|
TẬP SAN DƯỢC SƯ
-
Xin Cho Nhau Niềm Tin
-
Thông Trí
-
--o0o--
-
-
Trong cuộc sống hiện tại, nhiều người bị suy nhược vì lo âu
nhiều quá. Do vì lo âu quá nhiều cho nên không đáp ứng được mục
đích hữu ích nào cho cuộc sống, và cũng không giúp ích gì đến xã
hội, ngoài việc xói mòn hạnh phúc và ngăn cản khả năng đạt đến
mục tiêu lành mạnh của chính bản thân và của người khác. Đối với
những ai gặp hoàn cảnh nầy, người phật tử chúng ta phải cho họ
niềm tin:
-
- Xin tặng cho anh, cho anh, cho anh đoá hoa niềm tin
-
Xin tặng cho em, cho em, cho em đóa hoa niềm tin
-
Thời gian dầu có phai nhạt nhoà
-
Nhưng niềm tin ta vẫn mặn mà
-
Và đạo tình ta luôn đậm đà
-
Theo tháng ngày qua.
-
Xin tặng cho anh, cho anh, cho anh những lời cầu kinh
-
Xin tặng cho em, cho em, cho em muôn lời bình an,
-
Thế gian dầu có bao phủ phàng
-
Nhưng lời cầu kinh vẫn nồng nàn
-
Và đạo tình ta luôn đầy tràn
-
Giữa đời lầm than.
-
Tôi nguyện cùng anh đưa anh đi qua bến bờ khổ đau
-
Tôi nguyện cùng em đưa em đi qua cảnh đời biển dâu
-
Thế gian dầu có muôn sắc mầu
-
Nhưng niềm tin ta với nguyện cầu
-
Nguyện cầu,
-
Cuộc đời hết khổ đau.
-
Niềm tin là liều thuốc hồi sinh cho tất cả những chứng lo âu và
sợ hãi. Quả thật, một khi mà bộ não con người được trang bị với
một hệ thống dành để ghi nhận những cảm xúc sợ sệt và lo lắng,
thì hệ thống này đáp ứng chức năng quan trọng của nó bằng cách
phát động hàng loạt những phản ứng tâm lý và sinh lý. Cho nên,
một số loại sợ hãi, và mức lo âu nào đó xẩy ra có thể là chỉ
trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, những cảm xúc sợ hãi và lo
âu có thể dai dẳng và gia tăng khi không có tính đe dọa đích
thực, và khi những cảm xúc này phát triển không cân xứng với bất
cứ nguy hiểm thực sự nào, chúng trở thành sai lầm. Lo âu quá độ
giống như giận dữ và sân hận có thể có những tác động tàn phá
đến tâm và thân, trở thành nguồn khổ đau nhiều về xúc cảm và cả
đến bệnh về thể chất.
-
Về mặt tinh thần, những lo âu kinh niên có thể làm suy yếu những
nhận xét đúng đắn, đồng thời gia tăng tính dễ nổi cáu, và cản
trở toàn bộ thành quả của chúng ta. Nó cũng dẫn đến những vấn đề
khó khăn về thể chất chẳng hạn như:
-
- Giảm chức năng miễn dịch,
-
- Bệnh tim,
-
- Rối loạn ruột dạ dày,
-
- Mệt mỏi,
-
- Cơ bắp căng thẳng và đau đớn.
-
Những rối loạn của lo âu cho thấy đã gây việc suy dinh dưỡng cho
sự phát triển của các thiếu nữ.
-
Trong việc tìm các cách đối trị với lo âu, trước hết chúng ta
phải công nhận là có nhiều yếu tố góp phần làm tăng thêm sự lo
âu. Một số người dễ bị thương tổn thần kinh khi trải qua trạng
thái lo nghĩ và sợ hãi. Các nhà khoa học cho rằng:
-
- Yếu tố di truyền có liên quan đến những người hay lo lắng và
suy nghĩ tiêu cực.
-
Tuy nhiên không phải tất cả mọi trường hợp về độc tố lo lắng đều
do nguyên nhân di truyền, mà hầu như chắc chắn là những tình
huống trong xã hội hiện đại cũng đóng một vai trò lớn trong
nguyên nhân gây bệnh.ÕNhưng dù cho sự lo âu chủ yếu là bẩm sinh
về thể chất hay tâm lý đi nữa, thì chúng ta cũng vẫn có cách để
chữa trị. Trong những trường hợp lo âu trầm trọng, thuốc men có
thể là một phần hữu dụng trong chế độ điều trị. Nhưng hầu hết
mọi phiền muộn bởi lo nghĩ và lo âu dai dẳng hằng ngày sẽ không
cần can thiệp bằng thuốc. Phương pháp giải quyết tốt nhất là
chúng ta phải lưu ý:
-
- Tình trạng sức khỏe, có thể là nguyên nhân gây ra lo âu.
-
- Cải thiện phương diện ăn uống cho thích hợp và tập luyện cơ
thể cho khỏe mạnh.
-
- Trau dồi tình thương và tăng cường quan hệ với người khác.
-
Tuy nhiên trong công việc tìm kiếm những phương pháp thực tiễn
để khắc phục lo âu, một kỹ thuật có hiệu quả nhất đó là có sự
can thiệp của nhận thức, hay tuệ giác vào trong mọi hành động.
Đó là một trong những phương pháp chính mà chúng ta có thể áp
dụng để khắc phục phiền muộn và lo âu hàng ngày. Kỹ thuật này
đòi hỏi chúng ta phải tích cực, không chấp nhận những ý nghĩ
phát sanh lo âu và thay thế chúng bằng ý nghĩ, thái độ tích cực
và hợp lý.
-
Sợ hãi và lo âu là chướng ngại chính trong việc hoàn thành mục
tiêu tu học của chúng ta, do vậy khi đối trị với sợ hãi, trước
nhất chúng ta cần phải biết là có nhiều loại lo sợ. Có những
loại sợ rất chính đáng, tức là loại lo sợ căn cứ vào những lý do
hợp lý. Chúng ta có thể thấy những điều ấy rất là xấu, rồi có
những sự lo sợ về những hậu quả tiêu cực xẩy ra sau này, từ
những hành động tiêu cực của chúng ta. Chúng ta phải thấy đó là
những loại sợ hãi đứng đắn, những loại sợ hãi này đưa chúng ta
vào chánh đạo, giúp chúng ta trở thành người có lòng tốt. Mặc dù
trong một ý nghĩa nào đó, đây là những loại lo sợ, chúng ta nên
tìm hiểu về tính chất phá hoại hay xây dựng của nó.
-
Mặt khác có những loại sợ hãi do chính chúng ta tạo nên, những
loại lo sợ này hoàn toàn dựa trên tinh thần. Thí dụ:
-
- Lúc còn nhỏ, khi đi qua chỗ tối thì chúng ta thấy sợ.
-
Cái sợ này hoàn toàn do tưởng tượng. Hay khi còn nhỏ chúng ta có
nghe những người lớn thường khuyến cáo, là có con chim cú hay
bắt trẻ con ăn thịt, và chúng ta tin là có thật.
-
Có những loại lo sợ khác căn cứ vào tưởng tượng, chẳng hạn như
chúng ta có những cảm tưởng lo sợ do tình trạng tinh thần, rồi
chúng ta suy bụng ta ra bụng người, thấy người này có vẻ tiêu
cực và thù nghịch. Kết quả, chúng ta cảm thấy sợ hãi. Cho nên,
việc đối trị sự lo sợ, trước hết chúng ta cần phải xử dụng khả
năng và cố gắng khám phá xem có cơ sở nào để chúng ta sợ. Một
trong những cách giải quyết rất hữu hiệu để giảm bớt loại lo
lắng này là trau dồi tư tưởng, nghĩa là:
-
- Nếu thấy tình huống khó khăn có thể vượt qua được, thì không
cần phải lo lắng.
-
Nói một cách khác, nếu có giải pháp hay có lối thoát khỏi khó
khăn, thì chúng ta cần phải thực hiện ngay mà không cần chờ đợi.
Hành động thích hợp là tìm ra giải pháp và sáng suốt, đó là tập
trung năng lực tìm biện pháp để giải quyết hơn là cứ thụ động lo
lắng triền miên. Còn nếu không có cách nào để giải quyết khó
khăn, thì cũng không có lý do gì phải lo, vì dù sao đi nữa chúng
ta cũng không làm được điều gì khác. Trong trường hợp đó, nếu
chúng ta chấp nhận sự thật càng sớm, thì chúng ta càng cảm thấy
dễ chịu hơn. Dĩ nhiên điều này ngụ ý, chúng ta nên trực tiếp
đương đầu với vấn đề và không nên bi quan và bỏ cuộc.
-
Hãy cũng cố sự tự vào bản thân và liên tục tự nhắc nhở mình. Dù
sao đi nữa thì bất cứ phương pháp nào đi nữa cũng có thể giúp
chúng ta làm giảm sự lo lắng, nhưng không phải lúc nào nó cũng
có kết quả. Nếu chúng ta phải đối phó với sự lo lắng đang diễn
ra, thì chúng ta cần phải biết đến vấn đề một cách cụ thể, mà
qua đó chúng ta thấy có nhiều loại lo lắng và nguyên nhân khác
nhau như:
-
- Lo lắng vì lý do cơ thể, như có người bị mồ hôi ướt lòng bàn
tay mà đó là sự mất quân bình về mức độ sinh lực.
-
- Lo lắng giống như suy nhược, và đối với những loại này, cách
điều trị y tế có thể có ích cho loại này.
-
Để đương đầu với lo lắng một cách có hiệu quả, chúng ta cần xem
xét về các loại và nguyên nhân gây ra sự lo lắng.ÕĐồng thời cũng
lưu tâm đến các loại động cơ thích hợp đó là tự tin và thành
thật là những nguồn năng lượng chủ yếu để chế ngự những loại sợ
hãi và lo lắng, bằng cách là tự nhắc nhở mình lý do chính yếu,
mà qua đó chúng ta thấy rằng động cơ niềm tin và thành thật là
một loại thuốc giải để giảm bớt sợ hãi và lo lắng.
-
Ngoài ra còn có một động cơ tận tâm trong việc giúp người, và cố
làm hết sức của mình thì chúng ta không phải lo lắng gì nữa.
Bằng động cơ thành thực, động cơ từ bi, cho dù chúng ta có gây
lỗi lầm, hay thất bại thì cũng không có lý do gì để hối tiếc, vì
đã cố hết sức làm tốt phần của chúng ta rồi. Một khi đã cố gắng
hết sức rồi, và nếu có thất bại đó là vì tình thế vượt quá những
cố gắng hết sức của chúng ta. Vậy động cơ thúc đẩy thành thật sẽ
loại bỏ sự sợ hãi và cho chúng ta lòng tự tin. Mặt khác, nếu
động cơ thầm kín là để lường gạt người ta, khi thất bại, chúng
ta thực sự trở nên bối rối.
-
Thực ra tất cả hành động của con người có thể được nhìn thấy
bằng cung cách hoạt động, và nguyên nhân đằng sau tất cả những
hành động của chúng ta. Nếu chúng ta hành động với một động cơ
trong sáng và thành thật, được thúc đẩy bởi lòng mong muốn giúp
đỡ trên căn bản của lòng nhân ái, và từ bi thì chúng ta có thể
thi hành bất cứ công việc gì, trong bất cứ lãnh vực nào, và hoạt
động một cách hăng say mà không có sợ hãi và lo lắng. Không sợ
hãi gì về điều người ta nghĩ về chúng ta. Cho dù chúng ta không
đạt được mục tiêu, chúng ta vẫn cảm thấy hài lòng vì chúng ta đã
hết sức cố gắng. Nhưng bằng một động cơ xấu, người ta có thể
khen, hay có thể đạt được mục tiêu, nhưng chúng ta vẫn không cảm
thấy vui.
-
Có hai phương cách để trị liệu bệnh lo lắng:
-
a- Hãy luôn luôn nhắc nhở mình, nếu có cách giải quyết vấn đề
thì không cần phải lo. Nếu không có cách giải quyết, thì cũng
không có lý do gì phải lo.
-
b- Tìm những liên quan đến việc biến đổi động cơ tiềm ẩn của
chúng ta.
-
Có một sự trái ngược đáng lưu ý giữa cách giải quyết về động cơ
thúc đẩy con người của những người học Phật, với tâm lý học Tây
Phương. Theo các nhà nghiên cứu đã điều tra về những động cơ
bình thường của con người, nhìn vào cả hai nhu cầu bẩm sinh và
nhu cầu do biết được. Ở mức độ này, chư tôn đức nhắm vào sự phát
triển và sử dụng lòng ham học để nâng cao nhiệt tình và quyết
tâm của chúng ta. Trong một số khía cạnh, nó giống như quan điểm
của nhiều chuyên gia truyền thống Tây Phương, là tìm cách đẩy
mạnh tinh thần hăng hái và quyết tâm để đạt mục đích. Nhưng điều
khác biệt là đạo giải thoát tìm cách xây dựng quyết tâm và niềm
say mê làm những hành động thiện, và loại bỏ tinh thần tiêu cực
để đạt được những thành công vật chất, tiền bạc hay quyền thế.
Và có lẽ sự khác biệt nổi bật nhất là trong khi những lý thuyết
gia Tây Phượng chú trọng những động cơ về những thành công vật
chất, và những phân loại tiêu chuẩn của con người, thì mối quan
tâm hàng đầu về con người của đạo giải thoát lại nằm trong việc
chuyển hóa và thay đổi những tiềm ẩn của khía cạnh từ bi và nhân
ái.
-
Trong phương cách huân luyện tâm để tạo tác hạnh phúc của Đạo
Phật được thúc đẩy bởi lòng vị tha, cho nên không sợ những hoàn
cảnh lo âu dằn vặt. Ngoài ra chúng ta cũng có thể áp dụng nguyên
tắc tuy là không hoàn toàn do lòng vị tha, nhưng chỉ cần chắc
chắn là chúng ta không có ý hại người và thành thực thì cũng có
thể giúp giảm thiểu lo âu trong hoàn cảnh bình thường của cuộc
sống hàng ngày.
-
Quả thật như vậy, xin chia xẻ với đại chúng câu chuyện:
-
Có lần chúng tôi ăn trưa cùng với một nhóm thanh niên trẻ mà tôi
chưa gặp trước đây. Trong bữa ăn này, có một sinh viên hỏi chúng
tôi về việc khắc phục lo lắng. Sau khi im lặng nghe tôi miêu tả
khái niệm về:
-
- Động cơ niềm tự tin và thành thực là thuốc giải cho bệnh lo
lắng.
-
Người sinh viên cho biết là anh thường khổ tâm vì tính nhút nhát
và rất lo lắng trong việc giao tiếp ngoài xã hội. Khi nghe nói
về cách áp dụng kỹ thuật niềm tự tin và thành thật để vượt qua
sự lo lắng thì người học sinh này thì thầm:
-
- Tốt, điều đó rất hay.
-
Tuần lễ sau đó chúng tôi tình cờ lại gặp người sinh viên này
cũng tại quán ăn này.ÕĐến bên cạnh tôi với cung cách niềm nở,
anh ta nói:
-
- Ông Thầy còn nhớ bữa trước chúng ta có nói về động cơ thúc đẩy
và lo lắng?
-
Thầy biết không, sau khi được Thầy hướng dẫn, tôi có đem thực
hành và nó thực sự hữu hiệu! Nguyên do là có một thiếu nữ làm
việc trong tiệm bán đồ, tại khu bán hàng tôi đã gặp cô rất nhiều
lần, lúc nào tôi cũng định mời cô đi chơi, nhưng vì quá e thẹn
và lo lắng sợ cô từ chối, cho nên không bao giờ dám hỏi cô. Vậy
mà hôm nọ, tôi đến gặp cô, nhưng lần này tôi đã mời cô đi chơi.
Đương nhiên động cơ thúc đẩy là muốn hẹn hò với cô. Nhưng nguyên
do đó chính là lòng mong ước có thể tìm thấy một người mà tôi
yêu và người ấy cũng yêu tôi. Khi tôi nghĩ như vậy, tôi nhận
thấy không có gì sai trái trong việc này, và động cơ thúc đẩy
của tôi thành thực. Tôi không muốn làm hại cô hay chính tôi, mà
chỉ mong những điều tất cả đều tốt lành. Ghi nhớ điều này trong
tâm và tự nhắc nhở một đôi lần, nó có vẻ có ích khiến cho tôi đã
có can đảm bắt chuyện với cô. Tim tôi đập mạnh, nhưng tôi cảm
thấy tuyệt vời vì đã có thể can đảm để nói chuyện với cô ấy.
-
Anh ta nói tiếp:
-
- Sau khi nói chuyện và biết được cô ấy đã có bạn trai rồi. Tôi
hơi thất vọng một chút nhưng không sao. Tôi cảm thấy vui vì đã
có thể vượt qua được sự rụt rè e thẹn của tôi. Và việc này làm
cho tôi hiểu chắc chắn không có gì sai trái trong động cơ thức
đẩy của tôi, và ghi nhớ điều này trong tâm, nó sẽ giúp tôi lần
sau ở trong hoàn cảnh khác tương tự như vậy.
-
Như vậy ý thức lành mạnh của tự tin là một yếu tố chủ chốt trong
việc đạt mục tiêu của chúng ta. Điều này rất đúng, dù mục tiêu
của chúng ta là đạt được bằng cấp đại học, thành công trong công
việc làm ăn, hay rèn luyện tâm trí để được hạnh phúc hơn. Nhưng
khi đã thiếu tự tin thì nó sẽ cản trở những cố gắng tiến tới,
đối đầu với thử thách và cả đến phải chấp nhận may rủi khi cần
thiết để theo đuổi mục tiêu của chúng ta. Nhưng quá tự tin cũng
có thể gặp nguy hiểm. Những người khổ vì có ý nghĩ thổi phồng
tháiÕquá về khả năng, và thành quả của mình luôn luôn bị ngã
lòng, thất vọng, và nóng giận khi đụng chạm với thực tế của cuộc
đời, trong khi thiên hạ không chấp nhận giá trị của cách nhìn lý
tưởng hóa của chúng ta. Và chúng ta lúc nào cũng gần như sắp bị
đắm chìm trong suy nhược khi không thể sống theo hình ảnh lý
tưởng của mình. Thêm vào đó, tính phô trương của những cá nhân
chúng ta thường dẫn đến cảm giác có quyền hành, tựa hồ như hách
dịch, khiến cho chúng ta có sự cách biệt với những người khác và
cản trở chúng ta trong những mối quan hệ thoải mái về tình cảm.
-
Trong truyền thống tâm lý trị liệu ở Phương Tây, các nhà lý luận
đã gắn cả tự ti và tự tôn với những xáo trộn trong hình ảnh bản
thân của con người, và tìm nguyên nhân của những xáo trộn này
qua cách nuôi dưỡng đứa trẻ lúc còn bé. Nhiều nhà lý luận coi sự
tự ti và tự tôn như hai mặt của một đồng tiền, quan niệm việc
thổi phồng hình ảnh bản thân là sự phòng thủ vô thức chống lại
cái bất an nằm ở dưới những cảm nghĩ tiêu cực về mình. Những bác
sĩ chuyên khoa phân tích tâm lý, đã đặc biệt trình bày những lý
thuyết phức tạp về sự nhận định sai lạc bản thân mình xẩy ra như
thế nào. Họ cũng mô tả sự phát triển khái niệm chính mình là ai,
bằng cách kết hợp những thông tin rõ rệt, hay ngấm ngầm về chúng
ta từ cha mẹ, và làm thế nào mà những sự xáo trộn có thể xẩy ra
khi những tương tác lúc nhỏ với những người chăm sóc không được
lành mạnh và không biết cách nuôi nấng.
-
Khi những xáo trộn về bản thân đủ để gây ra những vấn đề khó
khăn thật sự trong đời sống, nhiều người quay về với tâm lý trị
liệu. Những bác sĩ tâm lý đóng vai trò giúp bệnh nhân hiểu biết
về những bất thường, về sự quan hệ lúc thơ ấu là nguyên nhân của
vấn đề, và cung cấp cho họ cách phản ứng thích hợp trong môi
trường điều trị, đồng thời có thể giúp bệnh nhân từ từ khôi phục
lại, và tự điều chỉnh những tiêu cực của mình.
-
Trong những thập niên gần đây, tính chất của cái tôi đã là một
trong những đề tài được nghiên cứu nhiều nhất trong lãnh vực tâm
lý học. Trong những năm 80, có hàng ngàn bài viết mỗi năm khám
phá những vấn đề về tự ti và tự tôn.
-
Trong khoa tâm lý Tây Phương và văn hóa nói chung, dường như
không được chú ý tới để phát triển những đức tính như mức tự
trọng và tự tin cao. Tuy nhiên với quan niệm về đạo giải thoát,
chẳng hạn như những bậc chân tu là những người đã phát nguyện,
hay quyết tâm loại bỏ tất cả những trạng thái tiêu cực của tâm,
với nguyện vọng duy nhất là mang lại hạnh phúc tối thượng cho
tất cả chúng sinh. Họ có tầm nhìn xa và khát vọng. Điều này cần
phải có ý thức cảm giác tự tin to lớn, và sự tự tin này rất quan
trọng, vì nó cho sự gan dạ giúp chúng ta đạt được mục tiêu vĩ
đại. Về một ý nghĩa nào đó, điều này dường như có vẻ là kiêu
ngạo, mặc dù không phải trong phương cách tiêu cực. Có thể nói
cái vẻ kiêu ngạo bề ngoài chính ra tựa như là loại tự tin và
lòng can đảm đó là nói về những ai có định hướng rõ ràng. Nhưng
đối với những người bình thường, trong cuộc sống hằng ngày, một
số người có vẻ như rất tự tin và tự trọng, nhưng thật ra họ chỉ
là những người rất kiêu ngạo. Theo Phật Giáo, kiêu ngạo được xếp
loại là một trong những xúc cảm cơ bản gây ra đau khổ. Có nhiều
loại kiêu ngạo khác nhau, vậy việc tránh hay khắc phục kiêu ngạo
được coi là rất quan trọng. Đôi khi dường như giữa chúng chỉ có
một ranh giới rất nhỏ, và đôi khi thật là khó phân biệt giữa tự
tin và kiêu ngạo. Có lẽ chỉ có một cách duy nhất là chính mình
có thể ý thức về bản thân của chính mình và ý thức cái ta được
thổi phồng hoàn toàn vô căn cứ, thì đó lại là kiêu ngạo. Tuy
nhiên một người kiêu ngạo cảm thấy mình luôn luôn đúng.
-
Muốn phân biệt tính tự cao tự đại, và lòng tự tin đứng đắn,
chúng ta có thể nghĩ đến hậu quả về thái độ của người đó. Tự phụ
và kiêu ngạo thường dẫn đến những hậu quả tiêu cực, trong khi
lòng tự tin lành mạnh đem đến những hậu quả tích cực hơn nhiều.
Do đó khi đề cập về tự tin, chúng ta cần nhìn xem có tiềm ẩn cái
tôi không. Chúng ta có thể chia thành hai loại.
-
- Ý thức về bản thân, hay cái tôi chỉ quan tâm đến việc đáp ứng
quyền lợi bản thân, sự ham muốn ích kỷ của chính mình, và hoàn
toàn không đếm xỉa đến phúc lợi của người khác.
-
- Một kiểu cái tôi khác, hay ý thức về bản thân dựa vào mối quan
tâm chân thành vì chúng sanh nhân lọai mà khao khát được đóng
góp khả năng của chính mình.
-
Để thực hiện ước muốn giúp ích, chúng ta cần có ý thức mạnh về
bản thân, ý thức tự tin. Loại tự tin này dẫn đến những kết quả
tích cực. Khi mà chúng ta càng thành thật, càng cởi mở thì chúng
ta càng ít sợ, vì không có lo lắng gì khi phơi bày hay bộc lộ
với người khác. Do đó mà chúng ta càng thành thật thì lại càng
nhiều tự tin.ÕChúng ta nên nhớ rằng, khi thiếu lòng tin hay có
lòng tin liên quan đến một hành động đặc biệt nào đó, hay có thể
là bất cứ cái gì, tất cả chỉ dẫn đến thất bại.. Như nói rằng
chúng ta có lòng tin trong việc gì đó, có nghĩa là chúng ta tin
chỉ mình ta có thể làm được, nghĩa là trong phạm vi của chúng
ta. Ngược lại, tuy nằm trong khả năng của chúng ta, chúng ta lại
không thể làm, lúc đó chúng ta bắt đầu cảm thấy:
-
- Ồ, có lẽ tôi không đủ sức hay tài giỏi để làm việc đó.
-
Tuy nhiên với tôi, tôi không làm được phép lạ, điều đó không dẫn
đến mất lòng tin vì ngay từ đầu, tôi không bao giờ tin rằng tôi
có khả năng này. Tôi không cho rằng tự mình có thể hoàn thành
những nhiệm vụ như những Đức Phật đã làm, và tôi có thể biết mọi
thứ, có thể làm đúng bất cứ điều gì và bất cứ lúc nào. Nói
chung, thành thật với mình và người về những điều mình có thể
làm hay không thể làm được, có thể chống lại cảm nghĩ thiếu lòng
tin.
-
Không sợ hãi và đánh giá mình một cách thành thật, có thể là một
vũ khí mạnh mẽ chống lại sự ngờ vực và thiếu tự tin. Loại thành
thật này có thể làm thuốc giải độc cho những tâm trạng tiêu cực
đã được xác nhận bởi một số những nghiên cứu gần đây. Những nhà
nghiên cứu nầy cho chúng ta thấy rõ ràng, những người có quan
điểm thực tế và đứng đắn về mình, thường có khuynh hướng cầu
tiến và có lòng tin hơn những người ít tự biết về mình, hoặc
biết không đúng về mình cho nên họ không có những trạng thái lo
âu.
-
Vì lo âu quá đáng cho nên đã có nhiều người mất hẳn sự tin tưởng
nơi mình, cho nên đâm ra coi thường bản thân của mình. Để mở
rộng loại quan niệm tiêu cực về bản thân chính mình, nhà tâm lý
học Carl Rogers, đã từng nói:
-
- Hầu hết con người đều coi thường bản thân mình, cho mình là
không giá trị và không đáng yêu thương.
-
Đây là quan niệm rất là tiêu cực, nhưng may mắn là nó không phổ
biến như nhiều người tin tưởng. Chắc chắn nó là vấn đề chung
trong số những người cần được chữa trị, nhưng đôi khi các bác sĩ
tâm lý ở phòng khám cũng có cái nhìn lệch lạc, có khuynh hướng
dựa trên nhận xét tổng quát về bản chất con người, và chỉ áp
dụng cho một số ít người bước vào văn phòng của họ. Chúng ta
phải biết, hầu hết các dữ kiện đều dựa trên thí nghiệm, đã xác
minh được sự việc có thật, là con người ai cũng có khuynh hướng,
hay ít ra cũng muốn nhìn mình trong ánh sáng đẹp đẽ, tự đánh giá
mình trên trung bình trong hầu hết các cuộc thăm dò ý kiến về
mặt chủ quan, và đáng có mặt trong xã hội.
-
Như vậy, mặc dầu quan niệm coi thường bản thân không phổ biến
rộng rãi, nhưng nó vẫn là một chướng ngại lớn cho nhiều người.
Dựa trên tinh thần người học đạo giải thoát, chúng ta cần lưu ý
đến hai điểm:
-
- Điểm thứ nhất thật đơn giản là chúng ta không nên coi thường
bản thân. Nếu có thì chúng ta phải biết rằng đó là tình trạng
rối loạn tinh thần, giống như tất cả những tình trạng tinh thần
tiêu cực khác, nó không phải là phần nội tại trong tâm trí con
người. Nó không phải là điều chúng ta có từ lúc sinh ra, không
phải là điều mà chúng ta được người khác cho, cũng không phải là
đặc điểm không thể tẩy xóa được khỏi bản tính của chúng ta.
Chúng ta có thể loại bỏ nó được. Chỉ nhận thức này thôi có thể
làm yếu đi sức mạnh của nó, cho chúng ta hy vọng, và gia tăng
quyết tâm loại trừ nó.
-
- Điểm thứ hai liên quan đến phản ứng đầu tiên của một số chư
tôn đức: Dĩ nhiên chúng ta yêu bản thân mình.
-
Đối với một số người khổ sở vì coi thường bản thân chính mình,
hay biết ai đó cũng có những suy nghĩ giống như vậy. Phải loại
bỏ ý nghĩ nầy và phải khuyên nhắc không nên coi thường bản thân
mà phải yêu mến bản thân. Thoạt đầu nghe có vẻ ngây thơ, nhưng
khi xét kỹ, chúng ta thấy có một sự thật sâu sắc trong vấn đề
nầy.
-
Như nói là phải yêu bản thân chúng ta, thật sự tình thương yêu
rất khó định nghĩa, và có thể có nhiều định nghĩa khác nhau.
Nhưng có một định nghĩa tương đối được, có lẽ đó là loại tình
yêu trong sáng được tán dương nhiều nhất, đó là ước mong dứt
khoát, tuyệt đối và hoàn toàn vì hạnh phúc của một người khác.
Đó là sự mong muốn chân thành vì người khác được hạnh phúc, dù
rằng có làm thương tổn, hay dù chúng ta có thích người đó hay
không thích. Từ tận đáy lòng, chắc chắn là mọi người chúng ta
đều mong được hạnh phúc. Vậy nếu định nghĩa về tình thương yêu
dựa trên sự mong ước chân chính vì hạnh phúc cho người, thì đúng
là mỗi chúng ta đều mong ước yêu thương cho chính mình.
-
Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta cũng sẽ gặp những trường hợp
có người coi thường bản thân một cách cực đoan, đến nỗi họ tái
diễn có ý định tự tử. Nhưng ngay cả trong trường hợp cực đoan
nhất, ý tưởng quyên sinh chủ yếu là dựa trên mong ước cá nhân,
đó là ý nghĩ méo mó hay lầm lạc để muốn giải thoát mình khỏi đau
khổ, chứ không phải gây ra đau khổ.
-
Một khi đã có hướng đi tới cái đích trong niềm tin, thì trong
tất cả mọi người chúng ta ai cũng đều có tiềm ẩn lòng thương yêu
chính mình, và điều này gợi ý một loại thuốc giải cực mạnh cho
những ai coi thường bản thân:
-
- Chúng ta có thể chống lại tư tưởng khinh miệt bản thân bằng
cách nhắc nhở mình, dù chúng ta không thích một số tính nết của
mình nhiều đến thế nào đi nữa, thì trong chiều sâu thẳm đó, tất
cả mọi người chúng ta đều mong mình được hạnh phúc, và đó là
loại tình yêu sâu sắc.
-
Theo quan điểm Phật Giáo, ở trong tình trạng thất vọng, một tình
trạng chán nản được coi là cực đoan rõ ràng, là một chướng ngại
để thực hiện những bước đi cần thiết, nhằm hoàn tất mục tiêu an
lạc trong đời sống. Trạng thái coi thường bản thân và chán nản
phải nói là vô cùng nguy hiểm. Do vậy, với những ai tu tập theo
giáo lý giải thoát, thuốc giải độc cho việc coi thường bản thân
bằng những suy nghĩ:
-
- Tất cả chúng sinh kể cả chính mình, đều có hạt giống Phật
tính, hay tiềm năng vươn tới sự viên mãn, sự giác ngộ hoàn toàn
cho dù hoàn cảnh hiện tại có lo âu sợ hãi, thiếu niềm tin, yếu
kém, nghèo nàn hay thiếu thốn.
-
Nói như vậy, những ai đang đau khổ vì coi thường bản thân hay
ghê tởm bản thân, thì phải nên tránh suy ngẫm về bản chất đau
khổ của cuộc sống, hay bản chất không toại nguyện tiềm ẩn trong
cuộc sống. Thay vì làm như vậy, chúng ta nên tập trung nhiều hơn
nữa vào những khía cạnh tích cực của cuộc sống, như hiểu rõ về
tiềm năng tự tin và thành thật to lớn nằm trong bản thân của mỗi
con người chúng ta. Và bằng cách suy nghĩ về những cơ hội và
tiềm năng này, chúng ta có thể gia tăng cảm giác giá trị và lòng
tự tin vào chính mình.
-
Có tính cách bàn bạc hơn, thuốc giải độc cho những người chưa
bao giờ biết đến khái niệm Phật Tính, hay một người không phải
là Phật Tử đó là chúng ta phải suy nghĩ:
-
- Chúng ta có phước được làm người với trí thông minh tuyệt vời,
đồng thời chúng ta là người có khả năng quyết tâm và hướng ý
thức quyết tâm vào bất cứ chiều hướng nào chúng ta muốn.
-
Lẽ tất nhiên sự suy nghĩ nầy không có gì ngờ vực về điều đó cả.
Cho nên chúng ta phải giữ cho được ý thức về những tiềm năng
này, và luôn luôn nhắc nhở chính mình, cho đến khi ý thức này
trở thành một phần trong thói quen nhận thức về chúng sinh gồm
cả chính mình, thì điều này sẽ giúp chúng ta giảm thiểu cảm nghĩ
chán nản, bất lực và tự khinh miệt mình. Điều nầy cũng giống với
cách trị bệnh. Khi bác sĩ điều trị bệnh cho bệnh nhân, không
những họ cho bệnh nhân uống thuốc kháng sinh trong những trường
hợp đặc biệt, mà họ còn phải chắc chắn rằng với tình trạng sức
khỏe của bệnh nhân như vậy, có thể uống được thuốc kháng sinh và
chịu đựng được thuốc này. Vậy muốn bảo đảm như vậy, bác sĩ phải
chắc chắn rằng bệnh nhân đủ dinh dưỡng, và nếu cần đôi khi còn
cho uống thêm sinh tố hay thuốc bồi dưỡng cơ thể. Nếu bệnh nhân
có sức khỏe tiềm ẩn trong thân, thì có tiềm năng hay khả năng
trong thân thể có thể kết hợp với thuốc men để hồi phục hồi sức
khỏe. Tương tự như vậy, nếu chúng ta biết và duy trì ý thức
chúng ta có món quà tuyệt vời là lòng tự tin, trí thông minh và
khả năng phát triển, thì chúng ta phải quyết tâm và sử dụng
chúng một cách tích cực. Sức mạnh tiềm ẩn đến từ sự nhận thức,
là chúng ta ai cũng có tiềm năng niềm tin, trí thông minh, và
khả năng phát triển vĩ đại trong con người chúng ta. Sự nhận
thức này nó có thể thực hiện vai trò đối trị với bất cứ khó khăn
nào, dù tình trạng phải đương đầu ra sao, nhưng vẫn không mất hy
vọng hay chìm đắm trong sự coi thường bản thân.
-
Nói tóm lại, cách cho nhau niềm tin là chúng ta phải luôn tự
nhắc nhở mình về những phẩm tính cao quý mà chúng ta có, và
không lo âu, không sợ hãi. Là người phật tử, chúng ta phải tu
tập một cách tích cực, chăm chỉ cố gắng khắc phục thái độ, tư
tưởng và động cơ ích kỷ của mình là mục tiêu cần phải đạt tới.
Từ quan điểm này, chúng ta cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa để đạt
thành những nguyện vọng chính đáng cho chính mình, và có thể
cũng chia sẻ với tất cả chúng sinh để cho họ có những tư lương
tốt lành, đồng thời làm mất tác dụng của cách suy nghĩ cho rằng
mình xấu hay không xứng đáng. Nhiều người phật tử thực hành điều
này trong việc hành thiền thường nhật, cho nên họ sống can
trường giữa cảnh đời đầy dẫy chông gai cát bụi. Có lẽ đó là lý
do tại sao ý nghĩ coi thường bản thân không bao giờ có trong nền
văn hóa Phật Giáo.
--o0o--
|
|