TẬP SAN DƯỢC SƯ

Ngôi Chùa & Tuổi Trẻ
Bạch Y Thư Sinh
--o0o--
 
Từ ngữ Chùa đối với người Việt Nam chúng ta là một danh từ rất quen thuộc. Từ ngữ Chùa người Việt Nam thường ghép với một từ ngữ đơn nữa đó là chiền. Từ kép Chùa Chiền có nghĩa là ngôi Chùa phải được lưu truyền từ người nầy sang người khác, từ đời nầy sang đời khác. Nói là ngôi Chùa phải được lưu truyền từ người nầy sang người khác, và từ đời nầy sang đời khác là lưu truyền cái nền đạo học chứ không phải lưu truyền cái ngôi làm bằng vật liệu. Ý nghĩa nầy chúng tôi sẽ trình bày sau.
Trong xã hội Việt Nam từ ngàn xưa cho đến bây giờ, hình ảnh ngôi Chùa và từ ngữ Chùa Chiền rất quen thuộc, bởi hiện tại trên đất nước chúng ta làng nào cũng có chùa, từ thành thị cho đến thôn quê ở khắp cả ba miền: Bắc, Trung, Nam đều có hết. Và chùa như là một cơ sở không thể thiếu của dân tộc Việt Nam. Như nhà thơ Nguyễn Bính đã nói:
- Quê tôi có gió bốn mùa,
Có trăng giữa tháng có chùa quanh năm.
Chuông hôm gió sớm trăng rằm
Chỉ thanh đạm thế, âm thầm thế thôi
Mai nầy tôi bỏ quê tôi
Bỏ trăng bỏ gió chao ôi bỏ Chùa.
Với lối kiến trúc đặc biệt, những ngôi Chùa bao giờ cũng ẩn dấu sau lũy tre xanh, dước gốc cây đa, ở một nơi thanh tịnh như bản chất khiêm cung, mộc mạc hồn nhiên, thích ứng và hòa hợp của Phật Giáo.  Mái Chùa còn chất chứa một sức mạnh vạn năng của đời sống tâm linh và tư tưởng Việt như nhà thơ Huyền Không đã từng diễn tả:
- Thấp thoáng đâu đây cảnh tượng làng
Có con đường đỏ chạy lang thang
Có hàng tre gợi hồn sông núi
Im lặng Chùa tôi ngập bóng vàng.
Ngôi Chùa đã nghiễm nhiên trở thành một nơi an ủi, nương tựa cho cuộc sống tâm linh của người dân:
- Tôi nhớ làm sao những buổi chiều
Lời kinh giải thoát vọng cao siêu
Đây ngôi Chùa Cổ ngày hai buổi
Cầu nguyện dân làng sống mến yêu.
Là một người con Phật luôn luôn nhớ đến trách nhiệm không những tu cho bản thân mà còn cho những người chung quanh, cho nhân quần xã hội, vì vậy mà sinh mệnh văn hóa Phật Giáo đã đóng góp tích cực trong việc hình thành nền văn hóa Việt Nam: 
- Chuông vẳng nơi nao nhớ lạ lùng
Ra đi ai chẳng nhớ Chùa chung
Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông.
Lý do các nhà sử học đã mặc nhiên công nhận mái Chùa có khả năng che chở linh hồn cho dân tộc, bởi vì Phật giáo truyền đến Việt Nam rất sớm, nhưng cho đến thế kỷ thứ nhất mới thịnh hành, lúc đó tuy là chúng ta còn đang còn lệ thuộc người Trung Hoa, chưa có một nền độc lập hoàn toàn tự chủ và vững chắc, nhưng các vị Sư thời ấy là những người bạn làng của nhân dân, giúp đỡ nhân dân; đem giáo lý từ bi, hỷ xả, bình đẳng, vị tha truyền bá cho nhân dân; giúp cho nền văn hóa của chúng ta mạnh lên, có một sắc thái để đứng vững trước sự đô hộ của phương Bắc, để có thể giành được độc lập. Chính cái hồn dân tộc đó, nó còn mãi mãi trong lòng người dân chúng ta. Cho nên dù trải qua bao nhiêu cơn sóng gió, khó khăn, cuối cùng chúng ta cũng giành được độc lập. Nhờ đó, mặc dầu chúng ta có những giai đoạn vong quốc nhưng không vong bản. Vong bản thì không có thể kéo lại được, nhưng vong quốc thì có thể kéo lại được.
Theo dòng lịch sử cho chúng ta thấy, việc tạo dựng nền văn hóa cho Việt Nam, chính các nhà sư xưa là những người đã đóng góp rất lớn, do vậy đọc lịch sử Việt Nam mà nếu không đọc lịch sử Phật giáo Việt Nam thì không trọn vẹn. Cho nên đối với những người bạn trẻ nói riêng, và tất cả mọi người dân Việt Nam nói chung, tôi xin được khuyến khích, những ai đã học sử Việt Nam, thì cũng nên đọc qua sử Phật giáo Việt Nam. Chúng tôi tin chắc rằng càng đọc sử Phật Giáo Việt Nam thì các bạn càng thấy rõ sự tương quan giữa lịch sử Phật giáo Việt Nam và lịch sử Việt Nam tuy là hai nhưng mà là một. Nhất là đời Lý và đời Trần, là hai đời mà chúng ta thấy những ông vua phần nhiều là những đệ tử Phật, tin Phật một cách thuần thành, chơn chính đồng thời là những ông vua sáng suốt, hùng mạnh, biết đem tinh thần của Phật áp dụng để được tự lợi, lợi tha. Cho nên các ông vua trong các triều đại đó đã có những đóng góp, xây dựng cho đất nước một nền độc lập hùng mạnh, vững chắc.
Chúng ta biết rằng, sau một nghìn năm Bắc thuộc, là đến triều Lý, một triều đại dựng nước lâu bền nhất, trên 200 năm. Một lịch sử tốt đẹp vừa có sức mạnh đối bên ngoài, vừa có sự cai trị tốt lành đối với dân chúng bên trong. Và rồi từ triều Lý mới có được triều Trần nối tiếp, một triều đại chống cả các đạo quân xâm lược của nhà Nguyên và Mông Cổ. Có thể nói đạo quân nầy lúc bấy giờ là một lực lượng hùng cường, đi đến đâu người ta cũng khiếp sợ, nhưng đến Việt Nam, chúng ta đã đánh thắng và giữ được độc lập. 
Như vậy ngôi Chùa là nơi un đúc đào tạo, những vị Tăng sĩ tài ba, và những Phật Tử chân chánh đã có công trong việc dựng nước và giữ nước. Một trong những ngôi Chùa mang nhiều đặc điểm nhất và còn lưu truyền cho đến ngày nay phải nói là Chùa Từ Đàm. Chùa Từ Đàm được khai sáng vào khoảng năm 1690, tức là cuối thế kỷ thứ 17, đến nay trên 300 năm, lúc đang còn thời Trịnh, Nguyễn phân tranh. Người khai sáng ngôi Chùa nầy là Ngài Minh Hoằng Tử Dung là một vị thiền sư Trung Hoa. Đầu tiên Ngài đặt tên chùa là Ấn Tôn Tự. Ấn Tôn theo nhà Phật gọi là:
- Lấy tâm ấn làm căn bản,
Nghĩa là:
- Lấy sự truyền tâm làm tông chỉ.
Nhà Phật chú trọng đến cái tâm. Tâm mê thì làm việc trái, tâm ngộ thì làm việc phải. Mọi sự ở giữa đời này cốt ở cái tâm, do tâm chỉ huy. Vì vậy, vị Thiền sư này đã dùng hai chữ Ấn Tôn để đặt cho hiệu chùa. Đến thời Thiệu Trị, nhà vua đổi tên gọi là Từ Đàm Tự. Từ là lành. Đàm là đám mây. Vậy Từ Đàm là đám mây lành, có ý tượng trưng cho đức Phật như đám mây lành che mát chúng sanh.
Chùa Từ Đàm lúc sơ khai chỉ làm bằng tranh, tre, nứa..., tồn tại lâu dài với một thời gian gần 300 năm. Trải qua bao thăng trầm thay đổi của lịch sử, cho đến năm 1935, khi Phật giáo Việt Nam phục hưng sau bao năm bị phân hóa, tan rã, suy vi dưới thời Pháp thuộc. Cũng vào năm này, Phật giáo ba miền Bắc, Trung, Nam phục hưng. Khi Phật giáo phục hưng, ở miền Trung, lấy ngôi chùa Từ Đàm này làm trụ sở và kiến thiết lại quy mô, trở thành chùa Từ Đàm như ngày hôm nay.
Từ khi xây dựng ngôi chùa này cho đến nay đã có những sự kiện xảy ra.
- Điều thứ nhất là chùa được làm trụ sở chung cho cả Phật giáo miền Trung. Các tỉnh miền Trung mỗi năm về đây họp để vạch chương trình hoằng dương Phật pháp, phát huy Phật giáo.
- Điều thứ hai là, vào năm 1963, dưới chế độ nhà Ngô cai trị miền Nam. Chính quyền này rất hung bạo và rất kỳ thị Phật giáo, chèn ép Phật Giáo cho nên Phật Giáo ở miền Trung này đã có một sự nổi dậy, gọi là:
- Cuộc vận động Phật giáo đòi quyền tự do bình đẳng tôn giáo.
Cũng phát xuất tại chùa Từ Đàm này. Và Chùa Từ Đàm đã đi sâu vào tình tự của dân tộc Việt Nam qua bài hát Từ Đàm Quê Hương Tôi:
- Quê hương tôi miền Trung
Sớm hôm chuông nhẹ rung
Tiếng muôn đời hồn tổ tiên kiêu hùng
Ôi uy nghiêm bóng Chùa Từ Đàm
Nơi yêu thương phát nguồn Đạo Vàng
Qua bao giông tố Chùa Từ Đàm tôi vẫn còn.
Quê hương tôi là đây
Sớm hôm hương trầm nhẹ bay
Vấn vương lời kinh chiều nay vơi đầy
Ôi thân yêu bóng Chùa Từ Đàm
Nơi Bắc nam nối liền một nhà
Tay trong tay quyết vì loài người đời lầm than
Bóng ai từng đêm, đêm về
Còn nhớ thuở nào đây câu thề
Cùng uớc nguyện cho đời.
Tiếng ai chiều nay u hoài
Trầm lắng vọng về theo câu thề
Nguyện hiến mình cho đời
Ai đi qua miền Trung
Khoan khoan ơi người dừng chân
Lắng nghe về đây hồn ai u hoài
Ôi anh linh bóng Chùa Từ Đàm
Ôi nơi đây nắng chiều dịu dàng
Ai hy sinh cứu đời phũ phàng
Từ Đàm ơi. 
Các sự kiện lịch sử nầy đối với chúng ta nó đã trở thành chuyện quá khứ, bởi chuyện xảy ra từ năm 1963. Tuy nhiên chúng tôi nói vài nét đặc trưng về một trong những ngôi Chùa lịch sử, để cho thấy rằng sự ảnh hưởng Phật Giáo rất sâu rộng trong lòng quần chúng. Quả thật như vậy, phải biết rằng lúc bấy giờ dưới thời chế độ độc tài của nhà Ngô mà Phật giáo đứng lên chống lại, đó là một chuyện không phải dễ, chúng tôi nói không phải dễ là vì chính quyền có đầy đủ súng đạn, thế lực, trong khi đó các Tăng sĩ Phật Giáo không có một tất sắc trong tay, nhưng Phật Giáo mạnh dạng đứng vững trong vị trí của mình, tất nhiên là phải có quần chúng ủng hộ. Mà Phật giáo có rất nhiều quần chúng, có ảnh hưởng rất lớn đến quần chúng, vì quần chúng tìm thấy cái gì hay, đúng đắn ở đó đối với đạo giáo, với tín ngưỡng, với tri thức luân lý và đối với dân tộc, cho nên mới có một sự đứng dậy như vậy.
Vừa rồi chúng tôi nói một vài nét về sự có mặt của những ngôi Chùa, và cũng là những ảnh hưởng lớn của Phật giáo trong xã hội Việt Nam trong suốt chiều dài của lịch sử. Bây giờ chúng tôi xin được bàn tiếp về Ngôi Chùa và Tuổi Trẻ.
Như vậy khi nói đến Chùa, chúng ta không cần phải bàn thảo nhiều nhưng chắc chắc mọi người ai cũng biết Chùa là nơi cư trú của chư Tăng Ni, là nơi un đúc, duy trì và phát triển Đạo Phật là nền đạo học lâu đời trong dòng sinh mệnh văn hóa Việt Nam. Ngược dòng lịch sử chúng ta thấy Đạo Phật phát xuất vào năm 624 trước Tây lịch, tại Ấn Độ, xứ Ca Tỳ La Vệ, tức là xứ Népal bây giờ. Lúc bấy giờ có một vị hoàng tử ra đời, tên là Tất Đạt Đa, con vua Tịnh Phạn. Ngài là một vị hoàng tử sẽ làm vua nhưng Ngài không làm. Bởi vì Ngài thấy làm vua thì cũng rất lợi, nhưng chỉ lợi cho dân tộc Ấn Độ mà thôi. Cho nên Ngài không muốn làm hoàng tử, làm vua, mà Ngài muốn làm một đấng Giác ngộ, tìm ra một phương pháp để cởi mở sự vô minh, đen tối của con người, để cứu vớt chúng sanh. Trong khi mới hạ sinh, theo truyền sử Ngài đi bảy bước trên hoa sen, đưa một tay chỉ trời, một tay chỉ đất và nói rằng:
- Trên trời dưới trời chỉ có Ta là tối thượng.
Sự kiện Ngài đi bảy bước, mỗi bước xuất hiện trên bảy đóa sen, và nói câu:
- Trên trời dước trời chỉ có Ta là tối thượng.
Đây là một sự kiện hy hữu, chúng ta không thấy trong cuộc sống hiện hữu nầy, nhưng như chúng ta đã biết Ngài là một bậc vĩ nhân, cho nên những ưu điểm đặc thù như vậy cũng là chuyện thường. Về câu nói:
- Trên trời dưới trời chỉ Ta là tối thượng.
Có hai ý nghĩa chính:
1- Người Ấn Độ thời bấy giờ, đa số theo Bà La Môn Giáo, họ tin tưởng rằng, người nào sinh ra ở dưới trần mà có trí tuệ, thông minh, học giỏi thì họ cho đó là người được Phạm thiên sai xuống. Họ tin tưởng như thế. Bấy giờ Phật không tin tưởng điều đó. Phật muốn phá sự sai lầm đó của mọi người nên Ngài nói:
- Trên trời, dưới trời chỉ có Ta là tối thượng.
Nghĩa là:
- Không có Thượng đế nào sinh ra Ta, không có đấng tạo hóa nào sinh ra Ta. Chỉ có Ta là tối thắng.
2- Câu này còn có nghĩa là, cuộc sống chết của Ta đều do Ta quyết định. Cuộc đời của ta như thế nào, sướng hay khổ, giàu hay nghèo, sang hay hèn... tất cả đều do Ta quyết định.
Cho nên sau này Phật có dạy rằng:
- Không cha mẹ, trời đất hay ai làm cho Ta cao thượng hay thấp hèn, chỉ có hành động của ta làm cho Ta cao thượng hay thấp hèn mà thôi. Không phải ai khác làm cho Ta ô nhiễm hay trong sạch, mà chỉ do ta làm cho ta ô nhiễm hay trong sạch mà thôi.
Trong chiều hướng nầy, chúng ta thấy giáo lý của đức Phật luôn nhắc nhở chúng ta phải tự giác ngộ lấy mình. Nếu không tự giác ngộ lấy mình, thì bao nhiêu tật xấu sẽ dắt dẫn, chỉ huy, chi phối làm cho chúng ta trở nên xấu xa, ngu muội.
Chúng ta cũng như Đức Phật, nhưng Đức Phật đã giác ngộ rồi trong khi đó chúng ta thì chưa giác ngộ. Trong các nguyên nhân là cho chúng ta chưa giác ngộ, đức Phật đã dạy có ba nguyên nhân chính mà đức Phật gọi là ba thứ độc. Đó là: tham, sân và si.
- Tham là sự đam mê, ham muốn;
- Sân là sự thù hận, hung dữ, ghen ghét;
- Si là sự ngu muội.
Trong ba thứ đó ai ai cũng có. Chính ba thứ này là nguyên nhân, là tai hại mà nếu như chúng ta không sửa nó, thì nó sẽ làm cho tiêu tan mất sự nghiệp của chúng ta, làm cho con người cao sang của chúng ta trở thành thấp hèn, bị hạ giá, sa đọa... Cho nên Phật dạy phải trừ ba độc đó đi.
Muốn trừ ba thứ đó, muốn chỉ cho chúng sanh sự tai hại của nó, cho nên trong bài giáo lý đức Phật nói lần đầu cho hàng đệ tử của mình sau khi Ngài thành đạo, gọi là sơ Chuyển pháp luân. Đức Phật đã dạy về Tứ diệu đế mà chắc chắn trong chúng ta ai ai cũng biết. Trong đó Ngài dạy về sự thật thứ nhất, gọi là Khổ đế: Đời là khổ. Một bài thuyết pháp mà bây giờ những nhà trí thức khi nghiên cứu Phật giáo rất thán phục.
Đời là khổ. Nói như vậy, có những người mới nghe thì chối tai lắm. Đời có nhiều chuyện vui, cớ sao gọi là khổ! Đức Phật nói đời là khổ có nhiều thứ, như:
- Sự sống là khổ
- Già là khổ
- Bệnh là khổ
- Chết là khổ.
- Người nào mà mình ưa thích, vật nào mình ưa thích mà bị xa lìa thì khổ.
- Người nào mà mình oán hận, cái vật gì mà mình không ưa mà bị gặp mãi, đụng đầu mãi cũng khổ.
- Sự mong cầu mà không đạt được cũng khổ.
Những cái khổ đó tôi thiết tưởng rằng, trên đời này không ai dám nói rằng tôi không có các khổ đó. Xin được tiêu biểu một vài trường hợp. Chẳng hạn như:
- Những người giàu có, mỗi khi đau có thuốc chữa, đủ mọi thứ; ở trong nước chữa không được, đi ra ngoại quốc chữa, nhưng họ không thể chữa hết cái đau của chính họ được. Dù cố ý chữa cũng không thể khỏi cái đau được, như đau chân, bị cưa chân, nhất định là khổ.
- Bị mổ ruột là khổ.
- Già bị lẩm cẩm là khổ.
- Không muốn chết mà phải chết là khổ. Đó là cái khổ hiển nhiên chứ không ai có thể nói đó là sướng được.
- Rồi đến những điều yêu thích. Những điều đó không nằm luôn trong bàn tay ta được, thế nào cũng có lúc bay đi. Chính bản thân chúng ta là vật yếu quí nhất, nhưng nó cũng vuột đi, đó là một sự ái biệt ly khổ, điều ta yêu quí nhưng phải xa lìa là khổ.
- Rồi những điều ta ghét, tức là điều mà chúng ta không ưa, mà nó cứ sừng sững đi đến.
- Những điều thất bại, ta không ưa, những người ta ghét bỏ, ta không thích gặp, thế mà vẫn gặp, tránh ngả nào cũng không xong.
Quả thật là khổ, bởi vì ai ai trong chúng ta trên cuộc đời cũng đều có những thứ khổ đó. Không nhiều thì ít, không ai tránh được. Cho nên, đức Phật tổng kết lại: đời là khổ.
Đức Phật nói đời là khổ, không phải chỉ cho con người nhất là những người bạn trẻ, là thế hệ còn đang sức sống mảnh liệt một cái nhìn bi quan yếm thế, mà đó là khởi điểm để khởi hành cho cuộc hành trình đi tìm giác ngộ giải thoát của đức Phật. Cũng y như nói cuộc đời nô lệ, đó là khởi điểm cho những người đi làm cách mạng tiến tới nền độc lập tự do. Nếu không nhận thức rằng, mình là con người bị nô lệ, thì sẽ không có ai làm cách mạng hết. Nếu không ai thấy mình bị đau khổ, ràng buộc thì không ai đi tìm hạnh phúc và giải thoát. Có người chưa hiểu kịp, nói đạo Phật là đạo bi quan, yếm thế, mở miệng là nói khổ. Nhưng cái khổ của đạo Phật nói là khởi điểm để đi tìm giác ngộ.
Đối với Phật giáo, khổ không bao giờ được xem như, hoặc được trình bày như một giá trị. Khổ là cái phải diệt nó. Tất nhiên, phải thực tế, ai cũng nằm dưới định luật khổ. Thế thì, thay vì để cho khổ dẫm nát, chúng ta hãy dùng khổ để vươn lên, dùng khổ như là một khí cụ để học cách hiểu mình hơn và hiểu người khác hơn. Sửa đổi bên trong của chúng ta toàn vẹn, lìa ra khỏi khổ, điều đó rất cần thiết để phát triển từ bi và có lẽ sau đó một thái độ vị tha giúp người khác thoát khổ.
Những cái khổ đó có rất nhiều nguyên do, nhưng lý do chính vẫn ở nơi lòng ta mà ra, chính chúng ta. Đức Phật nói do tham ái, tham dục. Tham ái, tham dục, nói cách khách quan có nghĩa là:
- Đam mê cờ bạc, đam mê rượu chè, đam mê sắc dục, đam mê của cải, đam mê quyền lực... Bao nhiêu cái đam mê đó nó dày vò trong lòng mọi người.
Người đam mê cờ bạc, thấy sự đam mê cờ bạc không thỏa mãn được, không vui được thì chạy sang đam mê sắc dục. Thấy sự đam mê sắc dục không thỏa mãn, không vui được, thì chạy sang đam mê quyền lực. Lại cũng thấy không thỏa mãn không vui được, thì chạy sang đam mê khác, cuộc đời của một người với bao nhiêu đam mê như vậy, chắc chắn là một cuộc đời sa đọa, một cuộc đời gây nên tội ác. Vì những sự đam mê đó, cầu cho thỏa mãn đam mê. Muốn thỏa mãn đam mê không phải là một chuyện dễ, bởi vì không phải là chúng ta đam mê một cái gì là đều đạt được cái đó. Không phải là chuyện dễ nên mới đi tìm, tìm cách này không được chúng ta tìm cách khác.
Từ con người đang tốt trở nên con người xấu, ăn cắp ăn trộm, ăn hối lộ, bán hàng giả v.v... Thường thường, vì sự đam mê đó cho nên người ta nhiều khi tranh nhau, lừa gạt nhau... Vì sự đam mê đó mà làm cho tâm niệm tối tăm, cái lòng từ bi sáng suốt thu hẹp lại, hoặc bị mất đi. Vì vậy đức Phật nói sự đam mê tham dục là nguồn lực chính, cơ bản nhất của sự đau khổ.
Cụ Nguyễn Du có nói:
- Tu là cội phúc, tình là giây oan.
Tình đây không phải chỉ là tình ái, mà tình đây còn chỉ mọi sự đam mê đó.
Chúng ta biết rằng, những sự đam mê đó gây tai hại, khổ sở cho:
- Xã hội,
- Giới thanh niên,
- Trong học đường...
Cho nên đức Phật nói chính sự đam mê tham dục là nguyên nhân gốc rễ của đau khổ. Vậy, muốn trừ đau khổ thì trước hết chúng ta phải trừ đam mê ấy. Khi chúng ta đã trừ hết đam mê ấy rồi, thì tâm của chúng ta sẽ sáng suốt, chúng ta sẽ nhận thức được những việc của mình làm như thế nào có lợi, như thế nào đừng thất nhơn ác đức, như thế nào đừng gây thêm tai họa cho người khác. Nếu chúng ta tối mắt chạy theo cái đam mê đó, thì chúng ta không làm chủ được mình nữa. Một người say rượu, khi đó rượu làm chủ. Một người mê cờ bạc, sắc dục, khi đó thì cờ bạc, sắc dục làm chủ.....
Đức Phật cũng thường nói sự đau khổ vì do vô minh. Nếu phá hết vô minh thì được giác ngộ, khi giác ngộ thì hết đau khổ. Gọi là Vô Minh vì sự vật trước mặt ta rõ ràng như thế đó mà ta không nhận ra thực tướng của nó, lại nhận khác đi, cho nên gọi là vô minh. Hiểu một cách sai lầm, nhà Phật gọi đó là vô minh. Đây là cách hành xử sáng suốt của Đức Phật khi ngài còn tại thế: 
Lúc đức Phật còn tại thế, một hôm Ngài dẫn một đoàn đệ tử đi trên đường. Đi sau Ngài có hai thầy trò ngoại đạo. Thầy thì dùng mọi lời lẽ xấu xa, chỉ trích, chê bai Phật, chê bai đệ tử Phật. Còn người học trò của ngoại đạo thì dùng mọi lời lẽ hay ho khen Phật, khen đệ tử Phật, nhưng Đức Phật vẫn làm thinh không nói gì cả. Đến khi về tinh xá thụ trai xong, các vị đệ tử ngồi lại bàn tán:
- Họ khen chê như vậy mà đức Thế Tôn có nghe hay không! Nếu Ngài có nghe thì tại sao Ngài lại làm thinh không nói gì cả?
Chúng đệ tử thắc mắc. Đức Phật đi ngang qua nghe được liền hỏi các thầy bàn tán chuyện gì. Các thầy trả lời Phật:
- Các con bàn chuyện khi nãy. Có hai thầy trò ngoại đạo đi sau lưng, người thầy thì chê mà người trò thì khen. Không biết đức Thế Tôn có nghe không mà không thấy Ngài nói gì cả.
Phật dạy:
- Khi nghe ai khen không nên vội mừng, vội mừng thì bị sa đọa. Khi nghe ai chê cũng không nên vội buồn, vội buồn thì bị sa đọa.
Hãy bình tĩnh xét người khen đó có đúng với ta hay không đúng với ta. Sự bình tĩnh để diệt trừ vô minh quan trọng lắm. Có bình tĩnh thì mới sáng suốt, có bình tĩnh mới đối phó đúng đắn, nếu không có sự bình tĩnh, thì chúng ta sẽ xử sự sai. Thành thử đức Phật ra đời cốt là để khai thị cho chúng sanh những cái gì thấy trước mắt phải hiểu cho rõ, nhận thức cho đúng. Phải thay đổi cách suy tư của mình đối với sự vật. Khi đã hiểu rõ, nhận thức đúng rồi thì chúng ta sẽ có sự xử sự đúng. Xử sự đúng thì bao giờ cũng đem tới an vui lợi lạc. Lợi ích của đạo Phật là vậy. Người theo đạo Phật hiểu chừng nào, thực hành chừng nào thì càng thấy sự vui vẻ chừng đó.
Chính đức Phật là người đã tự giác. Giáo lý của Ngài đã dạy chúng ta sự tự giác, nhắc chúng ta phải làm chủ lấy mình, nhìn lại lòng mình, từng hành động của mình trong từng ngày, từng giờ có đam mê điều gì xấu xa, điều gì u tối, điều gì độc ác hay không, nếu có thì trừ diệt đi. Tự soi lại trong lòng mình, ngày nay có được điều thiện nào không, có nghĩ được điều tốt điều hay nào cho ai không? Nếu chưa có thì cố gắng phát huy. Nếu mỗi ngày mà mình tự tin, phản tỉnh lại mình như vậy thì chắc chắn chúng ta sẽ trở thành một con người sáng suốt, một con người hiền lành, con người có đạo đức. Nếu thiếu sự tự giác đó, thì tất nhiên chúng ta sẽ sa đọa mãi, mà khi đã sa đọa rồi thì không thể làm lợi cho ai được hết. Đạo Phật được gọi là đạo Giác ngộ cũng vì:
- Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn.
Những người đến với Phật giáo, nhất là những người bạn trẻ một khi đã hiểu và đã thấm nhuần giáo lý đạo Phật, người ấy sẽ thấy rằng, đến với Phật giáo thì tâm hồn sẽ mở rộng thêm chứ không phải thu hẹp lại. Tâm hồn sẽ sáng lên chứ không tối tăm lại, và tâm hồn chúng ta sẽ hiền ra chứ không phải độc ác. Đến với đạo Phật mà nếu đến với một sự chân thành và hiểu rõ, cộng với lòng ưa thích giáo lý của đức Phật, tất nhiên chúng ta sẽ trở nên con người tốt, thì cuộc đời của những bạn trẻ nầy là một vườn hoa thơm tinh khiết trong vườn hoa của nhân loại.
Tôi mong rằng những ai đến với đạo Phật, nhất là các bạn trẻ hiểu điều này để tự giác tỉnh. Trong đạo Phật có các pháp tu:
- Tụng kinh, niệm Phật, thiền tọa và kinh hành ...
Tất cả các phương pháp nầy đều là để tu luyện tâm tính, tập trung tư tưởng, lẽ tất nhiên sẽ giúp cho những ai biết hướng cuộc đời mình về hướng chân thiện mỹ. Tuy nhiên trong phạm vi giá trị của ngôi Chùa và tuổi trẻ, chúng tôi muốn nhấn mạnh, đối với những người bạn trẻ. Những người bạn trẻ nào tìm đến với ngôi Chùa là người bạn trẻ ấy đã định được hướng đi trong cuộc đời của mình. Vậy cho nên các bạn trẻ phải tập trung tư tưởng lại, không cho tư tưởng chạy qua việc khác, mà phải tập trung vào đường hướng lương thiện mà Thầy hiền bạn tốt đã chỉ dẫn. Chính sự tập trung, gom tất cả tư tưởng chạy loạn thì chúng ta sẽ có một sức mạnh tự chủ. Luyện tâm mình như người luyện võ, người đó luyện một cách thuần thục, tuyệt diệu rồi, thì khi bị đánh sau lưng anh đỡ sau lưng, đánh trước mặt anh đỡ trước mặt. Khi chúng ta có được cái tâm tự chủ định rồi, thì trước mọi hoàn cảnh đều có thể bình tĩnh đối phó được hết. Còn nếu như không, nhiều khi người ta vô tình nói lỡ một câu nói trái ý, thì chúng ta đã lồng lộn lên, và căm tức suốt mấy ngày. Vô tình mình mang lại cái khổ cho mình, mà không tự biết, rồi ngủ không được, ăn không ngon. Nếu như ta không có một sức bình tĩnh tự chủ, thì chúng ta sẽ đối phó sai lầm, mà đối phó sai lầm là tự chúng ta đau khổ. Nếu ta có một sức tự chủ, nhận xét, thì trước mọi sự ta sẽ sáng suốt để đối phó. Đó là điều mà chúng tôi muốn nhắc nhở những ai đến với đạo, nhất là những người bạn trẻ. Các bạn trẻ phải luôn luôn tự giác, mà muốn tự giác thì ta phải tập thêm một tính tự tin. Mỗi ngày nên để mười lăm hoặc hai mươi phút để ngồi lại, ngồi lắng lòng lại, gạt tất cả những chuyện hơn thua, hay dở, được mất ra ngoài ý nghĩ, gạt hết tất cả để cho tâm hồn của chúng ta được bình an, định tĩnh một lúc.
Ý nghĩa ở trong nhà Phật dạy chữ tự giác tức là dạy chúng ta điều đó. Muốn có tự giác thì hằng ngày phải để dành một thì giờ thật yên lặng. Trong giờ phút ấy không nên để chuyện gì vướng trong đầu hết, phải giữ cho tâm thật yên lặng, sáng suốt. Thân bình lặng, tâm bình lặng thì dễ sáng suốt.
Như trên tôi đã nói, đạo Phật đã ăn sâu và bám gốc rễ vào dân tộc Việt Nam trên hai nghìn mấy trăm năm nay, cho nên những đặc tính của Phật giáo đã thấm vào da thịt của mỗi người dân, đến nay vẫn còn ngấm ngầm tồn tại ở trong đó. Ngày nay mặc dù có nhiều người đi chùa, lạy Phật thì lạy chứ không hiểu Phật là sao, lời của Phật dạy thế nào. Nhưng họ vẫn đi chùa, vẫn lạy Phật, là vì sao:
- Một là vì truyền thống từ xưa đã huân tập thành chủng tử ở trong máu huyết của dân tộc chúng ta.
- Hai nữa là vì cái tình cảm, cái sự đối đãi của Phật giáo đối với dân tộc này có một sự hòa điệu.
Nói tóm lại, Đạo Phật đi đến với Việt Nam chúng ta một cách hiền lành, như người bạn quý đến với nhau, không có một cái gì mưu mô, thủ đoạn, hung dữ. Dân tộc chúng ta đã tiếp nhận đạo Phật và đạo Phật đã hòa nhập vào dân tộc chúng ta một cách êm thắm, và đã góp sức xây dựng cho nền độc lập vinh quang của Việt Nam. Thế nên, ngày nay trong máu, trong tâm, trong truyền thống gia tộc của chúng ta có không ít thì nhiều, không nhiều thì ít cái mầm Phật giáo đều có sẵn trong mỗi con người. Cho nên, từ chỗ đó nếu như chúng ta đến gần hơn để tìm hiểu đạo Phật nhiều hơn nữa, thì chúng ta là những người của thế hệ trẻ sẽ thấy ngày trước Tổ tiên chúng ta theo đạo Phật rất có ý nghĩa. Cũng vì sự nhận thức đúng đắn đó cho nên trên nền lịch sử Việt Nam, đạo Phật đã đóng góp một phần rất lớn, rõ rệt nhất là hai đời Lý, Trần mà bây giờ đây trong văn hóa, trong nếp sống và trong phong tục tập quán của dân tộc Việt Nam đã bàng bạc ý nghĩa cũng như tinh thần Phật giáo. Đó là một ảnh hưởng lớn, mà những người nào đã đến với Phật, chắc chắn đã hiểu rõ và đã thấy hình ảnh ca một ngôi Chùa có các đặc tính:
- Đạo Phật là đạo Từ bi, là đạo hiền lành, đạo vị tha và là đạo hòa bình... Vì sự tin tưởng đó, cho nên khi đến chùa, tự nhiên cảm thấy mình gần với đức Phật.
- Điều thứ hai là cảnh trí chùa chiền luôn luôn trang nghiêm, thanh tịnh, ở đó không có sự giành giật, mưu mô; không có sự lấn ép, dối gạt.
Chính những tinh thần đó bàng bạc trong cảnh chùa, ngấm ngầm nơi cây cỏ. Nên những người sẵn có thiện tâm khi đến cảnh chùa thấy tâm hồn mình khỏe khoắn, thanh thản. Có giận hờn ở bên ngoài bao nhiêu đi nữa, nhưng đến chùa tự biết rằng, đức Phật là từ bi, nhẫn nhục, dạy con người từ bi nhẫn nhục. Tự nhiên người ta cảm nhận được điều đó, mà sự thù hằn lúc ấy cũng vơi bớt đi. Ở ngoài tham lam đến mấy, độc ác đến mấy mà người ấy đến chùa biết đó là chỗ từ bi, hỷ xả, thì thế nào tâm hồn họ cũng nhẹ bớt chuyện tham lam độc ác ấy đi.
Vả lại, có những người khi thấy lòng mình bận rộn, bứt rứt, phiền não, họ liền tìm tới chùa. Nhìn Phật cũng được, lạy Phật hoặc không lạy cũng được, ngồi bên gốc cây hoặc ở một nơi nào đó, lắng lòng ngồi im lặng, liền tự thấy lòng mình an. Đó cũng là một lợi ích rất lớn. Lúc có những điều trong lòng bứt rứt, rối rắm, bất an, thì chính những lúc đó, tiền bạc không làm cho an được, mà chỉ có tinh thần vô ngã vị tha, tinh thần từ bi hỷ xả phá chấp của đức Phật mới đem lại sự an lòng cho chúng ta. Do đó, nhiều người đến với Phật nhất là những người trẻ, tự nhiên thấy lòng mình nhẹ nhàng, an lạc. Và cũng vì lẽ này, tinh thần Phật giáo được lan truyền và nhiều người từ già cho đến trẻ đều đến với Phật giáo, và ngôi chùa đã nghiễn nhiên trở thành chiếc nôi cho nên văn học Việt Nam:
- Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông.
--o0o--