TẬP SAN DƯỢC SƯ

Chuyển Hóa Tư Tưởng
Nguyên Hải
--o0o--
 
Từ ngữ chuyển hóa có nghĩa là thay đổi, một sự thay đổi hài hòa và làm cho đẹp thêm. Sự thay đổi nầy không phải loại bỏ cái cũ để chấp nhận cái mới mà là có khuynh hướng ôm quyện, biến chế từ cái cũ thoát thai để hình thành một cái mới, nhưng vẫn có sự tương quan tương duyên với cái cũ.
Nói về tư tưởng lẽ tất nhiên phải nói đến hai khía cạnh: Tư tưởng lành mạnh và tư tưởng xấu ác.
Như chúng ta đã biết, cuộc chiến tranh ý thức hệ ngày nay càng lúc càng gia tăng một cách khốc liệt, điều đó cũng đủ chứng minh rằng nhân loại đang tiến đần đến chỗ tự tiêu diệt do chính tư tưởng xấu ác của con người. Như vậy muốn đem lại cho chính mình và nhân loại một cuộc sống mới có ý nghĩa, chỉ có một con đường duy nhất là chính chúng ta phải biết chuyển hóa tư tưởng của chính mình. Vì thế Đạo Phật chủ trương chuyển hoá tư tưởng, hoặc giải phóng những tư tưởng xấu ác để có được những tư tưởng lành mạnh tức là chúng ta được giải thoát.
Phương cách chuyển hóa hoặc giải phóng tư tưởng xấu ác là suy nghĩ chơn chánh, hay còn gọi là Chánh Tư Duy.
Chánh Tư Duy là một chi pháp trong Tám Chánh Đạo. Trong Ba Huệ Học, sự Suy Tư là một pháp rèn luyện trí huệ, nhưng suy tư đó phải là một thứ suy nghĩ chơn chánh. Có suy nghĩ chân chánh thì cái thấy mới chơn chánh, cái thấy chân chánh thì hành động và lời nói mới chân chánh. Như thế chúng ta thấy rằng, Sự Suy Tư Chân Chánh đóng một vai trò quan trọng trong việc tu tập để chóng đạt tới đích giải thoát giác ngộ. Tư tưởng xấu ác thì có rất nhiều nhưng ở đây xin được gợi nhắc ba thứ vọng tưởng hay ba loại tà tư duy:
1- Tư Tưởng Tham Cầu(Dục Tưởng)
Là loại tư tưởng luôn luôn suy nghĩ đến dục lạc, nói một cách khác là tư tưởng bám víu trong tài, sắc, lợi, danh hay trong ngũ trần: Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc.
2- Tư Tưởng Sân Si(Sân Tưởng)
Là nuôi tâm niệm bất bình giận hờn ganh ghét về những đối tượng không vừa lòng hợp ý.
3- Tư Tưởng Hảm Hại(Hại Tưởng)
Suy nghĩ những phương kế hãm hại kẻ thù nghịch với mình, nhất là tiêu diệt đối thủ.
Ðược coi là tư tưởng chân chánh là những tư tưởng lành mạnh dùng để đối trị những tư tưởng xấu ác.
1- Tư Tưởng Xa Lìa Dục Lạc(Ly Dục Tưởng)
Ðể đối trị với tư tưởng tham đắm Dục Lạc, một người có tư tưởng lành mạnh, luôn luôn suy nghĩ đến tính cách vô thường, tạm bợ của các pháp. Đức Phật đã ví sự thành tựu và tan rả của năm trần hay nói chung là pháp hữu vi như trong Kinh Kim Cang đã dạy:
- Nhất thiết hữu vi pháp,
Như mộng, huyễn, bào, ảnh,
Như lộ diệc như điện
Ưng tác như thị quán.
Nghĩa là:
- Tất cả các pháp hữu vi
Như giấc mộng,
Như trí huyễn hóa,
Như bọt nước,
Như ảo ảnh,
Như sương mai,
Như ánh chớp trên không trung
Là người học Phật, chúng ta suy nghĩ như thế là để thoát dần ra khỏi trói buộc của đam mê năm trần. Một khi thoát ra khỏi năm trần, đời sống của chúng ta chắc hẳn sẽ tự tại, hạnh phúc hơn khi không còn bị dục lạc chi phối. Cho nên Ðức Phật thường khuyến khích chúng ta:
- Muốn có được những hạnh phúc cao thượng thì hãy lánh xa những lạc thú đê hèn.
Hoặc là:
- Bỏ tất cả, để được tất cả.
Bỏ tất cả, tức là vứt bỏ hết những sự đam mê trần cảnh. Ðể được tất cả tức là khi chúng ta không còn trần duyên chi phối lúc đó thân tâm an nhàn thư thái, thân tâm có an nhàn thư thái thì chúng ta mới có thể phục vụ, dìu dắt chúng sanh cùng đi trên đường vui như chúng ta đã và đang đi. Sư từ bỏ của đức Phật, là một sự từ bỏ cao thượng
2- Tư Tưởng Xa Lìa Sân Hận(Ly Sân Tưởng)
Là không nuôi trong lòng những tư tưởng sân hận. Trong Kinh Pháp Cú Đức Phật có dạy:
- Người kia nhục mạ ta, đánh đập ta,
Chiến thắng ta và cướp đoạt của ta.
Người nào hằng ôm ấp những tâm niệm như thế
Thì oán hận không bao giờ nguôi ...
Nhưng kẻ nào xả ly được những tâm niệm ấy thì oán hận ắt phải tiêu tan.
Một đoạn kinh khác dạy:
- Phải dứt bỏ sân hận, phải tránh xa ngã mạn và đoạn lìa mọi ràng buộc thì phiền não không thể chi phối được.
Thật vậy người ôm ấp tư tưởng sân hận tự đốt cháy lấy mình bằng chính tư tưởng sân hận đó trước khi gia hại được kẻ khác.
Muốn chuyển hóa tư tưởng ra khỏi sân hận, trước hết phải diệt trừ tâm niệm đó bằng cách rèn luyện Đức tính Từ Bi Hỷ Xả. Vì chỉ có lòng Từ Bi mới diệt được hận thù. Trái lại hận thù chỉ làm cho hận thù thêm chồng chất.
Trong 40 đề mục thiền định, đề mục đối trị tâm niệm sân hận là Từ Bi Quán. Từ Bi Quán là rải tâm từ bi đến tất cả chúng sanh không phân biệt thân hay thù, người hay vật. Như vậy người hành Từ Bi Quán phải luôn luôn giữ tâm cởi mở, trong lành và mát dịu như nước cam lồ, phải hằng niệm tưởng như vầy:
- Nguyện cho tất cả chúng sanh đừng có oan trái lẫn nhau, hãy đến với nhau bằng tình thân thiện, và hãy cho nhau bằng niềm an vui và hạnh phúc.
Ðó cũng chính là lý do, mỗi khi chúng ta làm bất cứ việc gì, từ việc nhỏ cho đến việc lớn, chúng ta cũng đều phải hồi hướng:
- Nguyện đem công đức nầy
Hướng về khắp tất cả
Ðệ tử và chúng sanh
Ðều trọn thành Phật Ðạo.
Chúng ta có thể niệm tưởng như thế bất cứ lúc nào chứ không cần phải ngồi kiết già hàng giờ như khi thực hành các đề mục thiền định khác. Như vậy hồi hướng công đức sau mỗi lúc chúng ta làm được một điều phước thiện, cũng là một hình thức khác của Từ Bi Quán. Nhờ niệm tâm từ mà dần dần chúng ta dẹp bỏ được lòng oán hận, ganh tị, bỏn sẻn, vị kỷ và phát huy tâm bác ái, hoan hỷ, quảng đại, vị tha.
Một bậc chỉ có thể gọi là Bồ Tát khi đã phát tâm cứu độ chúng sanh, nghĩa là phải có tâm từ bi rộng lớn, chứ không thể tự xem mình là Bồ Tát khi tâm còn ôm ấp hận thù oan trái.
3- Tư Tưởng Xa Lìa Sự Hảm Hại(Ly Hại Tưởng)
Là dẹp bỏ những ý nghĩ hãm hại người khác. Con người vì quá coi trọng bản thân của mình nên sẵn sàng hãm hại, tiêu diệt bất cứ những ai đụng đến quyền lợi, danh dự của mình. Là người học Phật, chúng ta nên ý thức:
- Nếu mình biết tự ái, biết tự bảo vệ hạnh phúc và sự sống còn của mình, thì chúng ta cũng phải biết tôn trọng hạnh phúc và sự an nguy của kẻ khác.
Trong văn học Trung Hoa Đức Khổng Tử cũng đã từng dạy:
- Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân.
Nghĩa là:
- Cái gì chúng ta không muốn thì đừng làm cho người.
Vậy chúng ta không muốn đau khổ thì chúng ta cũng đừng nên tìm hạnh phúc trên sự đau khổ của kẻ khác, mà chúng ta phải tìm hạnh phúc cho chúng ta bằng cách đem an vui đến cho người khác. Do vậy là người Phật tử nên ghi nhớ lời dạy sau đây của Đức Từ phụ:
- Ai ai cũng sợ gươm đao,
Ai ai cũng đều sợ chết.
Lấy bụng ta suy bụng người,
Không nên giết hại,
Cũng không nên bảo ai giết hại
Mà phải thực hành tâm hỷ xả, bao dung
Ðể diệt trừ tâm niệm hãm hại kẻ khác.
Vừa rồi qúy vị đã nghe qua ba phương pháp suy tư lành mạnh để đối trị với ba tư tưởng xấu ác. Ðể có thêm tư liệu trong việc thực tập giáo pháp giải thoát, trong kinh Đức Phật lại dạy thêm 10 phương cách suy tư khác để chuyển hóa mười loại suy tư không lành mạnh. Pháp Tư Duy nầy gọi là Thập Tưởng.
1- Tư Tưởng Vô Thường(Vô Thường Tưởng)
Suy tưởng đến nguyên lý thứ nhất của vạn hữu là Vô Thường. Nhìn sự sinh diệt của hiện tượng ngoại giới cũng như chính nội tâm, ta biết rằng:
- Các Pháp do nhân duyên hợp khởi đều phải bị định luật vô thường làm biến đổi chi phối.
Có suy nghĩ như thế thì chúng ta mới chuyển hoá tư tưởng ra khỏi các vọng tưởng, chấp tướng.
2- Tư Tưởng Khổ Ðau(Khổ Tưởng)
Là suy nghĩ đến tính cách khổ não của đời sống trong hiện tượng giới. Chữ khổ ở đây không hoàn toàn ám chỉ thân khổ hay tâm khổ như:
- Sinh, già, đau, chết, phiền muộn, uất ức ...
Mà còn bao hàm tính cách bất lợi, phiền toái của pháp hữu vi. Ðể cho vấn đề sáng tỏ chúng tôi xin mượn lời dạy của Đức Lão Tử:
- Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả,
Vị ngô hữu thân
Cập ngô vô thân
Ngô hữu hà hoạn.
Nghĩa là:
- Tôi sở dĩ mà có cái khổ
Là vì tôi có thân
Nếu như không có thân
Thì làm sao có khổ.
Cái thân mà Đức Lão Tử nói đây thuộc về pháp hữu vi, nghĩa là do nhân duyên sinh khởi và cái đại hoạn đó chính là chữ Khổ trong Đạo Phật. Pháp hữu vi khiến ta vướng mắc không được tự tại nên là đại hoạn, là khổ vậy.
3- Tư Tưởng Vô Ngã(Vô Ngã Tưởng)
Là suy nghĩ đến bản chất không thật có của các pháp. Các hiện tượng luôn luôn biến đổi nên không có thực thể, kể cả thân con người cũng được xem như là một hiện tượng tâm vật lý, bao gồm danh hay tâm giới và sắc hay vật thể giới. Một cách vắn tắt, con người được cấu tạo bởi bảy đại và một sự kết hợp hài hòa với năm uẩn ...  Vậy toàn bộ cái mà người người ai cũng gọi là Ta cũng không có thực thể, nghĩa là vô ngã. Không phải riêng hiện tượng tâm vật lý mới là vô ngã, mà tất cả các pháp đều không có thực thể. Nhờ suy tưởng như thế mà dần dần chúng ta thoát ra khỏi chấp ngã và ngã sở để đi đến chỗ tự tại vô ngại.
4- Tư Tưởng Xa Lìa Ăn Uống(Yếm Ly Thực Tưởng)
Là tư tưởng không vướng bận trong việc tham đắm ăn mặc trong cuộc sống hằng ngày. Tục ngữ có câu:
- Ăn để sống chứ không phải sống để ăn.
Vì vậy Đức Phật dạy các vị Tỳ Kheo phải tiết độ trong việc ẩm thực, và quán tưởng vật thực chỉ là tứ đại. Chúng ta phải dùng chánh tư duy để duy trì sức khoẻ trong việc tu hành theo đạo cao thượng. Quán tưởng như vậy là để chúng ta không còn bị nô lệ vào vật chất một cách quá đáng. Mới xem ra tư tưởng xa lìa ăn uống có vẻ tầm thường, nhưng trong lịch sử đã chứng minh nhiều cuộc chiến tranh đẫm máu từ cổ chí kim, gây ra bởi tranh giành ảnh hưởng kinh tế, tất cả đều vì miếng cơm manh áo mà ra.
Như thế chúng ta phải nên xem ăn uống chỉ là phương tiện, chứ đừng đặt nó làm mục đích của cuộc sống, vì cứu cánh của đời sống phải là một cái gì đó cao thượng hơn.
5- Tư Tưởng Tất Cả Thế Gian Không An Vui(Nhất Thiết Thế Gian Bất Khả Lạc Tưởng)
Đây chính là loại tư tưởng tự tại đối với tất cả các pháp của thế gian. Chữ Thế gian theo nghĩa tục đế là những gì phát xuất từ các căn bản của: Tham, Sân và Si. Nói một cách khác là kết quả của vô minh và ái dục. Đức Phật dạy rằng, chúng sanh luôn luôn bị chi phối bởi Tám Pháp Thế Gian là:
- Ðược lợi,
- Mất lợi,
- Ðược danh,
- Mất danh,
- Ðược khen,
- Bị chê,
- Ðược vui,
- Bị khổ.
Những ai biết chuyển hóa tư tưởng ra khỏi ba căn bất thiện, không vướng mắc trong các pháp của thế gian thì chắc chắn được tự do, giải thoát.
6- Tư Tưởng Chết(Tử Tưởng)
Là suy nghĩ đến cái chết trước sau gì cũng xảy ra, không phải chỉ riêng bản thân mình mà tất cả mọi người ai cũng phải có một lần như vậy. Có người mới nghe đến hai chữ Tử Tưởng đã vội cho rằng đạo Phật bi quan đến nỗi đang sống mà đã nghĩ đến cái chết, nhưng thật ra đó là một thái độ rất tích cực và can đảm. Can đảm vì dám đối diện với một sự thật phũ phàng, và tích cực vì không bó tay chịu chết mà đứng lên tranh đấu và sẵn sàng đối phó với tử thần. Như một nhà tư tưởng nói rằng:
- Nghệ thuật sống giống như lái xe chạy trên đường, chúng ta phải  luôn luôn sẵn sàng để đối phó với những sự kiện bất ngờ có thể xảy ra: Một là người ta đụng mình, hai là mình đụng người ta.
Hơn nữa Đức Phật dạy suy nghĩ đến cái chết là gián tiếp bảo chúng ta phải:
a- Chiến đấu từng giây từng phút, không để mất một giờ khắc nào trong sứ mạng tự giác, giác tha.
b- Chấp nhận cái chết như một sự kiện hiển nhiên, trong khi nỗ lực tu niệm như một chiến sĩ cảm tử ra mặt trận. Người lính cảm tử nầy đã chấp nhận trước cái chết của mình nên mới dám xông pha trong gươm giáo, súng đạn.
c- Thấy sống chết là sự thường để không còn bị chi phối bởi những thăng trầm của cuộc đời.
7- Tư Tưởng Nhiều Tội Lỗi(Đa Quá Tội Tưởng)
Vì sao Đức Phật dạy ta phải quán tưởng thân bất tịnh? Như chúng ta từng thấy, nhiều người vì quá trọng thân xác và bảo vệ nó với bất cứ giá nào. Đạo Phật gọi đó là thân kiến, thân kiến là một trong mười kiết sử mà một người muốn giải thoát phải cắt đứt. Nhưng đừng hiểu lầm rằng diệt thân kiến là tự hủy bỏ xác thân mình. Chính đức Phật dạy:
- Phải giữ gìn cho thân thể tráng kiện để dễ dàng tu niệm.
Và chúng ta phải biết rằng giữ gìn thân thể khoẻ mạnh là khác, còn quá quí trọng thân xác là chuyện khác. Một người khoẻ mạnh có thể hy sinh thân mình cho nghĩa cử vị tha cao đẹp, còn người quá quí trọng xác thân thì trái lại có thể hãm hại kẻ khác để mình được vinh thân phì gia.
8- Tư Tưởng Xa Lìa(Ly Tưởng)
Tư tưởng xa lìa mà chúng tôi muốn nói ở đây là xa lìa Ba Giới:
- Dục Giới,
- Sắc Giới và
- Vô Sắc Giới.
Một trong bốn điều làm cho chúng sanh chìm đắm trong vòng luân hồi là dục lậu, có nghĩa là mê chấp vào sự hiện hữu trong tam giới. Ngay cả bậc thiền cao nhất là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng xứ cũng còn gọi là hữu lậu. Bao lâu chưa diệt tận hữu lậu thì chưa thể giải thoát được. Lúc Bồ Tát Tất Đạt Đa vào rừng tìm đạo, Ngài được nhiều vị thiền sư Bà La Môn chỉ giáo, và chẳng bao lâu Ngài đắc được các bậc thiền. Đối với sự đắc đạo của những vị thiền sư Bà La Môn, họ tự cho là đã giải thoát, nhưng Bồ Tát Tất Đạt Đa tự thấy tư tưởng của mình vẫn còn lệ thuộc trong vòng tam giới, thế là Ngài quyết thoát ra khỏi những hữu lậu vi tế nhất còn tiềm tàng ngay trong các thiền tâm. Cuối cùng dưới cội cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Ngài đã toàn tất cuộc giải phóng tối hậu và đã được siêu xuất tam giới.
9- Tư Tưởng Tiêu Diệt(Diệt Tưởng)
Là hằng hoài bão tâm niệm tiêu diệt hết các phiền não. Phiền não có nhiều thứ, như 10 kiết sử, 14 tâm sở bất thiện, 11 thứ là phiền não; bốn hoặc lậu ... nhưng nói chung là tham, sân, si hay vô minh và ái dục. Chính phiền não là một cái lưới phong tỏa, hay lò thiêu đốt chúng sanh. Tư tưởng chỉ được chuyển hóa trở nên tốt đẹp hơn khi đã dẹp tan được những kềm chế của những phiền não.
10- Tư Tưởng Không Ái Nhiễm(Vô Ái Tưởng)
Cuối cùng là chuyển tư tưởng ra khỏi ái dục. Kinh Pháp Cú dạy rằng: 
- Ái dục sinh ra sầu muộn, ái dục sinh ra lo sợ. Người đã hoàn toàn dập tắt ái dục không còn sầu muộn, lo sợ nữa.
Thật vậy, tư tưởng của chúng ta còn bị ảnh hưởng ái dục thì chưa thể tự tại vô ngại được.
Nói tóm lại, chuyển hóa tư tưởng là một cuộc cách mạng khó khăn nhất trước sau gì cũng là cuộc cách mạng của tự bản thân, nghĩa là chúng ta biết chấp nhận những yếu kém của mình, và phải có tinh thần cầu tiến trong công cuộc chuyển hóa tư tưởng ra khỏi sự ràng buộc của ngoại giới, cũng như những ô nhiễm nội tâm. Vì vậy cho nên nó đòi hỏi chúng ta phải có nghị lực dồi dào, và sự phấn đấu liên tục để vượt qua những thử thách cam go của các giai đoạn huấn luyện, và những thử thách cần thiết. Cho đến khi chúng ta tự chuyển hóa tư tưởng, và đạt được hoàn toàn tự chủ không lệ thuộc vào một sở tri chướng, một phiền não chướng nào, thì chúng ta đã đạt đến mục đích tự tại vô ngại.
--o0o--