|
TẬP SAN DƯỢC SƯ
-
Ngôi Chùa & Tuổi Trẻ
-
Bạch Y Thư Sinh
-
--o0o--
-
-
Từ ngữ Chùa đối với
người Việt Nam chúng ta là một danh từ rất quen thuộc. Từ ngữ
Chùa người Việt Nam thường ghép với một từ ngữ đơn nữa đó là
chiền. Từ kép Chùa Chiền có nghĩa là ngôi Chùa phải được lưu
truyền từ người nầy sang người khác, từ đời nầy sang đời khác.
Nói là ngôi Chùa phải được lưu truyền từ người nầy sang người
khác, và từ đời nầy sang đời khác là lưu truyền cái nền đạo học
chứ không phải lưu truyền cái ngôi làm bằng vật liệu. Ý nghĩa
nầy chúng tôi sẽ trình bày sau.
-
Trong xã hội Việt Nam
từ ngàn xưa cho đến bây giờ, hình ảnh ngôi Chùa và từ ngữ Chùa
Chiền rất quen thuộc, bởi hiện tại trên đất nước chúng ta làng
nào cũng có chùa, từ thành thị cho đến thôn quê ở khắp cả ba
miền: Bắc, Trung, Nam đều có hết. Và chùa như là một cơ sở không
thể thiếu của dân tộc Việt Nam. Như nhà thơ Nguyễn Bính đã nói:
-
- Quê tôi có gió bốn
mùa,
-
Có trăng giữa tháng có
chùa quanh năm.
-
Chuông hôm gió sớm
trăng rằm
-
Chỉ thanh đạm thế, âm
thầm thế thôi
-
Mai nầy tôi bỏ quê tôi
-
Bỏ trăng bỏ gió chao
ôi bỏ Chùa.
-
Với lối kiến trúc đặc
biệt, những ngôi Chùa bao giờ cũng ẩn dấu sau lũy tre xanh, dước
gốc cây đa, ở một nơi thanh tịnh như bản chất khiêm cung, mộc
mạc hồn nhiên, thích ứng và hòa hợp của Phật Giáo. Mái Chùa còn
chất chứa một sức mạnh vạn năng của đời sống tâm linh và tư
tưởng Việt như nhà thơ Huyền Không đã từng diễn tả:
-
- Thấp thoáng đâu đây
cảnh tượng làng
-
Có con đường đỏ chạy
lang thang
-
Có hàng tre gợi hồn
sông núi
-
Im lặng Chùa tôi ngập
bóng vàng.
-
Ngôi Chùa đã nghiễm
nhiên trở thành một nơi an ủi, nương tựa cho cuộc sống tâm linh
của người dân:
-
- Tôi nhớ làm sao
những buổi chiều
-
Lời kinh giải thoát
vọng cao siêu
-
Đây ngôi Chùa Cổ ngày
hai buổi
-
Cầu nguyện dân làng
sống mến yêu.
-
Là một người con Phật
luôn luôn nhớ đến trách nhiệm không những tu cho bản thân mà còn
cho những người chung quanh, cho nhân quần xã hội, vì vậy mà
sinh mệnh văn hóa Phật Giáo đã đóng góp tích cực trong việc hình
thành nền văn hóa Việt Nam:
-
- Chuông vẳng nơi nao
nhớ lạ lùng
-
Ra đi ai chẳng nhớ
Chùa chung
-
Mái chùa che chở hồn
dân tộc
-
Nếp sống muôn đời của
tổ tông.
-
Lý do các nhà sử học
đã mặc nhiên công nhận mái Chùa có khả năng che chở linh hồn cho
dân tộc, bởi vì Phật giáo truyền đến Việt Nam rất sớm, nhưng cho
đến thế kỷ thứ nhất mới thịnh hành, lúc đó tuy là chúng ta còn
đang còn lệ thuộc người Trung Hoa, chưa có một nền độc lập hoàn
toàn tự chủ và vững chắc, nhưng các vị Sư thời ấy là những người
bạn làng của nhân dân, giúp đỡ nhân dân; đem giáo lý từ bi, hỷ
xả, bình đẳng, vị tha truyền bá cho nhân dân; giúp cho nền văn
hóa của chúng ta mạnh lên, có một sắc thái để đứng vững trước sự
đô hộ của phương Bắc, để có thể giành được độc lập. Chính cái
hồn dân tộc đó, nó còn mãi mãi trong lòng người dân chúng ta.
Cho nên dù trải qua bao nhiêu cơn sóng gió, khó khăn, cuối cùng
chúng ta cũng giành được độc lập. Nhờ đó, mặc dầu chúng ta có
những giai đoạn vong quốc nhưng không vong bản. Vong bản thì
không có thể kéo lại được, nhưng vong quốc thì có thể kéo lại
được.
-
Theo dòng lịch sử cho
chúng ta thấy, việc tạo dựng nền văn hóa cho Việt Nam, chính các
nhà sư xưa là những người đã đóng góp rất lớn, do vậy đọc lịch
sử Việt Nam mà nếu không đọc lịch sử Phật giáo Việt Nam thì
không trọn vẹn. Cho nên đối với những người bạn trẻ nói riêng,
và tất cả mọi người dân Việt Nam nói chung, tôi xin được khuyến
khích, những ai đã học sử Việt Nam, thì cũng nên đọc qua sử Phật
giáo Việt Nam. Chúng tôi tin chắc rằng càng đọc sử Phật Giáo
Việt Nam thì các bạn càng thấy rõ sự tương quan giữa lịch sử
Phật giáo Việt Nam và lịch sử Việt Nam tuy là hai nhưng mà là
một. Nhất là đời Lý và đời Trần, là hai đời mà chúng ta thấy
những ông vua phần nhiều là những đệ tử Phật, tin Phật một cách
thuần thành, chơn chính đồng thời là những ông vua sáng suốt,
hùng mạnh, biết đem tinh thần của Phật áp dụng để được tự lợi,
lợi tha. Cho nên các ông vua trong các triều đại đó đã có những
đóng góp, xây dựng cho đất nước một nền độc lập hùng mạnh, vững
chắc.
-
Chúng ta biết rằng,
sau một nghìn năm Bắc thuộc, là đến triều Lý, một triều đại dựng
nước lâu bền nhất, trên 200 năm. Một lịch sử tốt đẹp vừa có sức
mạnh đối bên ngoài, vừa có sự cai trị tốt lành đối với dân chúng
bên trong. Và rồi từ triều Lý mới có được triều Trần nối tiếp,
một triều đại chống cả các đạo quân xâm lược của nhà Nguyên và
Mông Cổ. Có thể nói đạo quân nầy lúc bấy giờ là một lực lượng
hùng cường, đi đến đâu người ta cũng khiếp sợ, nhưng đến Việt
Nam, chúng ta đã đánh thắng và giữ được độc lập.
-
Như vậy ngôi Chùa là
nơi un đúc đào tạo, những vị Tăng sĩ tài ba, và những Phật Tử
chân chánh đã có công trong việc dựng nước và giữ nước. Một
trong những ngôi Chùa mang nhiều đặc điểm nhất và còn lưu truyền
cho đến ngày nay phải nói là Chùa Từ Đàm. Chùa Từ Đàm được khai
sáng vào khoảng năm 1690, tức là cuối thế kỷ thứ 17, đến nay
trên 300 năm, lúc đang còn thời Trịnh, Nguyễn phân tranh. Người
khai sáng ngôi Chùa nầy là Ngài Minh Hoằng Tử Dung là một vị
thiền sư Trung Hoa. Đầu tiên Ngài đặt tên chùa là Ấn Tôn Tự. Ấn
Tôn theo nhà Phật gọi là:
-
- Lấy tâm ấn làm căn
bản,
-
Nghĩa là:
-
- Lấy sự truyền tâm
làm tông chỉ.
-
Nhà Phật chú trọng đến
cái tâm. Tâm mê thì làm việc trái, tâm ngộ thì làm việc phải.
Mọi sự ở giữa đời này cốt ở cái tâm, do tâm chỉ huy. Vì vậy, vị
Thiền sư này đã dùng hai chữ Ấn Tôn để đặt cho hiệu chùa. Đến
thời Thiệu Trị, nhà vua đổi tên gọi là Từ Đàm Tự. Từ là lành.
Đàm là đám mây. Vậy Từ Đàm là đám mây lành, có ý tượng trưng cho
đức Phật như đám mây lành che mát chúng sanh.
-
Chùa Từ Đàm lúc sơ
khai chỉ làm bằng tranh, tre, nứa..., tồn tại lâu dài với một
thời gian gần 300 năm. Trải qua bao thăng trầm thay đổi của lịch
sử, cho đến năm 1935, khi Phật giáo Việt Nam phục hưng sau bao
năm bị phân hóa, tan rã, suy vi dưới thời Pháp thuộc. Cũng vào
năm này, Phật giáo ba miền Bắc, Trung, Nam phục hưng. Khi Phật
giáo phục hưng, ở miền Trung, lấy ngôi chùa Từ Đàm này làm trụ
sở và kiến thiết lại quy mô, trở thành chùa Từ Đàm như ngày hôm
nay.
-
Từ khi xây dựng ngôi
chùa này cho đến nay đã có những sự kiện xảy ra.
-
- Điều thứ nhất là
chùa được làm trụ sở chung cho cả Phật giáo miền Trung. Các tỉnh
miền Trung mỗi năm về đây họp để vạch chương trình hoằng dương
Phật pháp, phát huy Phật giáo.
-
- Điều thứ hai là, vào
năm 1963, dưới chế độ nhà Ngô cai trị miền Nam. Chính quyền này
rất hung bạo và rất kỳ thị Phật giáo, chèn ép Phật Giáo cho nên
Phật Giáo ở miền Trung này đã có một sự nổi dậy, gọi là:
-
- Cuộc vận động Phật
giáo đòi quyền tự do bình đẳng tôn giáo.
-
Cũng phát xuất tại
chùa Từ Đàm này. Và Chùa Từ Đàm đã đi sâu vào tình tự của dân
tộc Việt Nam qua bài hát Từ Đàm Quê Hương Tôi:
-
- Quê hương tôi miền
Trung
-
Sớm hôm chuông nhẹ
rung
-
Tiếng muôn đời hồn tổ
tiên kiêu hùng
-
Ôi uy nghiêm bóng Chùa
Từ Đàm
-
Nơi yêu thương phát
nguồn Đạo Vàng
-
Qua bao giông tố Chùa
Từ Đàm tôi vẫn còn.
-
Quê hương tôi là đây
-
Sớm hôm hương trầm nhẹ
bay
-
Vấn vương lời kinh
chiều nay vơi đầy
-
Ôi thân yêu bóng Chùa
Từ Đàm
-
Nơi Bắc nam nối liền
một nhà
-
Tay trong tay quyết vì
loài người đời lầm than
-
Bóng ai từng đêm, đêm
về
-
Còn nhớ thuở nào đây
câu thề
-
Cùng uớc nguyện cho
đời.
-
Tiếng ai chiều nay u
hoài
-
Trầm lắng vọng về theo
câu thề
-
Nguyện hiến mình cho
đời
-
Ai đi qua miền Trung
-
Khoan khoan ơi người
dừng chân
-
Lắng nghe về đây hồn
ai u hoài
-
Ôi anh linh bóng Chùa
Từ Đàm
-
Ôi nơi đây nắng chiều
dịu dàng
-
Ai hy sinh cứu đời phũ
phàng
-
Từ Đàm ơi.
-
Các sự kiện lịch sử
nầy đối với chúng ta nó đã trở thành chuyện quá khứ, bởi chuyện
xảy ra từ năm 1963. Tuy nhiên chúng tôi nói vài nét đặc trưng về
một trong những ngôi Chùa lịch sử, để cho thấy rằng sự ảnh hưởng
Phật Giáo rất sâu rộng trong lòng quần chúng. Quả thật như vậy,
phải biết rằng lúc bấy giờ dưới thời chế độ độc tài của nhà Ngô
mà Phật giáo đứng lên chống lại, đó là một chuyện không phải dễ,
chúng tôi nói không phải dễ là vì chính quyền có đầy đủ súng
đạn, thế lực, trong khi đó các Tăng sĩ Phật Giáo không có một
tất sắc trong tay, nhưng Phật Giáo mạnh dạng đứng vững trong vị
trí của mình, tất nhiên là phải có quần chúng ủng hộ. Mà Phật
giáo có rất nhiều quần chúng, có ảnh hưởng rất lớn đến quần
chúng, vì quần chúng tìm thấy cái gì hay, đúng đắn ở đó đối với
đạo giáo, với tín ngưỡng, với tri thức luân lý và đối với dân
tộc, cho nên mới có một sự đứng dậy như vậy.
-
Vừa rồi chúng tôi nói
một vài nét về sự có mặt của những ngôi Chùa, và cũng là những
ảnh hưởng lớn của Phật giáo trong xã hội Việt Nam trong suốt
chiều dài của lịch sử. Bây giờ chúng tôi xin được bàn tiếp về
Ngôi Chùa và Tuổi Trẻ.
-
Như vậy khi nói đến
Chùa, chúng ta không cần phải bàn thảo nhiều nhưng chắc chắc mọi
người ai cũng biết Chùa là nơi cư trú của chư Tăng Ni, là nơi un
đúc, duy trì và phát triển Đạo Phật là nền đạo học lâu đời trong
dòng sinh mệnh văn hóa Việt Nam. Ngược dòng lịch sử chúng ta
thấy Đạo Phật phát xuất vào năm 624 trước Tây lịch, tại Ấn Độ,
xứ Ca Tỳ La Vệ, tức là xứ Népal bây giờ. Lúc bấy giờ có một vị
hoàng tử ra đời, tên là Tất Đạt Đa, con vua Tịnh Phạn. Ngài là
một vị hoàng tử sẽ làm vua nhưng Ngài không làm. Bởi vì Ngài
thấy làm vua thì cũng rất lợi, nhưng chỉ lợi cho dân tộc Ấn Độ
mà thôi. Cho nên Ngài không muốn làm hoàng tử, làm vua, mà Ngài
muốn làm một đấng Giác ngộ, tìm ra một phương pháp để cởi mở sự
vô minh, đen tối của con người, để cứu vớt chúng sanh. Trong khi
mới hạ sinh, theo truyền sử Ngài đi bảy bước trên hoa sen, đưa
một tay chỉ trời, một tay chỉ đất và nói rằng:
-
- Trên trời dưới trời
chỉ có Ta là tối thượng.
-
Sự kiện Ngài đi bảy
bước, mỗi bước xuất hiện trên bảy đóa sen, và nói câu:
-
- Trên trời dước trời
chỉ có Ta là tối thượng.
-
Đây là một sự kiện hy
hữu, chúng ta không thấy trong cuộc sống hiện hữu nầy, nhưng như
chúng ta đã biết Ngài là một bậc vĩ nhân, cho nên những ưu điểm
đặc thù như vậy cũng là chuyện thường. Về câu nói:
-
- Trên trời dưới trời
chỉ Ta là tối thượng.
-
Có hai ý nghĩa chính:
-
1- Người Ấn Độ thời
bấy giờ, đa số theo Bà La Môn Giáo, họ tin tưởng rằng, người nào
sinh ra ở dưới trần mà có trí tuệ, thông minh, học giỏi thì họ
cho đó là người được Phạm thiên sai xuống. Họ tin tưởng như thế.
Bấy giờ Phật không tin tưởng điều đó. Phật muốn phá sự sai lầm
đó của mọi người nên Ngài nói:
-
- Trên trời, dưới trời
chỉ có Ta là tối thượng.
-
Nghĩa là:
-
- Không có Thượng đế
nào sinh ra Ta, không có đấng tạo hóa nào sinh ra Ta. Chỉ có Ta
là tối thắng.
-
2- Câu này còn có
nghĩa là, cuộc sống chết của Ta đều do Ta quyết định. Cuộc đời
của ta như thế nào, sướng hay khổ, giàu hay nghèo, sang hay
hèn... tất cả đều do Ta quyết định.
-
Cho nên sau này Phật
có dạy rằng:
-
- Không cha mẹ, trời
đất hay ai làm cho Ta cao thượng hay thấp hèn, chỉ có hành động
của ta làm cho Ta cao thượng hay thấp hèn mà thôi. Không phải ai
khác làm cho Ta ô nhiễm hay trong sạch, mà chỉ do ta làm cho ta
ô nhiễm hay trong sạch mà thôi.
-
Trong chiều hướng nầy,
chúng ta thấy giáo lý của đức Phật luôn nhắc nhở chúng ta phải
tự giác ngộ lấy mình. Nếu không tự giác ngộ lấy mình, thì bao
nhiêu tật xấu sẽ dắt dẫn, chỉ huy, chi phối làm cho chúng ta trở
nên xấu xa, ngu muội.
-
Chúng ta cũng như Đức
Phật, nhưng Đức Phật đã giác ngộ rồi trong khi đó chúng ta thì
chưa giác ngộ. Trong các nguyên nhân là cho chúng ta chưa giác
ngộ, đức Phật đã dạy có ba nguyên nhân chính mà đức Phật gọi là
ba thứ độc. Đó là: tham, sân và si.
-
- Tham là sự đam mê,
ham muốn;
-
- Sân là sự thù hận,
hung dữ, ghen ghét;
-
- Si là sự ngu muội.
-
Trong ba thứ đó ai ai
cũng có. Chính ba thứ này là nguyên nhân, là tai hại mà nếu như
chúng ta không sửa nó, thì nó sẽ làm cho tiêu tan mất sự nghiệp
của chúng ta, làm cho con người cao sang của chúng ta trở thành
thấp hèn, bị hạ giá, sa đọa... Cho nên Phật dạy phải trừ ba độc
đó đi.
-
Muốn trừ
ba thứ đó, muốn chỉ cho chúng sanh sự tai hại của nó, cho nên
trong bài giáo lý
đức Phật nói lần đầu cho hàng đệ tử của mình sau khi Ngài thành
đạo, gọi là sơ Chuyển pháp luân. Đức Phật đã dạy về Tứ diệu đế
mà chắc chắn trong chúng ta ai ai cũng biết. Trong đó Ngài dạy
về sự thật thứ nhất, gọi là Khổ đế: Đời là khổ. Một bài thuyết
pháp mà bây giờ những nhà trí thức khi nghiên cứu Phật giáo rất
thán phục.
-
Đời là khổ. Nói như
vậy, có những người mới nghe thì chối tai lắm. Đời có nhiều
chuyện vui, cớ sao gọi là khổ! Đức Phật nói đời là khổ có nhiều
thứ, như:
-
- Sự sống là khổ
-
- Già là khổ
-
- Bệnh là khổ
-
- Chết là khổ.
-
- Người nào mà mình ưa
thích, vật nào mình ưa thích mà bị xa lìa thì khổ.
-
- Người nào mà mình
oán hận, cái vật gì mà mình không ưa mà bị gặp mãi, đụng đầu mãi
cũng khổ.
-
- Sự mong cầu mà không
đạt được cũng khổ.
-
Những cái khổ đó tôi
thiết tưởng rằng, trên đời này không ai dám nói rằng tôi không
có các khổ đó. Xin được tiêu biểu một vài trường hợp. Chẳng hạn
như:
-
- Những người giàu có,
mỗi khi đau có thuốc chữa, đủ mọi thứ; ở trong nước chữa không
được, đi ra ngoại quốc chữa, nhưng họ không thể chữa hết cái đau
của chính họ được. Dù cố ý chữa cũng không thể khỏi cái đau
được, như đau chân, bị cưa chân, nhất định là khổ.
-
- Bị mổ ruột là khổ.
-
- Già bị lẩm cẩm là
khổ.
-
- Không muốn chết mà
phải chết là khổ. Đó là cái khổ hiển nhiên chứ không ai có thể
nói đó là sướng được.
-
- Rồi đến những điều
yêu thích. Những điều đó không nằm luôn trong bàn tay ta được,
thế nào cũng có lúc bay đi. Chính bản thân chúng ta là vật yếu
quí nhất, nhưng nó cũng vuột đi, đó là một sự ái biệt ly khổ,
điều ta yêu quí nhưng phải xa lìa là khổ.
-
- Rồi những điều ta
ghét, tức là điều mà chúng ta không ưa, mà nó cứ sừng sững đi
đến.
-
- Những điều thất bại,
ta không ưa, những người ta ghét bỏ, ta không thích gặp, thế mà
vẫn gặp, tránh ngả nào cũng không xong.
-
Quả thật là khổ, bởi
vì ai ai trong chúng ta trên cuộc đời cũng đều có những thứ khổ
đó. Không nhiều thì ít, không ai tránh được. Cho nên, đức Phật
tổng kết lại: đời là khổ.
-
Đức Phật nói đời là
khổ, không phải chỉ cho con người nhất là những người bạn trẻ,
là thế hệ còn đang sức sống mảnh liệt một cái nhìn bi quan yếm
thế, mà đó là khởi điểm để khởi hành cho cuộc hành trình đi tìm
giác ngộ giải thoát của đức Phật. Cũng y như nói cuộc đời nô lệ,
đó là khởi điểm cho những người đi làm cách mạng tiến tới nền
độc lập tự do. Nếu không nhận thức rằng, mình là con người bị nô
lệ, thì sẽ không có ai làm cách mạng hết. Nếu không ai thấy mình
bị đau khổ, ràng buộc thì không ai đi tìm hạnh phúc và giải
thoát. Có người chưa hiểu kịp, nói đạo Phật là đạo bi quan, yếm
thế, mở miệng là nói khổ. Nhưng cái khổ của đạo Phật nói là khởi
điểm để đi tìm giác ngộ.
-
Đối với Phật giáo, khổ
không bao giờ được xem như, hoặc được trình bày như một giá trị.
Khổ là cái phải diệt nó. Tất nhiên, phải thực tế, ai cũng nằm
dưới định luật khổ. Thế thì, thay vì để cho khổ dẫm nát, chúng
ta hãy dùng khổ để vươn lên, dùng khổ như là một khí cụ để học
cách hiểu mình hơn và hiểu người khác hơn. Sửa đổi bên trong của
chúng ta toàn vẹn, lìa ra khỏi khổ, điều đó rất cần thiết để
phát triển từ bi và có lẽ sau đó một thái độ vị tha giúp người
khác thoát khổ.
-
Những cái khổ đó có
rất nhiều nguyên do, nhưng lý do chính vẫn ở nơi lòng ta mà ra,
chính chúng ta. Đức Phật nói do tham ái, tham dục. Tham ái, tham
dục, nói cách khách quan có nghĩa là:
-
- Đam mê cờ bạc, đam
mê rượu chè, đam mê sắc dục, đam mê của cải, đam mê quyền lực...
Bao nhiêu cái đam mê đó nó dày vò trong lòng mọi người.
-
Người đam mê cờ bạc,
thấy sự đam mê cờ bạc không thỏa mãn được, không vui được thì
chạy sang đam mê sắc dục. Thấy sự đam mê sắc dục không thỏa mãn,
không vui được, thì chạy sang đam mê quyền lực. Lại cũng thấy
không thỏa mãn không vui được, thì chạy sang đam mê khác, cuộc
đời của một người với bao nhiêu đam mê như vậy, chắc chắn là một
cuộc đời sa đọa, một cuộc đời gây nên tội ác. Vì những sự đam mê
đó, cầu cho thỏa mãn đam mê. Muốn thỏa mãn đam mê không phải là
một chuyện dễ, bởi vì không phải là chúng ta đam mê một cái gì
là đều đạt được cái đó. Không phải là chuyện dễ nên mới đi tìm,
tìm cách này không được chúng ta tìm cách khác.
-
Từ con người đang tốt
trở nên con người xấu, ăn cắp ăn trộm, ăn hối lộ, bán hàng giả
v.v... Thường thường, vì sự đam mê đó cho nên người ta nhiều khi
tranh nhau, lừa gạt nhau... Vì sự đam mê đó mà làm cho tâm niệm
tối tăm, cái lòng từ bi sáng suốt thu hẹp lại, hoặc bị mất đi.
Vì vậy đức Phật nói sự đam mê tham dục là nguồn lực chính, cơ
bản nhất của sự đau khổ.
-
Cụ Nguyễn Du có nói:
-
- Tu là cội phúc, tình
là giây oan.
-
Tình đây không phải
chỉ là tình ái, mà tình đây còn chỉ mọi sự đam mê đó.
-
Chúng ta biết rằng,
những sự đam mê đó gây tai hại, khổ sở cho:
-
- Xã hội,
-
- Giới thanh niên,
-
- Trong học đường...
-
Cho nên đức Phật nói
chính sự đam mê tham dục là nguyên nhân gốc rễ của đau khổ. Vậy,
muốn trừ đau khổ thì trước hết chúng ta phải trừ đam mê ấy. Khi
chúng ta đã trừ hết đam mê ấy rồi, thì tâm của chúng ta sẽ sáng
suốt, chúng ta sẽ nhận thức được những việc của mình làm như thế
nào có lợi, như thế nào đừng thất nhơn ác đức, như thế nào đừng
gây thêm tai họa cho người khác. Nếu chúng ta tối mắt chạy theo
cái đam mê đó, thì chúng ta không làm chủ được mình nữa. Một
người say rượu, khi đó rượu làm chủ. Một người mê cờ bạc, sắc
dục, khi đó thì cờ bạc, sắc dục làm chủ.....
-
Đức Phật cũng thường
nói sự đau khổ vì do vô minh. Nếu phá hết vô minh thì được giác
ngộ, khi giác ngộ thì hết đau khổ. Gọi là Vô Minh vì sự vật
trước mặt ta rõ ràng như thế đó mà ta không nhận ra thực tướng
của nó, lại nhận khác đi, cho nên gọi là vô minh. Hiểu một cách
sai lầm, nhà Phật gọi đó là vô minh. Đây là cách hành xử sáng
suốt của Đức Phật khi ngài còn tại thế:
-
Lúc đức Phật còn tại
thế, một hôm Ngài dẫn một đoàn đệ tử đi trên đường. Đi sau Ngài
có hai thầy trò ngoại đạo. Thầy thì dùng mọi lời lẽ xấu xa, chỉ
trích, chê bai Phật, chê bai đệ tử Phật. Còn người học trò của
ngoại đạo thì dùng mọi lời lẽ hay ho khen Phật, khen đệ tử Phật,
nhưng Đức Phật vẫn làm thinh không nói gì cả. Đến khi về tinh xá
thụ trai xong, các vị đệ tử ngồi lại bàn tán:
-
- Họ khen chê như vậy
mà đức Thế Tôn có nghe hay không! Nếu Ngài có nghe thì tại sao
Ngài lại làm thinh không nói gì cả?
-
Chúng đệ tử thắc mắc.
Đức Phật đi ngang qua nghe được liền hỏi các thầy bàn tán chuyện
gì. Các thầy trả lời Phật:
-
- Các con bàn chuyện
khi nãy. Có hai thầy trò ngoại đạo đi sau lưng, người thầy thì
chê mà người trò thì khen. Không biết đức Thế Tôn có nghe không
mà không thấy Ngài nói gì cả.
-
Phật dạy:
-
- Khi nghe ai khen
không nên vội mừng, vội mừng thì bị sa đọa. Khi nghe ai chê cũng
không nên vội buồn, vội buồn thì bị sa đọa.
-
Hãy bình tĩnh xét
người khen đó có đúng với ta hay không đúng với ta. Sự bình tĩnh
để diệt trừ vô minh quan trọng lắm. Có bình tĩnh thì mới sáng
suốt, có bình tĩnh mới đối phó đúng đắn, nếu không có sự bình
tĩnh, thì chúng ta sẽ xử sự sai. Thành thử đức Phật ra đời cốt
là để khai thị cho chúng sanh những cái gì thấy trước mắt phải
hiểu cho rõ, nhận thức cho đúng. Phải thay đổi cách suy tư của
mình đối với sự vật. Khi đã hiểu rõ, nhận thức đúng rồi thì
chúng ta sẽ có sự xử sự đúng. Xử sự đúng thì bao giờ cũng đem
tới an vui lợi lạc. Lợi ích của đạo Phật là vậy. Người theo đạo
Phật hiểu chừng nào, thực hành chừng nào thì càng thấy sự vui vẻ
chừng đó.
-
Chính đức Phật là
người đã tự giác. Giáo lý của Ngài đã dạy chúng ta sự tự giác,
nhắc chúng ta phải làm chủ lấy mình, nhìn lại lòng mình, từng
hành động của mình trong từng ngày, từng giờ có đam mê điều gì
xấu xa, điều gì u tối, điều gì độc ác hay không, nếu có thì trừ
diệt đi. Tự soi lại trong lòng mình, ngày nay có được điều thiện
nào không, có nghĩ được điều tốt điều hay nào cho ai không? Nếu
chưa có thì cố gắng phát huy. Nếu mỗi ngày mà mình tự tin, phản
tỉnh lại mình như vậy thì chắc chắn chúng ta sẽ trở thành một
con người sáng suốt, một con người hiền lành, con người có đạo
đức. Nếu thiếu sự tự giác đó, thì tất nhiên chúng ta sẽ sa đọa
mãi, mà khi đã sa đọa rồi thì không thể làm lợi cho ai được hết.
Đạo Phật được gọi là đạo Giác ngộ cũng vì:
-
- Tự giác, giác tha,
giác hạnh viên mãn.
-
Những người đến với
Phật giáo, nhất là những người bạn trẻ một khi đã hiểu và đã
thấm nhuần giáo lý đạo Phật, người ấy sẽ thấy rằng, đến với Phật
giáo thì tâm hồn sẽ mở rộng thêm chứ không phải thu hẹp lại. Tâm
hồn sẽ sáng lên chứ không tối tăm lại, và tâm hồn chúng ta sẽ
hiền ra chứ không phải độc ác. Đến với đạo Phật mà nếu đến với
một sự chân thành và hiểu rõ, cộng với lòng ưa thích giáo lý của
đức Phật, tất nhiên chúng ta sẽ trở nên con người tốt, thì cuộc
đời của những bạn trẻ nầy là một vườn hoa thơm tinh khiết trong
vườn hoa của nhân loại.
-
Tôi mong rằng những ai
đến với đạo Phật, nhất là các bạn trẻ hiểu điều này để tự giác
tỉnh. Trong đạo Phật có các pháp tu:
-
- Tụng kinh, niệm
Phật, thiền tọa và kinh hành ...
-
Tất cả các phương pháp
nầy đều là để tu luyện tâm tính, tập trung tư tưởng, lẽ tất
nhiên sẽ giúp cho những ai biết hướng cuộc đời mình về hướng
chân thiện mỹ. Tuy nhiên trong phạm vi giá trị của ngôi Chùa và
tuổi trẻ, chúng tôi muốn nhấn mạnh, đối với những người bạn trẻ.
Những người bạn trẻ nào tìm đến với ngôi Chùa là người bạn trẻ
ấy đã định được hướng đi trong cuộc đời của mình. Vậy cho nên
các bạn trẻ phải tập trung tư tưởng lại, không cho tư tưởng chạy
qua việc khác, mà phải tập trung vào đường hướng lương thiện mà
Thầy hiền bạn tốt đã chỉ dẫn. Chính sự tập trung, gom tất cả tư
tưởng chạy loạn thì chúng ta sẽ có một sức mạnh tự chủ. Luyện
tâm mình như người luyện võ, người đó luyện một cách thuần thục,
tuyệt diệu rồi, thì khi bị đánh sau lưng anh đỡ sau lưng, đánh
trước mặt anh đỡ trước mặt. Khi chúng ta có được cái tâm tự chủ
định rồi, thì trước mọi hoàn cảnh đều có thể bình tĩnh đối phó
được hết. Còn nếu như không, nhiều khi người ta vô tình nói lỡ
một câu nói trái ý, thì chúng ta đã lồng lộn lên, và căm tức
suốt mấy ngày. Vô tình mình mang lại cái khổ cho mình, mà không
tự biết, rồi ngủ không được, ăn không ngon. Nếu như ta không có
một sức bình tĩnh tự chủ, thì chúng ta sẽ đối phó sai lầm, mà
đối phó sai lầm là tự chúng ta đau khổ. Nếu ta có một sức tự
chủ, nhận xét, thì trước mọi sự ta sẽ sáng suốt để đối phó. Đó
là điều mà chúng tôi muốn nhắc nhở những ai đến với đạo, nhất là
những người bạn trẻ. Các bạn trẻ phải luôn luôn tự giác, mà muốn
tự giác thì ta phải tập thêm một tính tự tin. Mỗi ngày nên để
mười lăm hoặc hai mươi phút để ngồi lại, ngồi lắng lòng lại, gạt
tất cả những chuyện hơn thua, hay dở, được mất ra ngoài ý nghĩ,
gạt hết tất cả để cho tâm hồn của chúng ta được bình an, định
tĩnh một lúc.
-
Ý nghĩa ở trong nhà
Phật dạy chữ tự giác tức là dạy chúng ta điều đó. Muốn có tự
giác thì hằng ngày phải để dành một thì giờ thật yên lặng. Trong
giờ phút ấy không nên để chuyện gì vướng trong đầu hết, phải giữ
cho tâm thật yên lặng, sáng suốt. Thân bình lặng, tâm bình lặng
thì dễ sáng suốt.
-
Như trên tôi đã nói,
đạo Phật đã ăn sâu và bám gốc rễ vào dân tộc Việt Nam trên hai
nghìn mấy trăm năm nay, cho nên những đặc tính của Phật giáo đã
thấm vào da thịt của mỗi người dân, đến nay vẫn còn ngấm ngầm
tồn tại ở trong đó. Ngày nay mặc dù có nhiều người đi chùa, lạy
Phật thì lạy chứ không hiểu Phật là sao, lời của Phật dạy thế
nào. Nhưng họ vẫn đi chùa, vẫn lạy Phật, là vì sao:
-
- Một là vì truyền
thống từ xưa đã huân tập thành chủng tử ở trong máu huyết của
dân tộc chúng ta.
-
- Hai nữa là vì cái
tình cảm, cái sự đối đãi của Phật giáo đối với dân tộc này có
một sự hòa điệu.
-
Nói tóm lại, Đạo Phật
đi đến với Việt Nam chúng ta một cách hiền lành, như người bạn
quý đến với nhau, không có một cái gì mưu mô, thủ đoạn, hung dữ.
Dân tộc chúng ta đã tiếp nhận đạo Phật và đạo Phật đã hòa nhập
vào dân tộc chúng ta một cách êm thắm, và đã góp sức xây dựng
cho nền độc lập vinh quang của Việt Nam. Thế nên, ngày nay trong
máu, trong tâm, trong truyền thống gia tộc của chúng ta có không
ít thì nhiều, không nhiều thì ít cái mầm Phật giáo đều có sẵn
trong mỗi con người. Cho nên, từ chỗ đó nếu như chúng ta đến gần
hơn để tìm hiểu đạo Phật nhiều hơn nữa, thì chúng ta là những
người của thế hệ trẻ sẽ thấy ngày trước Tổ tiên chúng ta theo
đạo Phật rất có ý nghĩa. Cũng vì sự nhận thức đúng đắn đó cho
nên trên nền lịch sử Việt Nam, đạo Phật đã đóng góp một phần rất
lớn, rõ rệt nhất là hai đời Lý, Trần mà bây giờ đây trong văn
hóa, trong nếp sống và trong phong tục tập quán của dân tộc Việt
Nam đã bàng bạc ý nghĩa cũng như tinh thần Phật giáo. Đó là một
ảnh hưởng lớn, mà những người nào đã đến với Phật, chắc chắn đã
hiểu rõ và đã thấy hình ảnh ca một ngôi Chùa có các đặc tính:
-
- Đạo Phật là đạo Từ
bi, là đạo hiền lành, đạo vị tha và là đạo hòa bình... Vì sự tin
tưởng đó, cho nên khi đến chùa, tự nhiên cảm thấy mình gần với
đức Phật.
-
- Điều thứ hai là cảnh
trí chùa chiền luôn luôn trang nghiêm, thanh tịnh, ở đó không có
sự giành giật, mưu mô; không có sự lấn ép, dối gạt.
-
Chính những tinh thần
đó bàng bạc trong cảnh chùa, ngấm ngầm nơi cây cỏ. Nên những
người sẵn có thiện tâm khi đến cảnh chùa thấy tâm hồn mình khỏe
khoắn, thanh thản. Có giận hờn ở bên ngoài bao nhiêu đi nữa,
nhưng đến chùa tự biết rằng, đức Phật là từ bi, nhẫn nhục, dạy
con người từ bi nhẫn nhục. Tự nhiên người ta cảm nhận được điều
đó, mà sự thù hằn lúc ấy cũng vơi bớt đi. Ở ngoài tham lam đến
mấy, độc ác đến mấy mà người ấy đến chùa biết đó là chỗ từ bi,
hỷ xả, thì thế nào tâm hồn họ cũng nhẹ bớt chuyện tham lam độc
ác ấy đi.
-
Vả lại, có những người
khi thấy lòng mình bận rộn, bứt rứt, phiền não, họ liền tìm tới
chùa. Nhìn Phật cũng được, lạy Phật hoặc không lạy cũng được,
ngồi bên gốc cây hoặc ở một nơi nào đó, lắng lòng ngồi im lặng,
liền tự thấy lòng mình an. Đó cũng là một lợi ích rất lớn. Lúc
có những điều trong lòng bứt rứt, rối rắm, bất an, thì chính
những lúc đó, tiền bạc không làm cho an được, mà chỉ có tinh
thần vô ngã vị tha, tinh thần từ bi hỷ xả phá chấp của đức Phật
mới đem lại sự an lòng cho chúng ta. Do đó, nhiều người đến với
Phật nhất là những người trẻ, tự nhiên thấy lòng mình nhẹ nhàng,
an lạc. Và cũng vì lẽ này, tinh thần Phật giáo được lan truyền
và nhiều người từ già cho đến trẻ đều đến với Phật giáo, và ngôi
chùa đã nghiễn nhiên trở thành chiếc nôi cho nên văn học Việt
Nam:
-
- Mái chùa che chở hồn
dân tộc
-
Nếp sống muôn đời của
tổ tông.
--o0o--
|
|