phải biết rằng, bên trong của mỗi chúng ta đều có một đạo quân rất hùng hậu đang ngự trị đời sống của chúng ta. Muốn đánh đuổi thứ ngoại xâm đó không phải là dễ, vì giặc phiền não đã nằm ngay trong những phần sâu kín nhất của tâm hồn chúng ta và đã trở thành một thứ bệnh rất nguy hiểm. Hành động của chúng ta hằng ngày bị chúng chi phối mà không hề hay biết. Khi tỉnh tọa dưới cội cây Bồ Đề, chính Thái Tử Tất Đạt Đa đã đối diện với những đạo binh ma này và đã hàng phục chúng trước khi trở thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Trong tinh thần nầy, cho nên bất cứ ai muốn hoàn thành sứ mạng tự giác giác tha, thì cũng phải rèn luyện ý chí quật cường và tinh thần dũng cảm để phấn đấu bởi vì:
- Chiến thắng vạn quân không bằng tự chiến thắng mình.
Theo dòng lịch sử, và công cuộc chiến thắng vinh quang của Đức Phật, Chúng ta thấy nơi Đức Phật:
- Ngài là một con người giản dị, có lòng nhiệt thành, một mình tự lực phát huy ánh sáng tươi đẹp, một nhân vật sống thực, một con người như mọi người, chứ không phải một nhân vật thần thoại ẩn hiện như trong nhiều truyện hoang đường. Ngài cũng ban cho nhân loại lời khuyên bảo có tánh cách phổ thông. Nhiều quan niệm tân tiến và đạo đức của những trào lưu tư tưởng mới đều thích hợp với nguồn giáo lý nhân bản ấy.
             Quả thật như vậy, từ khi Đức Phật và nguồn giáo lý nhân bản của Ngài có mặt trong xã hội cho đến nay, Đạo Phật đã nghiễm nhiên trở thành điểm tựa vững vàng cho nhân loại, và cũng là đề tài được các tôn giáo nhắc nhở tới vì những lý do:
- Kính nể vì đây là những tư tưởng mới lạ có tính cách xây dựng xã hội, và mang niềm an lạc hạnh phúc đến cho con người.
- Ganh tỵ là vì từ khi đạo Phật xuất hiện, niềm tin của các tôn giáo thời bấy giờ bị lung lay tận gốc rễ. Do vậy họ luôn tìm cách chống đối sự phát triển của Đạo Phật.
Tuy nhiên dầu sao đi nữa, cho đến nay chúng ta đã tìm thấy nhiều giải đáp cho con người khi phải lựa chọn cho mình một hướng đi, mà qua đó khi nói rằng Tôn Giáo là hệ thống các tín điều, và tất cả tín đồ phải tin tưởng và chấp nhận. Điều này rất đúng đối với nhiều tôn giáo trên thế giới, nhưng không phù hợp với Đạo Phật bởi vì Đạo Phật cho rằng:
1- Tín điều chỉ là một mớ ngôn từ không tuyệt đối. Danh từ tự nó mang đặc tính hữu hạn, làm giới hạn chân lý. Chân lý không bao giờ được chứa đựng một cách toàn vẹn trong ngôn từ. Danh từ có thể là phương tiện để truyền đạt chân lý, nhưng chúng ta phải hiểu rằng đó không phải là phương tiện hoàn hảo.
2- Tín điều chỉ đưa tôn giáo đến chỗ cứng đọng, giảm hiệu lực và làm mất tính cách sống động, uyển chuyển của nó.
3- Khi đã tin vào một số tín điều nhất định nào đó, thì con người dễ sinh ra cố chấp, bảo thủ những tín điều ấy, và xem thường hay gạt bỏ những tín điều của những tôn giáo khác. Đây là lý do đưa đến tham vọng bắt mọi người chấp nhận tín điều của mình, và cũng từ đó xẩy ra chiến tranh tôn giáo mà chúng ta thường thấy trong lịch sử.
4- Tín điều là kết quả của những nỗ lực đưa chân lý vào hình thức của các mệnh đề chỉ thuần túy hoàn toàn về lý thuyết. Trái lại Phật Giáo không bao gồm một hệ thống thuần túy về lý thuyết mà là một phương pháp thực nghiệm của cuộc sống.
Qua những chủ trương lỗi thời kia, chúng ta tìm thấy lời dạy sau đây của Đức Phật trong Pháp Cú Kinh:
- Người nói nhiều Giáo Pháp nhưng không tự mình thực hành thì chẳng khác nào đếm bò cho kẻ khác. Người ấy không thể hưởng được quả vị Thánh nhân. Người không nói được nhiều Giáo Pháp, nhưng tự mình sống theo Pháp, từ bỏ tham lam, sân hận, si mê, có chánh kiến và trầm tĩnh không cố chấp vào thế giới nà hay thế giới khác, người ấy mới là đệ tử Như Lai.
Một định nghĩa khác, hầu hết các tôn giáo Tây phương đều được thiết lập trên nền tảng tin tưởng vào Thượng Đế. Theo các tôn giáo ấy thì mọi hành động, sinh sống của con người đều có một ảnh hưởng lớn với Thượng Đế, nhờ đó mà con người biết được Ngài, và vạn vật do Ngài sáng tạo. Riêng về Phật giáo không tán thành như vậy bởi vì người Phật tử phải thấu hiểu vũ trụ, nhân sinh qua kinh nghiệm, lý trí và trực giác, như thái độ của nhà khoa học vừa học xong lý thuyết phải có sự kiểm chứng cụ thể bằng tinh thần thực nghiệm để thấy được kết quả do những yếu tố phụ thuộc xúc tác, mà không cần ai chấp nhận hay không chấp nhận, ban bố hay không ban bố cho.
Thái độ của người Phật tử cũng giống như thái độ của Tất Đạt trong Câu chuyện dòng sông của văn hào Hermann Hesse. Nội dung trong câu chuyện cho chúng ta thấy:
- Tất Đạt nhìn nhận Đức Phật là bậc Toàn Chân, Toàn Thiện, Toàn Mỹ. Lời dạy của Ngài rất hoàn hảo, nhưng chàng phải thực hiện con đường riêng của mình, con đường mà chàng biết cuối cùng cũng chỉ như lời Phật dạy và cứu cánh tối hậu của nó cũng chỉ là để thành bậc Toàn Chân, Toàn Thiện, Toàn Mỹ như Đức Phật, vì không thể có cái gì cao hơn được nữa.
Từ trong khuynh hướng nầy, người Phật tử không chấp nhận lời dạy của Đức Phật như một tín điều bắt buộc họ phải chấp nhận một cách tuyệt đối, mà tất cả những người Phật Tử hiểu đạo, chỉ xem giáo lý của Đức Phật như những kinh nghiệm của người đi trước và muốn đạt đến cứu cánh họ phải đi hết quãng đường bằng chính kinh nghiệm, lý trí và trực giác của chính mình.
Một cách nhìn khác, có người coi tôn giáo như những tệ đoan của xã hội mà qua đó sự cúng tế, cầu đảo là những tiêu biểu chính. Sở dĩ có cách nhìn như vậy vì một vài tôn giáo Đông phương cũng như Âu Mỹ tỏ ra rất chú trọng đến lễ nghi cúng tế. Những tôn giáo này tin rằng thần thánh có một quyền uy ban ơn giáng họa một cách tuyệt đối. Do vậy họ phải tỏ lòng cung kính và phục tùng để được ban ân huệ. Mặt khác, họ tin rằng tội lỗi có thể được ân xá hay tẩy trừ nhờ cúng tế hay ép mình để làm dân, hoặc làm tôi tớ cho đấng thần linh đó. Trong khi đó Đạo Phật tuy cũng có nghi lễ, nhưng không coi đó là mục đích cuối cùng của sự tu tập và giác ngộ bởi vì:
1- Những nghi lễ cúng tế phiền phức làm mất tính cách giản dị của một tôn giáo. Mặc dù có những lễ nghi cần thiết phải được tôn trọng để làm tăng lòng thành kính của tín đồ, nhưng những hình thức cúng tế quá rườm rà đều bị Đạo Phật loại bỏ.
2- Nghi lễ cúng tế có thể gây nên một sự hiểu lầm nguy hại. Nhiều tín đồ đã nhầm lẫn giữa sự thờ cúng với việc tu niệm, vì họ tin rằng tội lỗi sẽ được ân xá nhờ cúng tế. Nhưng thật ra tội lỗi chỉ có thể tẩy trừ bằng ý chí cải thiện của mỗi cá nhân, trong khi cúng tế là chỉ để tỏ lòng thành kính của môn đệ đối với đấng thần linh hoặc Giáo Chủ.
3- Một khi đã chú trọng đến nghi lễ và cúng tế, con người có thể vấp phải một khó khăn là những sự cúng lễ dễ bị lạc hậu. Lý do nghi lễ mỗi thời một khác, địa phương này cũng không giống với địa phương kia, điều này đưa đến tranh chấp nghi lễ cúng tế này đúng, nghi lễ cúng tế kia sai. Đó là một trở ngại lớn lao cho việc tu niệm và truyền bá.
4- Một tôn giáo chứa đựng quá nhiều hình thức thì nội dung dễ bị lãng quên. Chúng ta phải nhìn nhận hình thức và nội dung phản ảnh lẫn nhau, một khi nội dung tốt thì hình thức cũng tốt và ngược lại. Như một bậc thánh nhân thì hẳn phải có dáng điệu phi phàm. Nhưng đó phải là phản ảnh trung thực chứ không phải vẽ vời hình thức để che giấu một nội dung trống rỗng.
Thật vậy, tôn giáo không thể không có nghi lễ, nhưng vấn đề cúng tế không đem đến một hiệu năng tác dụng nào, do vậy mà không thể nào cứu vớt được con người ra khỏi biển đời đau khổ. Chỉ có sự chế ngự tham dục, trừ bỏ sân niệm, và tiêu trừ si mê mới thật là sự tế lễ đúng đắn.
Tương tự như vậy, đọc nhiều kinh điển, thờ lạy thần linh, tự đày đọa thân thể hay bất cứ một hình thức khổ hạnh nào cũng không thể làm cho con người trở nên thanh tịnh, sáng suốt. Phải biết rằng: Tụng kinh, niêm Phật, thiền toạ kinh hành ... cũng chỉ hữu ích khi nào chuyên tâm nhất niệm để giữ cho ý được trong sạch và cải thiện hành động cho phù hợp với lời Phật dạy thì việc làm đó mới có ý nghĩa.
Như chúng ta đã thấy, những quan niệm có liên quan đến tôn giáo thời xưa không thể áp dụng được với một tôn giáo như Phật Giáo, và do vậy từ khi có mặt của Đức Đạo Sư, Ngài đã hướng dẫn cho chúng ta đi trên con đường chân chánh, không phải là bao gồm những tín điều, nghi lễ, cũng không cần phải phó thác sinh mạng của chúng ta cho một đấng thần linh nào cả.
Như vậy, một người Phật Tử có tính kiên trì để thành công đúng nghĩa là phải xây dựng nhân cách của mình bằng những thái độ thế nào để có thể bộc lộ ra ngoài bằng những hành động đạo đức. Thái độ ấy là thái độ tri thức chân chính, một tiêu chuẩn chính xác để hành động thực tế trong cuộc sống hằng ngày. Như Đức Phật đã dạy:
- Tất cả mọi hành động bắt nguồn từ sự suy tư và thái độ tri thức.
Bởi vì một thái độ chân chính sẽ đưa đến một hành động đạo đức và ngược lại. Đó là lý do tại sao Đức Phật dạy chúng ta muốn trở thành một người đạo đức, trước hết phải phát triển một số thái độ chân chính và phải loại bỏ những thái độ đối nghịch. Đôi khi chúng ta căn cứ vào những qui luật đạo đức bên ngoài để đánh giá trị thiện ác của một hành động, nhưng giá trị hành động tự nó mang sẵn tính chất đạo đức của thái độ bên trong. Một khi thái độ tri thức chân chính gắn liền với nhân cách con người thì điều thiện có thể thực hiện được một cách tự nhiên không phải cố gắng nữa. Đó là đạt đến chỗ chí nhân, chí thiện.
Vậy, một tôn giáo có mục đích đưa con người đến chỗ toàn chân, toàn thiện thì phải đặt trọng tâm trong việc kiên trì để thành công là phải cải thiện thái độ trí thức. Lời dạy của Đức Phật đầu tiên trong kinh Pháp Cú đã chứng tỏ cho chúng ta tầm quan trọng của thái độ tâm lý đối với đời sống của mỗi cá nhân rất quan trọng:
- Sự hiện hữu của chúng ta là kết quả của những tư tưởng. Nó được xây dựng trên tư tưởng và kết tinh bằng tư tưởng. Nếu một người nói hay hành động với tư tưởng sai lầm thì khổ đau sẽ theo người ấy như bánh xe lăn theo chân con bò kéo xe. Nhưng nếu nói hay hành động với tư tưởng chân chính thì hạnh phúc sẽ theo người ấy như bóng theo hình.
Tư tưởng sai lầm và tư tưởng chân chính là hai thái độ tâm lý mâu thuẫn nhau, mỗi thái độ đem lại một kết quả khác biệt. Một thái độ tâm lý gọi là sai lầm hay bất thiện khi nó mang bản chất Tham, Sân, Si. Trái lại thái độ chân chính hay thiện khi nó không bị ba trạng thái tâm lý ấy chi phối. Vậy muốn chuyển hóa thái độ sai lầm sang chân chính phải diệt trừ ba nhân không lương thiện đó là: Tham, sân, si, và những yếu tố liên hệ với chúng. Xin gợi ý đến đại chúng sau đây là một vài thái độ tâm lý căn bản được Đức Phật khuyến khích chúng ta nên phát triển.
1- Đức Tin:
Về đức tin có hai khía cạnh là:
- Tin tưởng nơi Tam Bảo và
- Tự tin ở khả năng cải thiện của mình.
Như có người muốn đi đến một nơi nào đó phải tìm một người hướng đạo kinh nghiệm, sáng suốt và từng hiểu rõ đâu là nơi muốn đến, và chúng ta phải tin tưởng nơi con đường mà người ấy chỉ dẫn cặn kẽ và hơp lý. Phải noi gương người đi trước, và tự tin là mình có đủ sức đi hết đoạn đường. Cũng vậy, muốn đạt đến chỗ toàn thiện chúng ta phải tin tưởng nơi Đức Phật là bậc thầy hướng đạo giàu kinh nghiệm, đầy sáng suốt và đã trở thành bậc toàn thiện. Phải tin ở Chánh Đạo mà Ngài chỉ dạy vì đó là con đường hơp lý, thực nghiệm, và phải noi gương chư Tăng, những người đi trước. Mặt khác chúng ta phải tự tin có thể đạt đến chỗ toàn thiện, toàn chân, toàn mỹ.
Vậy Đức Tin là thái độ tâm lý đầu tiên hướng ta về điều thiện.
2- Tàm và Quý
Tàm là thái độ tâm lý của một người biết hổ thẹn trước điều ác. Quý là thái độ tâm lý biết sợ hãi trước tội lỗi. Hai thái độ này liên kết với nhau thành một bức thành trì vững chắc ngăn chúng ta với điều ác. Một mặt nhờ có Tàm chúng ta biết hổ thẹn với lương tâm khi sắp làm một điều ác, lương tâm cảnh cáo không cho nhúng tay vào tội lỗi. Mặt khác nhờ có Quý chúng ta biết sợ hãi khi phác họa ra trước mắt những hậu quả tai hại do việc ác gây ra cho mình và cho kẻ khác. Ví dụ một người sắp sát nhân, nhưng lương tâm anh ta không cho phép làm việc đó chính là Tàm, đồng thời cảnh tượng nạn nhân đau đớn quằn quại trên vũng máu, cảnh nheo nhóc, bi thảm của vợ con nạn nhân v.v. và cảnh tù tội của chính anh hiện ra trước mắt khiến anh dừng tay không làm tội ác sát nhân nữa đó là Quý.
Như vậy Tàm là hổ thẹn, và Quý là ghê sợ, là hai thái độ tâm lý cần thiết giúp ta không tái phạm điều ác.
3- Tỉnh Thức
Muốn biết rõ giá trị thiện ác của mỗi hành động, chúng ta phải có một thái độ sáng suốt. Tỉnh thức tức là biết rõ nhất cử nhất động của mình, vì vậy một khi đã tỉnh thức thì chúng ta không hành động hồ đồ, vô ý thức.
Một người quá sân hận có thể sát hại đối thủ một cách hoàn toàn mù quáng. Đến khi nguôi giận anh ta mới biết mình hành động điên rồ. Sở dĩ như vậy vì hành vi của anh bị thúc giục bởi một xung đột tình cảm là sân hận chứ không được nhận thức rõ ràng bằng giác tỉnh, nghĩa là anh ta không kịp thời kiểm soát hành động của mình bằng một thái độ tri thức sáng suốt.
Tỉnh thức thường đi đôi với Niệm, tạo thành một thế kết hợp để ngăn chặn điều ác và giữ cho điều thiện luôn luôn hiện hữu. Giống như một người lính canh gác, phải tỉnh táo thường xuyên đó chính là tỉnh thức để nhận biết hành tung của kẻ địch bất cứ lúc nào đó chính là  niệm.
4- Vô Lượng Tâm
Con người sở dĩ gây nên tội ác là do tính hẹp hòi, vị kỷ, chấp ngã, khinh mạn... Vì vậy muốn hướng thiện, đừng để lòng mình bị giới hạn trong lớp vỏ bản ngã, phải để cho tâm hồn phóng đạt, rộng rãi, bao trùm cả vạn vật chúng sinh.
Thái độ vì lợi ích cho người thường xuất hiện dưới bốn hình thức: Từ, Bi, Hỷ và Xả.
- Từ: Là lòng mong mỏi cho tất cả chúng sanh, không phân biệt chủng loại, được an vui hạnh phúc.
- Bi là lòng sẵn sàng hy sinh để xoa dịu đau khổ của tất cả chúng sanh.
- Hỷ là lòng vui mừng trước sự thành công hay hạnh phúc của bất cứ chúng sanh nào.
- Xả là lòng bình đẳng, vô tư, không bị chi phối bởi những tình cảm yêu ghét, thích thú hay bất mãn.
Chúng ta không thể làm việc thiện nếu không có những thái độ tâm lý: Từ, Bi, Hỷ, Xả. Vì bao lâu Tâm Vô Lượng chưa có thì chúng ta còn bị những tình cảm sân, hận, đố kỵ tham dục chi phối, mà những tình cảm này là mầm mống của tội lỗi.
5- Chánh Kiến
Muốn có một nhận thức đúng đắn về bản chất của kiếp sống, thì chúng ta phải có thái độ cần thiết để hướng dẫn hành động. Đức Phật dạy rằng có hai nhận thức sai lầm về vũ trụ và nhân sinh có thể dẫn con người đi sâu vào tội lỗi đó là Thường Kiến và Đoạn Kiến.
- Thường Kiến:
Nếu tin rằng bản ngã và thế giới là thường tồn bất biến là thường kiến, thì con người không cần phải cải thiện, vì nói đến cải thiện tức là nói đến đổi thay, mà bản ngã và thế giới một khi đã bất biến thì làm thế nào cải thiện được. Đó là thái độ nhận thức làm cản trở bước tiến hóa đến chỗ chí thiện.
- Đoạn Kiến:
Trái lại nếu cho rằng bản ngã và thế giới hoàn toàn hủy diệt sau khi chết là đoạn kiến thì người ta sẽ bất chấp nhân quả, tội phước. Và vì thế trật tự xã hội sẽ rối loạn, con người sẽ rơi vào vực thẳm tội lỗi.
Để có thái độ nhận thức đúng đắn, chúng ta phải biết nhận xét và phán đoán về thực chất của bản ngã và thế giới. Do vậy Chánh Kiến rất cần thiết vì Chánh Kiến bao gồm tri kiến về Bốn Chân Đế, trong đó có sự phân biệt nhân quả, thiện ác và phần tinh yếu của nguyên lý vô thường của thế giới hữu vi đó là Bản Ngã và Thế Giới Hiện Thực.
Hành động của mỗi người đúng hay sai tùy thuộc kiến thức bên trong của người ấy chính xác hay không chính xác. Một vị bác sĩ hiểu biết thâm sâu về y dược, cách khám bệnh, đoán bệnh và giàu kinh nghiệm trong phương pháp trị liệu tất nhiên chữa bệnh có kết quả hơn ông lang băm không rành y học. Một cậu sinh viên không biết các định lý toán học, không biết chứng minh, không thuộc công thức thì làm sao tìm đáp số đúng cho một bài toán. Cũng vậy, muốn trở thành một con người toàn chân, toàn thiện trước hết phải có chánh kiến tức là một thái độ tri thức nhờ đó mà chúng ta hiểu được đâu là chân, đâu là giả.
Nói tóm lại, cuộc đời của đức Phật là cả một bức tranh tuyệt đẹp, một bài văn, bài thơ tuyệt tác, mà qua đó những hình ảnh đẹp, những đức tánh cao thượng là những bài học vô giá để khích lệ chúng ta phải luôn luôn kiên trì để thành công, điều đó không phải chỉ có người Phật Tử chúng ta thường ca ngợi, mà cả những nhà văn hào trên thế giới cũng đã hết lòng ca ngợi. Một trong những nhà văn hào đó là ông Sri Radhakrishman cũng nói rằng:
- Nơi Đức Phật Cồ Đàm chúng ta nhận thấy một tinh hoa toàn thiện của người Đông Phương, ảnh hưởng Ngài trong tư tưởng và đời sống nhân loại là một kỳ công hy hữu, cho đến nay không thua kém ảnh hưởng của bất cứ một vị giáo chủ nào trong lịch sử. Mọi người đều sùng kính, tôn Ngài là người đã dựng nên một hệ thống tôn giáo vô cùng thâm cao huyền diệu. Ngài thuộc về lịch sử tư tưởng thế giới. Ngài là kết tinh của người thiện trí thức. Đứng về phương diện trí thức thuần túy, đạo đức trang nghiêm và tinh thần minh mẫn, chắc chắn Ngài là một trong những bậc vĩ nhân cao thượng nhất của lịch sử.
Quả thật như vậy, cho đến bây giờ và có lẽ cho đến tận ngàn sau, cứ mỗi lần đọc, học hỏi những điều đã được ghi chép trong Tam Tạng Kinh Điển, là chúng ta tìm thấy nơi đó rất nhiều thái độ tri thức được Đức Phật giới thiệu và khuyến khích bằng chính thái độ gương mẫu của Ngài. Trong bài nầy chúng tôi chỉ muốn đề cập đến một vài thái độ tri thức căn bản: Kiên Trì Để Thành Công, để rồi từ đó chúng ta có thể phát triển những thái độ tâm lý chân chính khác hầu tự giải cứu chính chúng ta khỏi thế giới giả vọng, để đến chỗ toàn chân.
--o0o--