|
TẬP SAN DƯỢC SƯ
-
Buông Bỏ Tâm Ích Kỷ
-
Nguyên Châu
-
--o0o--
-
-
Ích kỷ là một trong
những tánh xấu chỉ biết lo cho bản thân và gia đình, mà không cần
đến sự an nguy của người khác. Đây là lý do đã và đang xô đẩy nhân
loại vào con đường hủy diệt lẫn nhau. Đứng trước vực thẳm của sự
hủy diệt nầy con người đang tìm một lối thoát an toàn cho bản thân
và cho xã hội. Phật Giáo trong hoàn cảnh hiện tại có thể thỏa mãn
được nhu cầu nầy. Do vậy theo tình hình biến chuyển trong xã hội
hiện tại, chúng ta thấy càng lúc càng có nhiều người trên khắp thế
giới tin theo Phật Giáo. Để có đủ nhân sự hướng dẫn những người
bạn sơ cơ mới vào đạo, chúng ta cũng cần phải có sự hiểu biết vững
chãi để làm nơi nương tựa cho những người bạn đó. Vì vậy, vấn đề
này đã trở thành một đề tài rất quan trọng. Trong chiều hướng nầy,
mỗi người chúng ta cũng cần phải hiểu rõ về Phật Giáo. Là người
Phật Tử chúng ta cũng cần phải hiểu thêm rằng, bên cạnh một niềm
tin thuần túy chúng ta hiểu Phật Giáo là một tôn giáo, chúng ta
còn phải hiểu Phật giáo được xem là một nền giáo dục, đạo đức nhất
và hoàn hảo nhất do Ðức Phật truyền dạy.
-
Quả Thật như vậy, trước
hết chúng ta phải ghi nhận rằng Phật Thích Ca là Thầy của chúng
ta, và ngài là vị sáng lập Phật Giáo, và chúng ta là học trò của
ngài. Đức Phật là bậc trí huệ và giác ngộ. Trí huệ này không phải
như trí huệ của thế gian như chúng ta biết ngày nay, mà loại trí
huệ Phật là khả năng biết đúng và hiểu trọn vẹn về chân lý của
cuộc đời và vũ trụ trong ba thời:
-
- Quá khứ, hiện tại và
vị lai.
-
Người đã khai mở trí huệ
này thì được gọi là Phật. Phật Thích Ca nói rằng tất cả chúng sinh
đều có trí huệ và khả năng tiềm ẩn này. Vậy Phật giáo xem tất cả
chúng sinh đều bình đẳng. Mọi người bình đẳng với nhau từ khởi
thủy, nhưng hiện tại chúng ta không thấy như vậy, vì trí huệ và
khả năng của mỗi người đều khác nhau.
-
Như chúng ta đã biết,
trong cộng đồng xã hội, mỗi sinh loại đều có khả năng và căn cơ
khác nhau, người thì có nhiều khả năng, người thì không. Do vậy
Ðức Phật thường nói:
-
- Sở dĩ con người khác
nhau về khả năng và trí tuệ là do người ta khác nhau ở mức độ vô
minh.
-
Vì vô minh mà chúng ta
tạm thời mất trí huệ và khả năng nội tại của chính mình, nhưng
không thực sự bị mất vĩnh viễn. Nếu thoát khỏi vô minh thì chúng
ta sẽ có thể lấy lại được những khả năng này. Giáo lý của Ðức Phật
dạy chúng ta cách giải trừ vô minh và tìm lại những khả năng tiềm
ẩn của mình. Tìm lại được những gì được coi là tìm ẩn trong mỗi
người chúng ta, thì những ích kỷ hẹp hòi của chúng ta sẽ không còn
nữa.
-
Tuy là nguồn giáo lý
nhân bản của Đức Phật cao siêu tuyệt diệu, nhưng đức Phật vẫn luôn
luôn khuyến khích chúng ta, những ai muốn thành Phật thì cũng phải
tự mình nổ lực để thành đạt. Ðức Phật chỉ giúp đỡ bằng cách khai
thị cho chúng ta thấy nguồn gốc của sự vô minh, ích kỷ hẹp hòi.
Khi đã biết như vậy, chúng ta sẽ tinh tấn thực hành giáo lý của
ngài để tảo trừ vô minh, buông bỏ tâm ích kỷ để đạt đến giác ngộ
và thành Phật. Ðức Phật đã nói rằng tất cả chúng sinh đều có Phật
tính và đều có khả năng thành Phật là như vậy.
-
Bằng cách hướng dẫn nầy,
chúng ta có thể thấy Phật giáo là một nền giáo dục. Tuy nhiên, một
vị thầy chỉ có thể dạy chúng ta về những nguyên tắc, cho chúng ta
biết về những kinh nghiệm tu tập và chứng đắc của ngài, còn việc
ứng dụng và thực hành là tùy thuộc vào chính mình, vì vậy chúng ta
cần phải có sự nhiệt thành và tinh tấn để đưa đến thành tựu. Khi
hiểu rằng Phật giáo là một nền giáo dục, tự nhiên chúng ta sẽ xem
Ðức Phật là thầy của mình. Từ đó nếu chúng ta là người Phật Tử
chân chánh, chúng ta cũng hiểu rằng ở trong những ngôi chùa chúng
ta không nên coi tranh, tượng Phật, Bồ Tát là những vị thần cần
phải thờ phụng. Nhưng chúng ta vẫn dâng cúng những tranh, tượng
Phật, Bồ Tát bằng tâm chân chính và chí thành với hai lý do:
-
a- Lý Do Thứ Nhất
-
Là để nhớ ơn các Ngài đã
ban cho chúng ta một nền giáo dục vĩ đại, mà chúng ta đã may mắn
được thọ nhận trong kiếp này. Bởi vì như câu mở đầu trong kinh
điển có nói:
-
- Phật Pháp cao siêu rất
nhiệm mầu,
-
Trăm ngàn muôn kiếp khó
tìm cầu
-
Con nay nghe được chuyên
trì niệm
-
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa
nhiệm mầu.
-
Chúng ta nhớ ơn Ðức Phật
cũng giống như chúng ta nhớ ơn tổ tiên. Chúng ta nghĩ về nguồn gốc
của chúng ta và thấy rằng nếu không có ông bà cha mẹ thì cũng
không có chúng ta.
-
b- Lý Do Thứ Hai
-
Là chúng ta dâng cúng
Ðức Phật để làm theo gương đạo đức. Phật Thích Ca cũng là một
người bình thường giống như chúng ta, vậy mà ngài đã đạt giác ngộ,
cho nên chúng ta cố gắng tu tập thì cũng đạt được giác ngộ như
ngài. Vì vậy, tranh và tượng Ðức Phật nhắc nhở chúng ta cố gắng
đạt mục tiêu này.
-
Trong các ngôi chùa,
nhiều khi chúng ta thấy những vị Phật và Bồ Tát có nhiều hình dạng
khác nhau là vì chư Phật, Bồ Tát có nhiều danh hiệu khác nhau,
chẳng hạn như trong Kinh Vạn Phật có kể ra mười ngàn danh
hiệu của các vị Phật và nhiều danh hiệu khác nữa của các vị Bồ
Tát. Sở dĩ mà có nhiều vị Phật và Bồ Tát như vậy, là vì trong chân
tính của chúng ta có vô số những khác nhau về trí huệ, đạo đức, và
nghệ thuật mà nếu chỉ dùng một danh hiệu thì không thể nói lên hết
được. Danh hiệu của các vị Phật nói lên những đức tính hoàn hảo ở
bên trong chân tâm của chúng ta. Tên của các vị Bồ Tát nói lên sự
tu luyện những đức tính khác nhau. Bên trong chân tính của chúng
ta có vô số khả năng, nhưng chúng ta đã tạm thời bị mất những khả
năng đó. Nếu không biết tu tập đúng cách thì chúng ta sẽ không thể
tìm lại được. Danh hiệu của chư Phật, Bồ Tát không có gì là khác
với chính chúng ta. Khi hiểu điều này, chúng ta sẽ nhận thấy rằng
giáo lý của Ðức Phật được tượng trưng bằng một nền nghệ thuật rất
là cao.
-
Đối với người học Phật
chúng ta cần phải có trực giác sâu xa để hiểu đúng như thật của
đời sống và vũ trụ vạn vật. Tất cả các kinh Ðại Thừa đều có ý định
giải thích sự thật này. Khi chứng ngộ sự thật này chúng ta sẽ có
cùng tri kiến với Ðức Phật. Những người phàm phu như chúng ta đều
do vô minh, bởi vì chúng ta chỉ nhìn thấy sự khác biệt nhau của
vạn vật mà không biết rằng thực thể của vạn vật là một chứ không
phải là khác, do vậy mà chúng ta khởi lên lòng ích kỷ, chiếm hữu.
-
Như chúng ta đã biết mục
đích của Phật giáo là giải trừ vô minh, buông bỏ tâm ích kỷ, để
đạt đến giác ngộ. Ðức Phật nói cho chúng ta biết về nguyên nhân
của sự khổ và lý do có sự hiện hữu của sáu cõi luân hồi. Chúng ta
trôi lăn trong vòng sinh tử luân hồi là vì chưa khám phá ra những
khả năng trí huệ, và đức hạnh vốn có của chính mình. Như vậy chúng
ta đã có quan niệm và cách hành xử sai lầm với cuộc đời và vũ trụ,
và những sự sai lầm này gây ra mọi đau khổ trong vòng luân hồi.
-
Mục đích những lời dạy
của Ðức Phật là hướng dẫn chúng ta phá trừ vô minh đạt đến giác
ngộ và thoát khổ và tìm về quả vị Chánh Ðẳng Chánh Giác tức sự
giác ngộ viên mãn. Ðức Phật truyền dạy Giáo Pháp để chúng ta cũng
đạt giác được ngộ vô thượng và thành Phật. Có thể xem giác ngộ
viên mãn có ba giai đoạn mà người Phật Tử chúng ta thường ghi nhận
đó là ba thừa:
-
- La Hán,
-
- Bồ Tát,
-
- Phật
-
Nói đến sự giác ngộ chân
chính, như chúng ta đã biết, trên thế giới có những người rất
thông minh và khôn ngoan, như những nhà khoa học, những triết gia
và những nhà lãnh đạo tôn giáo. Họ đã đạt mức tri thức cao hơn
những người khác. Tuy nhiên, dù họ có thể đạt một mức hiểu biết
nào đó, Ðức Phật cũng không xem tri kiến của họ là sự giác ngộ
đích thực, vì họ chưa giải trừ được phiền não. Họ vẫn còn chấp vào
điều phải, và điều trái của người khác, vẫn còn tham, sân, si, và
kiêu ngạo, ích kỷ hẹp hòi. Họ vẫn còn những tư tưởng tán loạn,
phân biệt, và chấp thủ. Nói cách khác, tâm của họ xao động, không
thanh tịnh. Nếu tâm không thanh tịnh thì dù đạt được tri kiến cao
bao nhiêu cũng không phải là giác ngộ chân chính.
-
Trong Phật Giáo, tiêu
chuẩn của sự giác ngộ chân chính là tâm thanh tịnh, từ đó trí huệ
phát khởi. Chư Phật đều muốn chúng ta đạt sự giác ngộ chân chính
này. Các La Hán không còn những ảo tưởng, những ý nghĩ sai lầm hay
tà kiến. Các vị này không chấp vào điều phải hay điều trái của
người khác, cũng không có những ý nghĩ tham, sân, si, hay kiêu
ngạo, ích kỷ hẹp hòi.
-
Xét như vậy, chúng ta có
thể cảm nhận được sự khác biệt giữa Phật giáo và nền giáo dục
thông thường. Nhờ Phật giáo mà chúng ta được biết những giáo lý
thâm diệu và sự giác ngộ chân chính. Chỉ khi nào đạt được sự giác
ngộ đích thực này thì chúng ta mới thoát mọi đau khổ và hưởng hạnh
phúc thực sự. Là con người, chúng ta đều phải chịu những nỗi khổ
sinh, lão, bệnh, tử. Chúng ta không có được những gì mình muốn có,
phải sống xa cách những người mình thương yêu, và phải sống chung
đụng với những người mình ghét. Chúng ta bị bủa vây bởi tất cả
những sự đau khổ này mà không có cách nào để thoát khỏi chúng. Chỉ
khi nào đã học Phật Pháp, chúng ta mới có thể đạt giải thoát thực
sự.
-
Kinh Hoa Nghiêm có dạy
rằng:
-
- Tất cả chúng sinh đều
có những khả năng về trí huệ và đức hạnh giống như Ðức Phật, nhưng
do vọng niệm và chấp thủ mà đã mất những khả năng này.
-
Ðó là nguyên nhân của
mọi vấn đề của chúng ta. Tu tập theo Phật giáo là áp dụng lời dạy
của Ðức Phật để giải trừ mọi vọng niệm, mọi ý nghĩ phân biệt và
chấp thủ, buông bỏ tâm ích kỷ hẹp hòi. Chúng ta sẽ giữ cho tâm
chúng ta thanh tịnh để trí huệ phát sinh. Ðó là sự giác ngộ chân
chính. Vì vậy, chư Phật, Bồ Tát không nói đến sự thông minh và trí
khôn của thế gian, vì nó không phát xuất từ tâm thanh tịnh. Khi
đạt được sự giác ngộ chân chính, chúng ta sẽ có khả năng giải
quyết những hẹp hòi ích kỷ, vấn đề hằng ngày cũng như khả năng
vượt thoát luân hồi.
-
Trong nền giáo dục thông
thường của thế gian, để có thể đạt đến thành tựu, người học phải
theo đuổi riêng một ngành học nào đó. Trong nền giáo dục Phật giáo
cũng vậy, người có ý nguyện đạt thành tựu đạo quả phải theo học
với một vị thầy và thực hành một pháp môn duy nhất. Nếu theo học
hai vị thầy với hai pháp môn khác nhau, chúng ta sẽ lưỡng lự giữa
hai ngã đường. Tệ hại hơn nữa, nếu theo học ba vị thầy một lúc,
chúng ta sẽ đứng lại ở ngã ba đường. Với bốn vị thầy, chúng ta sẽ
hoang mang ở giữa ngã tư đường là chuyện thường xảy ra.
-
Ngày nay, giới trẻ muốn
học nhiều nhưng lại không đạt được kết quả tốt, vì họ đang bị kẹt
ở giữa những ngã đường này, không biết phải đi theo đường hướng
nào. Ðể thành công và đạt thành tựu trong quá trình tu học Phật,
chúng ta cần phải nhất tâm theo học một vị thầy và tập trung tâm
trí vào một pháp môn mà thôi.
-
Thành tựu mà chúng tôi
muốn nói, đích thực là đạt được tâm thanh tịnh. Khi đã đạt được
một mức độ thanh tịnh nào đó, chúng ta sẽ giảm bớt phiền não và
trí huệ đích thực được gia tăng, đồng thời cũng có khả năng giải
quyết mọi vấn đề trong thế gian này cũng như ngoài thế gian. Nếu
không có trí huệ đích thực này thì không thể thực sự giải quyết
được những vấn đề.
-
Vậy, trí tuệ chân thực
là điều thiết yếu để đạt đời sống hạnh phúc và mãn nguyện. Ở tầm
mức lớn hơn, trí tuệ này có thể giúp chúng ta giải quyết những vấn
đề của xã hội.
-
Trong thời đại này, có
những nhà chính trị tự cho rằng mình là người rất khôn ngoan,
nhưng kỳ thực họ đã đưa đất nước của họ tới bờ vực tai họa, làm
cho nhân loại chịu nhiều khốn khổ. Tại vì những nhà lãnh đạo này
đã không bỏ được những phiền não, những vọng niệm, những phân
biệt, chấp thủ và tâm tình ích kỷ hẹp hòi của mình. Họ chỉ nghĩ
tới quyền lợi bản thân một cách vị kỷ, ngã chấp.
-
Ðức Phật dạy chúng ta
đạt trí tuệ đích thực bằng cách trước hết thoát ra khỏi những tà
kiến của mình. Nếu không có loại trí tuệ này, chúng ta sẽ không
hiểu đúng ý nghĩa trong kinh sách Ðại Thừa. Nếu có thể buông bỏ
tâm ích kỷ hẹp hòi thì chắc chắn chúng ta sẽ đạt được ích lợi thực
sự. Vì chỉ khi nào không còn tâm ngã chấp thì chúng ta mới có khả
năng nhận xét:
-
- Sự thật và sự giả,
-
- Điều đúng và điều sai,
-
- Phải và trái,
-
- Điều lợi ích và điều
độc hại.
-
Nếu không phá bỏ những
ích kỷ hẹp hòi, tà kiến của chúng ta thì chúng ta sẽ không có khả
năng giác ngộ đích thực.
-
Ở mức cao hơn, giác ngộ
chân chính là Chánh Ðẳng Chánh Giác. Chánh Ðẳng là bằng với Phật
nhưng chưa thành Phật. Cấp này cao hơn cấp La Hán. Chánh đẳng giác
đòi hỏi chúng ta giải trừ một mức độ vô minh và đạt được một mức
độ Pháp thân. Ở mức này, tri kiến của chúng ta về cuộc đời và vũ
trụ rất gần với tri kiến của chư Phật. Người đạt được chánh đẳng
giác thì được gọi là Bồ Tát. Kinh Hoa Nghiêm nói về bốn mươi mốt
cấp Bồ Tát, tất cả đều có những mức giác ngộ này. Sau khi đã giải
trừ trọn vẹn vô minh, hoàn thiện hóa trí huệ và giác ngộ, chúng ta
sẽ đạt giác ngộ viên mãn tức Phật.
-
Khi hiểu ý nghĩa của
Phật Giáo, chúng ta sẽ thấy rằng mục đích của việc thực hành tu
tập là đạt trí huệ. Trong Thiền Tông, mục tiêu này được gọi là:
-
- Minh tâm kiến tánh tức
giác ngộ viên mãn.
-
Trong Tịnh Ðộ Tông, điều
này được gọi là:
-
- Nhất tâm bất loạn.
-
Riêng về Tịnh Ðộ Tông,
độc đáo ở chỗ chúng ta không những chỉ tu tập để đạt nhất tâm bất
loạn mà còn để được vãng sinh Tịnh Ðộ. Các tông phái khác thì dựa
vào tự lực để đạt một mục tiêu mà thôi. Pháp môn Tịnh Ðộ có hai
mục tiêu để đạt ngay trong kiếp này. Người nào quen thuộc với Kinh
Vô Lượng Thọ và hiểu ý nghĩa của kinh này sẽ thoát khỏi mọi nghi
ngờ. Tên đầy đủ của cuốn kinh này nói lên những mục tiêu của việc
tu tập đó là:
-
- Phật nói Kinh Ðại Thừa
Vô Lượng Thọ Trang nghiêm, Thanh Tịnh, Bình Ðẳng, và Giác Ngộ.
-
Thọ mạng vô lượng và sự
trang nghiêm là mục tiêu của những ai thực hành pháp môn nhị lực:
-
- Vô lượng thọ hàm ý đức
hạnh của chân tính của hành giả.
-
- Trang nghiêm là trí
huệ viên mãn với sự tự tại và mãn nguyện.
-
Như vậy, thanh tịnh,
Bình đẳng, và Giác ngộ là ba phương tiện thực hành. Khi đạt được
một điều thì đạt được cả ba điều này. Trong tất cả các tông phái
Phật Giáo, không có phương tiện nào vượt qua ba phương tiện này,
chẳng hạn như.
-
- Thiền Tông dùng pháp
thức tỉnh để đạt đại giác ngộ, và sự trong sáng nhìn thấy chân
tính của mình.
-
- Các tông phái khác chú
trọng sự hiểu biết chân chánh cho tới khi đạt tri kiến hoàn hảo.
-
- Tịnh Ðộ Tông thì tập
trung vào việc tịnh hóa tâm trí.
-
Người có tâm thanh tịnh
thì sẽ tự nhiên vô phân biệt và thức tỉnh. Người thức tỉnh thì sẽ
tự nhiên có tâm thanh tịnh và không còn phân biệt. Những con đường
này có thể khác nhau, nhưng đều dẫn tới cùng một mục tiêu. Trong
Thiền Tông, mục tiêu này được gọi là:
-
- Minh tâm kiến tánh.
-
Các tông phái khác dùng
những ngôn từ khác nhau, nhưng kết quả hai mức trạng thái tâm đạt
được là một. Cho nên, nếu chúng ta chỉ trích những tông phái khác
là phỉ báng Ðức Phật, cũng như giáo pháp của Ngài. Vì tất cả những
pháp môn này đều do Ðức Phật truyền dạy cho chúng ta. Chúng ta hãy
chọn một pháp môn nào thích hợp với mình để tu tập và thành tựu,
mà chúng ta không nên nói pháp môn này tốt hơn pháp môn kia. Nếu
pháp môn mình chọn quá cao sẽ khó thực hành. Một pháp môn cần phải
thích hợp và thuận tiện cho lối sống của chúng ta. Pháp môn đó
cũng cần phải khế hợp với xã hội ngày nay, vì chúng ta không thể
xa rời xã hội hay người khác. Vậy chúng ta cần phải xét những điều
này khi chọn một pháp môn để tu tập.
-
Tuy nhiên, dù áp dụng
pháp môn nào đi nữa, chúng ta cũng cần phải giải trừ ngã chấp và
pháp chấp, nghĩa là phải buông bỏ tâm ích kỷ để có thể đạt được
lợi ích trong tu tập. Nếu không như vậy thì dù có hết sức hành trì
thì cũng vô ích. Có những người cảm thấy sau nhiều năm tu tập mình
vẫn gần như không thành tựu gì cả. Có khi họ còn cảm thấy mình
thua kém hơn lúc chưa tu tập. Có nhiều khi càng tu tập chúng ta
càng cảm thấy tệ hơn. Tất cả những điều này là do chúng ta đã chọn
một pháp môn không thích hợp với mình, cũng giống như ở trường học
người ta chọn một môn học không thích hợp với căn cơ hay khả năng
của mình, và như vậy sẽ rất khó thành công trong việc học. Chọn
đúng môn học thì việc học sẽ dễ dàng hơn, và có nhiều cơ hội thành
đạt hơn. Tu tập theo Phật giáo cũng vậy, nếu không biết khả năng
của mình, chúng ta có thể tự trắc nghiệm.
-
Sau khi đã hiểu rõ mục
đích của Phật giáo, có lẽ chúng ta sẽ nhìn kinh điển với một nhãn
quan khác trước. Trong đó cho chúng ta hiểu biết rằng, Kinh điển
Phật giáo là một trong những bộ sưu tập văn học lớn nhất thế giới.
Chúng tôi tin rằng, khi xét tất cả những học thuật, chúng ta sẽ
thấy không có học thuật nào vượt qua Phật Giáo. Ðể có thể thọ nhận
lợi ích từ kinh điển Phật giáo, chúng ta cần phải biết và hiểu ý
nghĩa nội dung của những cuốn kinh này, vốn là chân lý của Giáo
Pháp:
-
- Chân lý của cuộc đời
và vũ trụ vạn vật.
-
- Cuộc đời, hay nhân
sinh, là con người chúng ta.
-
- Vũ trụ là môi trường
sống xung quanh chúng ta.
-
Do vậy, nếu cho rằng
Phật giáo là những giáo lý trừu tượng, khó hiểu, không ăn nhằm gì
tới đời sống hằng ngày thì như vậy là không đúng. Phải biết rằng
mỗi lời kinh đều liên quan mật thiết tới đời sống hằng ngày của
chúng ta. Hơn nữa, kinh điển Phật giáo chắc chắn không phổ biến
những điều mê tín dị đoan. Quả thật như vậy, điều nầy đã được các
đệ của Đức Phật thực hành từ hơn hai ngàn năm trăm năm trước, thời
điểm đó Phật giáo đã dùng biểu tượng học và mỹ học để truyền bá
giáo lý. Tiêu biểu rõ ràng nhất là tất cả những danh hiệu và hình
tượng Phật đều tượng trưng những đức tính và những tài năng mỹ
thuật của con người chúng ta. Tất cả các danh hiệu và hình tượng
Bồ Tát đều tượng trưng sự tu luyện của chúng ta, nói lên cho chúng
ta biết cách ứng dụng giáo lý trong đời sống hằng ngày và làm hiển
lộ những tự tánh của mình.
-
Theo Phật giáo Ðại Thừa,
chúng ta có bốn vị Ðại Bồ Tát mà chúng ta thường nhắc nhở và quán
chiếu để làm đối tượng trưng cho trình tự tu tập và chứng đắc:
-
1- Bồ Tát Ðịa Tạng.
-
Dù là giáo lý thế gian,
hay Phật Pháp, không có gì có thể được thành tựu nếu không có đất
sống hay một nơi để cư ngụ. Sự hiện hữu của con người sống không
thể tách rời khỏi đất, vì chúng ta nương tựa vào trái đất để tồn
tại. Thực phẩm, y phục, đời sống hay công việc, tất cả đều dựa vào
sựÕsản sinh của đất. Vậy, những kho tàng vô tận ở trong đất là
dành cho chúng ta sử dụng. Chữ địa trong danh hiệu Bồ Tát Ðịa Tạng
có nghĩa là tâm trí, và chữ tạng có nghĩa là kho tàng.
-
Giáo lý của Ðức Phật dạy
chúng ta bắt đầu việc thực hành tu tập ở tâm, vốn là chân tánh bao
gồm trí huệ vô lượng và những khả năng đạo đức không khác trí huệ
và đức hạnh của chư Phật, Bồ Tát. Tuy nhiên, ngày nay hình như
chúng ta đã mất trí huệ và đức hạnh vốn có của mình. Nhưng Ðức
Phật nói rằng những phẩm tính đó không mất thực sự, nhưng mà chưa
được chúng ta khám phá. Hiện tại, chúng ta đang chìm đắm trong
những ý nghĩ tán loạn, phân biệt, và những tham muốn, ích kỷ hẹp
hòi, vì vậy mà chúng ta tạm thời bị mất những khả năng lúc ban đầu
của chúng ta. Như vậy bên trong chân tâm thì không có những ý nghĩ
xao động nào cả, nhưng nếu tâm trí có những vọng niệm thì đó là
giả tâm chứ không phải là chân tâm. Chúng ta vốn đã có chân tâm,
vì vậy thực hành tu tập là chỉ để làm hiển lộ chân tâm này. Vậy,
mục tiêu đích thực của việc tu tập là tìm kiếm và khai mở kho tàng
trong tâm của mình. Phật giáo không tìm cái gì ở bên ngoài mà chỉ
tìm cái ở bên trong chân tánh của mình. Bồ Tát Địa Tạng còn là
biểu tượng của hạnh hiếu thảo.
-
2- Bồ Tát Quan Thế Âm
-
Bồ Tát Quán Thế Âm tượng
trưng cho sự trưởng dưỡng đại bi tâm. Do vậy việc dâng cúng Bồ Tát
Quan Âm, có nghĩa là chúng ta tự nhắc nhở mình nên phát tâm đại từ
bi với tất cả mọi người, giúp đỡ chúng sinh một cách vô điều kiện.
-
3- Bồ Tát Văn Thù,
-
Đức Bồ Tát Văn Thù tượng
trưng trí huệ và lý trí, nhắc nhở chúng ta trong thực hành tu tập,
cũng như trong việc cư xử với người khác, chúng ta cần phải thực
hiện bổn phận hiếu kính, phải dựa vào trí huệ và lý trí chứ không
dựa trên những cảm xúc nhất thời.
-
4- Bồ Tát Phổ Hiền,
-
Bồ Tát Phổ Hiền tượng
trưng sự thành tâm tu tập, ứng dụng đạo hiếu, từ bi, và lý trí
trong đời sống hằng ngày. Khi thành tựu viên mãn đạo pháp của Bồ
Tát Phổ Hiền, chúng ta sẽ thành Phật. Phật giáo dạy chúng ta cách
sống hợp với chân lý của cuộc đời, và vũ trụ vạn vật, tức là sống
một đời sống hoàn hảo giống như đời sống của chư Phật, Bồ Tát. Ðó
là giáo lý Ðại Thừa đích thực, vô thượng và hoàn hảo.
-
Do vậy muốn buông bỏ tâm
ích kỷ chúng ta tu theo Phật Giáo, và chúng ta phải bắt đầu bằng:
-
- Mở rộng tâm trí
-
- Phát tâm từ bi
-
- Trưởng dưỡng tư duy và
trí tuệ.
-
- Hiếu kính với cha mẹ,
các vị thầy và những bậc trưởng thượng,
-
Tuy được xếp theo thứ tự
trước sau những điều này có thể được thực hành cùng một lúc, vì
điều này bổ túc cho điều kia. Thí dụ, có hiếu với cha mẹ, bao gồm
từ bi, lý trí và trí huệ. Trí huệ bao gồm hiếu kính và từ bi.
-
Khi đã hiểu tổng quát về
Phật Giáo, thì chúng ta phải biết làm sao để ứng dụng sự hiểu biết
này trong sinh hoạt hằng ngày. Do vậy, để cho việc thực hành của
chúng ta có kết quả, trước và trên hết chúng ta nên coi Đức Phật
là bậc Thầy khả kính hơn là một vì toàn năng có quyền ban phước
giáng họa. Bởi vì nếu chúng ta coi Ngài là một bậc Thầy khả kính
thì chúng ta sẽ cảm thấy gần gủi và dễ học hỏi hơn, trong khi đó
nếu chúng ta coi Ngài là đấng siêu nhân thì chúng ta chỉ tùy thuộc
vào sự ban phước giáng họa, rốt cuộc chúng ta tánh nào tật nấy tu
muôn kiếp mà không trừ bỏ được tham sân si chấp ngã của chúng ta.
Bên cạnh đó chúng ta cũng cần phải biết ý nghĩa hình tượng của mỗi
vị Phật, và mỗi vị Bồ Tát tượng trưng cho điều gì. Nếu không biết
như vậy thì giáo lý Phật giáo chỉ là sự mê tín, không mang lại một
lợi ích nào cả. Tất cả những bộ kinh Phật giáo đều chứa đựng những
phẩm tính, những đặc điểm và những cách tu tập này. Chúng ta cần
phải hiểu và biết cách ứng dụng những giáo lý một cách hiệu quả,
mà qua đó là những biểu tượng của các hình tượng Phật và Bồ Tát.
Chẳng hạn như ở giữa chánh điện của một ngôi chùa là một pho tượng
Phật và hai tượng Bồ Tát hai bên. Cách thờ phượng nầy là tượng
trưng chân tánh và bản thể của mỗi chúng ta. Nếu pho tượng ở giữa
là Phật Thích Ca thì haiÕtượng ở hai bên là Bồ Tát Văn Thù và Bồ
Tát Phổ Hiền.
-
- Thích Ca Mâu Ni tức là
nói lên những nguyên lý của nền giáo dục Phật Giáo. Thích Ca nghĩa
là năng nhơn, năng tức là năng lực và nhơn nghĩa là từ bi. Mâu Ni
nghĩa là tịch mặc, vắng lặng và thanh tịnh. Hai phẩm tính này được
đề cao vì thế gian này thiếu từ bi và thường ích kỷ, cho nên tâm
thường không vắng lặng, thanh tịnh, và luôn luôn xao động với
những tham, sân, si, và ganh tị.
-
- Văn Thù tượng trưng
trí huệ,
-
- Phổ Hiền tương trưng
cho phương tiện ứng dụng, sự hiểu biết và sự thực hành, và như vậy
là tri và hành hợp nhất.
-
Nếu pho tượng Phật trong
chánh điện là Phật A Di Ðà tượng trưng chân tánh, hai tượng hai
bên là Bồ Tát Quan Âm và Bồ Tát Ðại Thế Chí. Bồ Tát Quan Âm tượng
trưng đại từ bi. Bồ Tát Ðại Thế Chí tượng trưng đại trí huệ. Hai
vị là sự phối hợp trí huệ và từ bi biểu trưng cho phẩm tính trong
mỗi chúng ta.
-
Nói tóm lại, nguồn giáo
lý nhân bản, cũng như tên và hình tượng của các vị Phật và Bồ Tát,
đều có những ý nghĩa giáo dục thâm diệu trong công cuộc giúp chúng
ta tu tập để minh tâm kiến tánh thành Phật. Nhưng có lẽ điều lợi
ích trước nhất là diệt trừ, hay buông bỏ tâm ích kỷ là một trong
những tánh hư tật xấu của chúng ta, thì việc kiến tánh thành Phật
sẽ không còn khó khăn xa vời nữa.
--o0o--
|
|