|
TẬP SAN DƯỢC SƯ
-
Thương Nhau Vì Lời Nói
-
Ngọc
Liên
-
--o0o--
-
-
Trong
cuộc sống tương đối, quan niệm về bề ngoài chúng ta có thể nhìn
thấy:
-
- Đẹp
người, tánh tình và lời nói dễ thương.
-
- Đẹp
người, tánh tình và lời nói khó thương
-
- Xấu
người, tánh tình và lời nói không dễ thương
-
- Xấu
người, tánh tình và lời nói dễ thương.
-
Trong bốn
cách nhìn người, đẹp người, tánh tình và lời nói dễ thương là
tiêu chuẩn được lựa chọn hàng đầu, và kế đến là người xấu nhưng
tánh tình và lời nói dễ thương cũng có thể chấp nhận được. Bởi
vì lời nói dễ thương là cách biểu lộ đẹp nhất trong mọi cung
cách hành xử để có thể tạo niềm thương yêu quý mến cho nhau.
-
Lời nói
dễ thương để tạo sự thương mến lẫn nhau, theo thuật ngữ Phật
Giáo gọi là Ái Ngữ. Lời nói dễ thương là phương tiện giáo hóa
của bậc Bồ Tát để tiếp cận với mọi người. Lời nói dễ thương cũng
lời lẽ mền mỏng tùy thuận theo các căn cơ, tình ý của con người
mà an ủi, khai giảng dẫn dụ, tất nhiên được đối tượng vui vẻ mà
nghe theo.
-
Bằng cách
nầy, về mặt tích cực, Đức Phật cũng dạy rằng chúng ta phải cố
gắng tu tập để có những lời nói chân thật, hòa hợp, dịu dàng, và
có ý nghĩa. Khi thực tập được những lời nói nầy, chúng ta sẽ
được nhiều người quý mến. Để đáp lại, họ sẽ lắng nghe những gì
ta nói ra, và sẽ đáp ứng thân thiện và xây dựng. Trong Tăng Chi
Bộ Kinh Đức Phật dạy có bốn pháp tịnh hạnh về lời nói:
-
1- Từ Bỏ
Nói Láo.
-
Nếu không
biết, người ấy nói:
-
- Tôi
không biết.
-
Nếu biết,
người ấy nói:
-
- Tôi
biết.
-
Nếu không
thấy, người ấy nói:
-
- Tôi
không thấy.
-
Nếu thấy,
người ấy nói:
-
- Tôi
thấy.
-
Như vậy
lời nói của người ấy không trở thành cố ý vọng ngữ, hoặc nguyên
nhân vì mình, hoặc nguyên nhân vì người, hoặc nguyên nhân vì một
vài quyền lợi gì.
-
2- Từ Bỏ
Nói Hai Lưỡi.
-
Nghe điều
gì ở chỗ này, người ấy không đi đến chỗ kia nói, để gây chia rẽ
ở những người này. Nghe điều gì ở chỗ kia, người ấy không đi nói
với những người này, để gây chia rẽ ở những người kia. Như vậy
người ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, tăng trưởng những kẻ hòa
hợp, thích thú hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp.
-
3- Từ Bỏ
Lời Nói Độc Ác.
-
Người ấy
chỉ dùng những lời nói nhu hòa, êm tai, dễ thương, thông cảm đến
tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui ý nhiều người.
-
4- Từ Bỏ
Lời Nói Phù Phiếm.
-
Người ấy
nói đúng thời, nói chân thật, nói có ý nghĩa, nói Pháp, nói
Luật, nói những lời đáng được gìn giữ. Vì nói hợp thời, nên lời
nói thuận lý, có mạch lạc, hệ thống, lợi ích.
-
Cũng có
trường hợp, khi chúng ta nói chân thật và lễ độ mà vẫn chạm đến
tự ái của kẻ khác, khiến họ phật lòng. Tuy thế, đôi khi cần phải
nói sự thật dù có mất lòng nhưng hữu ích, có khả năng đem đến
lợi lạc trên đường tu tập. Trong Kinh Trung Bộ, Vương tử Vô Úy
hỏi Đức Phật rằng:
-
- Có khi
nào lời nói của Ngài làm phật ý người khác hay không.
-
Đức Phật
trả lời:
-
- Này
Vương tử Vô Úy, lời nói nào Như Lai biết không như thật, không
như chân, không tương ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến
những người khác không ưa, không thích. Như Lai không nói lời
nói ấy.
-
- Lời nói
nào Như Lai biết là như thật, như chân, không tương ứng với mục
đích, và lời nói ấy khiến những người khác không ưa, không
thích, Như Lai không nói lời nói ấy.
-
-
Lời nói
nào Như Lai biết là như thật, như chân, tương ứng với mục đích,
và lời nói ấy khiến những người khác không ưa, không thích. Ở
đây, Như Lai biết đúng thời mà giải thích lời nói ấy.
-
- Lời nói
nào Như Lai biết là không như thật, không như chân, không tương
ứng với mục đích, và lời nói ấy khiến những người khác ưa thích,
Như Lại không nói lời nói ấy.
-
- Lời nói
nào Như Lai biết là như thật, như chân, không tương ứng với mục
đích, và lời nói ấy khiến những người khác ưa và thích, Như Lai
không nói lời nói ấy.
-
- Và lời
nói nào Như Lai biết là như thật, như chân, tương ứng với mục
đích, và lời nói ấy khiến những người khác ưa và thích. Ở đây,
Như Lai biết đúng thời mà giải thích lời nói ấy.
-
Như thế,
chúng ta thấy rằng Đức Phật chọn đúng thời để giảng dạy người
khác, với những lời lẽ như thật, như chân, đưa đến mục đích giải
thoát giác ngộ, cho dù lời ấy được người nghe ưa thích hoặc
không ưa thích.
-
Theo kinh
Lời Nói trong Tăng Chi Bộ Kinh, Đức Phật giảng 5 yếu tố của một
lời nói thiện lành như sau:
-
Thành tựu
năm chi phần, này các Tỳ kheo, các lời là thiện thuyết, không
phải ác thuyết, không có phạm tội và không bị những bậc Hiền trí
chỉ trích. Năm cách nói đó là:
-
1- Nói
Đúng Thời: Có khi một lời chân thật nhưng không được phát biểu
đúng lúc thì thành ra vô ích, hoặc làm cho người khác bực mình.
Người thiện trí phải tế nhị để áp dụng lời nói của mình đúng
chỗ, đúng lúc.
-
2- Nói
Đúng Sự Thật:
-
Bậc thiện
tri thức nói một lời phải dựa trên sự thật, không ngụy biện,
không lừa dối.
-
3- Nói
Lời Nhu Hoà:
-
Lời nói
cần phải dịu dàng, lễ phép, tạo không khí hòa hợp.
-
4- Nói
Lời Đem Đến Lợi Ích:
-
Lời nói
phải có mục đích và ý nghĩa của nó, dù là lời chân thật nhưng
không có mục đích đem lại lợi ích cho ai, thì đó cũng chỉ là lời
nói nhảm, vô dụng.
-
5- Nói
Lời Với Từ Tâm:
-
Lời nói
phải phát xuất từ tấm lòng thương yêu, cẩn trọng.
-
Ðức Phật
rất chê trách những cuộc nói chuyện huyên thuyên, phí thời gian
vô ích. Những lời gièm pha và đồn đãi không đem đến lợi lạc gì,
vì chúng làm quấy động sự yên tĩnh và định tâm. Ngài cũng giảng
thêm rằng người ta không thể trở thành bậc trí chỉ vì nói nhiều,
cũng không phải vì nói nhiều mà người ta được gọi là bậc lão
thông Phật Pháp như trong các câu Pháp Cú sau đây:
-
- Dầu nói
ngàn ngàn lời,
Nhưng không gì lợi ích,
Tốt hơn một câu nói
-
Nghe
xong, được tịnh lạc.
-
- Không
phải vì nói nhiều,
Mới xứng danh bậc trí.
An ổn, không oán sợ
-
Thật đáng
gọi bậc trí.
-
- Không
phải vì nói nhiều,
Là thọ trì chánh pháp.
Người nghe ít diệu pháp,
Nhưng trực nhận viên dung,
Tâm tánh không buông lung
Là thọ trì chánh pháp.
-
Tâm tánh không buông
lung
-
Là thọ trì Chánh Pháp.
-
Như chúng ta đã biết,
lời nói có một ảnh hưởng vô cùng quan trọng, vì là tình cảm con
người thương và quý mến nhau vì lời nói, cho nên lời nói không
những tác động đến đời sống hạnh phúc của mỗi cá nhân, mà còn có
thể tác động đến sinh hoạt của xã hội. Nếu có tỉnh giác và định
hướng tốt, lời nói qua các cuộc đàm luận, giao tiếp hằng ngày,
sẽ mang đến nhiều lợi ích cho sự tu tập của những người con Phật
chúng ta. Chính vì thế mà Đức Phật đã đưa lời nói dễ thương vào
Bốn Nhiếp Pháp, con đường Bốn Nhiếp Pháp là một trong những chi
phần dẫn đến giải thoát giác ngộ.
Trong khi đó tục ngữ Việt Nam có câu:
-
- Lời nói chẳng mất
tiền mua.
-
Lựa lời mà nói cho vừa
lòng nhau.
-
Chúng ta chỉ cần cân
nhắc lựa lời là có thể làm cho người khác đẹp lòng. Dùng ngôn
ngữ cho có chánh niệm, với tâm Từ, là thực tập hạnh rộng rãi,
hiến tặng. Chỉ cần thực tập lời nói dễ thương là chúng ta đã có
thể làm cho nhiều người hạnh phúc.
-
Nhiều người nghĩ rằng
họ chỉ có thể thực tập hạnh hiến tặng khi nào họ đã tích tụ được
một món tài sản nho nhỏ. Những người trẻ mơ được giàu có để có
thể mang hạnh phúc lại cho người khác:
-
- Tôi muốn trở thành
bác sĩ, hay thành giám đốc một công ty lớn để có thể làm thật
nhiều tiền và giúp nhiều người.
-
Con người chỉ biết
nghĩ như vậy, mà không biết rằng thường khi đã giàu người ta lại
khó thực tập hạnh bố thí hơn. Nếu chúng ta được thúc đẩy bởi tâm
từ bi, thì có rất nhiều cách để mang hạnh phúc lại cho kẻ khác
ngay bây giờ, và việc đầu tiên là bắt đầu bằng ngôn ngữ dễ
thương. Cách chúng ta nói có thể mang lại cho người khác niềm
vui, hạnh phúc, sự tự tin, hy vọng, lòng tin, và giác ngộ. Nói
năng có chánh niệm là một thực tập sâu sắc.
-
Bồ Tát Quan Thế Âm là
một người đã học được nghệ thuật nghe, và nói một cách sâu sắc
để giúp con người buông đi những sợ hãi, khổ đau, và tuyệt vọng
của mình. Ngài là mẫu mực của phép tu tập này. Nếu thực tập nghe
và nói theo hạnh Bồ Tát Quan Thế Âm, chúng ta cũng sẽ có thể mở
được cánh cửa tình thương và mang niềm vui, an lạc đến cho rất
nhiều người và làm vơi đi nỗi lầm than của họ, mà qua đó trong
Phẩm Phổ Môn của Kinh Pháp Hoa, tiếng nói của Bồ Tát Quan Thế Âm
được diễn tả bằng năm cách:
-
- Diệu âm
-
- Quan âm
-
- Phạm âm,
-
- Hải Triều âm,
-
- Thắng bỉ thế gian
âm.
-
1- Diệu
Âm
-
Là tiếng nhiệm mầu.
Đây là thứ ngôn ngữ mở ra cánh cửa tình thương, và khiến cho tất
cả mọi bế tắc đều được khai thông trở lại. Thứ tiếng này rất dễ
nghe. Thứ tiếng này làm cho khoẻ khoắn, đem đến sự bình tĩnh, an
ủi, và trị liệu cho tâm hồn. Bản chất của âm thanh này là từ bi,
do vậy chúng ta có thể tạo niềm tin và thương mến nhau.
-
2- Phạm
Âm
-
Là tiếng Quan Âm, có
nghĩa là người nhìn sâu vào cuộc đời, và lắng nghe tiếng kêu
thương của cuộc đời. Tiếng này làm vơi đi những nỗi khổ niềm đau
của chúng ta, vì đó là tiếng của người hiểu một cách sâu sắc về
những đau đớn, tuyệt vọng, và sợ hãi của chúng ta. Khi thấy mình
được hiểu, chúng ta bớt khổ đi rất nhiều.
-
3- Phạm Âm
-
Là tiếng Phạm, có
nghĩa là cao quý không phải là tiếng thường tình, mà là ngôn ngữ
cao quý, phát sinh xuất từ ước muốn mang lại hạnh phúc và lấy đi
khổ đau. Từ, Bi, Hỷ, và Xả là chỗ cư trú cao quý của chư Phật và
chư vị Bồ Tát. Nếu muốn chung sống với chư Phật và chư vị Bồ
Tát, thì chúng ta có thể an trú trong bốn toà nhà này.
-
4- Hải Triều Âm
-
Tiếng Hải Triều, là
tiếng của Phật Pháp. Đây là một thứ tiếng mầu nhiệm, thứ tiếng
có thể làm chấm dứt hết mọi tà kiến và suy tưởng mông lung. Đó
cũng là tiếng Sư Tử Hống, mang lại sự im lặng tuyệt đối cho núi
rừng, và mang đến sự chuyển hoá và trị liệu.
-
5- Thắng Bỉ Thế Gian
Âm
-
Là tiếng vượt thoát
tiếng đời, là tiếng nói không có gì sánh kịp. Tiếng nói này
không nhằm vào danh, lợi, hay một khía cạnh đua tranh nào. Đây
là sự im lặng sấm sét làm tiêu tan mọi ý niệm và khái niệm.
-
Quán chiếu về năm thứ
tiếng này tức là chúng ta đang giúp Bồ Tát Quan Thế Âm của chúng
ta mở cửa tình thương, cánh cửa của lắng nghe đích thực, nói
năng đích thực. Ý thức được những khổ đau do lời nói thiếu chánh
niệm và sự không biết lắng nghe gây ra, chúng ta sẽ học theo
hạnh ái ngữ và lắng nghe để dâng tặng niềm vui cho người và làm
vơi bớt khổ đau của người. Đây chính là pháp môn tình thương mà
Bồ Tát Quan Thế Âm thực tập.
-
Chưa bao giờ trong
lịch sử nhân loại chúng ta có nhiều phương tiện truyền thông,
truyền hình, viễn thông, điện thoại, máy fax, radio, đường dây
nóng, đường dây đỏ ... nhưng chúng ta vẫn tiếp tục sống một cuộc
sống như là những hòn đảo hoang vu ngoài bể cả. Có quá ít truyền
thông giữa những thành viên trong gia đình, giữa những cá nhân
trong xã hội, và giữa các quốc gia. Chúng ta khốn đốn vì bao
nhiêu cuộc chiến tranh và xung đột. Rõ ràng chúng ta chưa trau
dồi nghệ thuật nghe và nói. Chúng ta không biết lắng nghe nhau,
và chưa biết nói lời nói cho người thương của chúng ta. Chúng ta
ít có khả năng để theo đuổi một cuộc đàm thoại thông minh và có
ý nghĩa. Cánh cửa vạn năng của sự truyền thông cần phải được mở
ra. Không truyền thông được chúng ta sẽ bệnh, và một khi bệnh đã
nặng lên, ta sẽ đau khổ và có khuynh hướng vung vãi khổ đau của
mình lên kẻ khác. Chúng ta trả tiền cho các nhà tâm lý trị liệu,
để cho họ ngồi lắng nghe nỗi khổ niềm đau của chúng ta, nhưng
nếu các nhà tâm lý trị liệu không thực tập tình thương, họ sẽ
không thành công được. Những nhà tâm lý trị liệu cũng là những
con người, cũng phải đối diện với những khổ đau như tất cả chúng
ta. Họ có thể có khó khăn với vợ hay chồng, với con cái, bạn bè,
và xã hội. Họ cũng có những nội kết. Họ có thể có nhiều khổ đau
chất chứa, không thể nói với bất cứ ai, kể cả người thân thương
nhất trong đời họ. Làm sao họ có thể ngồi đó lắng nghe những khổ
đau của chúng ta và thấu hiểu được những khổ đau đó? Các nhà tâm
lý trị liệu cũng cần phải thực tập tình thương, tức là phải lắng
nghe và nói lời nói dễ thương.
-
Trừ phi chúng ta chịu
khó nhìn sâu vào bản thân mình, việc thực tập này sẽ không dễ
chút nào. Nếu trong ta có quá nhiều khổ đau thì ta khó có thể
lắng nghe hay nói những lời dễ thương với kẻ khác. Trước hết ta
phải nhìn sâu vào bản chất của cơn giận, sự tuyệt vọng, và đau
khổ của mình để tự tháo gỡ cho mình, xong ta mới có thể rảnh tay
cho kẻ khác. Giả dụ người thân của chúng ta hôm qua đã nói điều
gì đó không dễ thương, làm mình đau. Người thân chúng ta đã dùng
lời lẽ thiếu chánh niệm, và lại không có khả năng lắng nghe. Nếu
chúng ta trả lời ngay lúc ấy, từ sự bực bội và đau khổ của mình,
thì chúng ta có nguy cơ làm cho người thân chúng ta đau, và cũng
đào sâu thêm những niềm đau đã có của người thân chúng ta. Còn
nếu chúng ta đè nén cơn giận của mình hay làm thinh, chúng ta có
thể gây tổn hại cho chính mình. Bởi nếu chúng ta đàn áp cơn giận
của tự thân thì chúng ta cũng đang đàn áp chính mình. Chúng ta
sẽ khổ sau này, và nỗi khổ sẽ mang lại thêm nhiều đau khổ cho
người thân chúng ta.
-
Theo chư tôn đức dạy,
cách thực tập hay nhất lúc đó là thở vào và thở ra để làm lắng
xuống cơn giận của mình. Chỉ cần thở cho sâu với cơn giận thì
chúng ta sẽ làm cho nó lắng lại. Lúc đó chúng ta có chánh niệm
về cơn giận của mình chứ không đè nén nó. Khi đã có đủ bình
tĩnh, chúng ta có thể sử dụng ngôn ngữ chánh niệm. Như vậy, cách
xử lý cơn giận với chánh niệm của chúng ta nó cũng tương tự như
người làm vườn xử dụng phân xanh. Khi biết xử dụng phân xanh,
biết cách chăm sóc rác hữu cơ, chúng ta có thể biến nó thành một
hoa hồng. Chúng ta có thể gọi rác là dơ bẩn nếu đứng về mặt tiêu
cực, nhưng rác cũng có thể là tích cực, nếu ta biết xử lý nó.
Cái giận cũng vậy. Cái giận làm chúng ta khổ, nhưng cái giận
cũng giống như tình thương vậy. Giận có thể trở thành thương. Nó
có thể là tiêu cực, nếu ta không biết xử lý nó, nhưng nếu ta
biết cách xử lý cơn giận của mình, thì cơn giận đó có thể rất
tích cực để chúng ta chế tác thành tình thương. Chúng ta không
cần phải bỏ đi một thứ gì hết.
-
Sau khi đã thở vào,
thở ra vài lần để lấy lại bình tĩnh, cho dù cơn giận vẫn còn có
đó, nhưng chúng ta có chánh niệm về nó, chúng ta có thể nói với
người kia rằng chúng ta giận. Chúng ta cũng có thể nói với người
ấy rằng chúng ta muốn nhìn sâu vào nó, và cũng muốn người ấy
cũng nhìn sâu vào nó. Một người nhìn vào những gốc rễ khổ đau
của mình là đã hay lắm rồi, nhưng nếu cả hai người cùng nhìn với
nhau thì hay nhất. Bằng cách thực tập sự nhìn sâu nầy, tại Chùa
Dược Sư vào mỗi chiều Thứ Sáu đều có trà đàm để Thầy trò cùng
nhau chia sẻ kinh nghiệm, những khúc mắt trong cuộc sống. Sở dĩ
chọn vào tối thứ Sáu vì hai lý do.
-
- Thứ Nhất:
-
Khi chúng ta đang còn
giận, nếu chúng ta bắt đầu bàn thảo thì có thể khó tạo sự hòa
giải, và có thể nói những điều làm cho tình trạng tệ thêm hơn.
Do vậy mà những ngày trong tuần cho đến chiều Thứ Sáu, chúng ta
có thể thực tập nhìn sâu vào bản chất cái giận của mình, và
người kia cũng có thể làm như vậy. Với thời gian dài trong tuần,
chúng ta có cơ hội nhìn sâu vào sự tình. Trước tối Thứ Sáu, một
hay cả hai người có thể thấy gốc rễ của vấn đề, đồng thời có thể
nói lời xin lỗi với người kia. Và tối thứ Sáu, hai người có thể
uống trà và vui vẻ với nhau. Nếu hẹn ngày giờ, hai người sẽ có
thời gian để lắng lại và nhìn sâu. Đây là các thực tập hay nhất.
Bằng vào cách thực tập nầy, sẽ làm lắng con người mình lại, và
nhìn sâu vào bản chất của những nỗi khổ niềm đau của mình. Đến
tối thứ Sáu, nếu nỗi khổ vẫn chưa được chuyển hoá, chúng ta có
thể thực tập nghệ thuật của Quan Thế Âm. Hai người ngồi lại với
nhau và thực tập lắng nghe sâu một người phát biểu trong khi
người kia lắng nghe thật sâu. Khi nói, ta nói lên sự thực sâu xa
nhất mà ta thấy, và chúng ta thực tập lời nói dễ thương.
-
Chỉ với ngôn ngữ đó
người kia mới có cơ hội để nghe, hiểu và chấp nhận. Trong khi
lắng nghe, chúng ta biết rằng chỉ bằng cách lắng nghe sâu như
vậy chúng ta mới có thể làm vơi đi nỗi khổ của người kia mà
thôi. Nếu chỉ lắng nghe bằng nửa lỗ tai thôi thì chúng ta không
thể làm được chuyện đó. Chúng ta phải có mặt đích thực và sâu
sắc, và phẩm chất lắng nghe phải cao thì chúng ta mới có thể
giúp được người kia vơi đi nỗi khổ.
-
- Thứ Hai
-
Phải đợi đến tối Thứ
Sáu, là vì nếu chúng ta hoá giải được sự buồn bực đó, thì chúng
ta sẽ được vui vẻ với nhau vào hai ngày cuối tuần.
-
Nếu chúng ta thấy ở
trong cộng đồng có người đang gặp khó khăn với người khác, chúng
ta phải giúp đỡ ngay. Nếu sự việc càng kéo dài lâu thì sẽ càng
khó giải quyết. Cách hay nhất để giúp là thực tập ngôn ngữ chánh
niệm và tập lắng nghe sâu. Bằng cách này có thể mang lại hoà
bình, hiểu biết, và hạnh phúc cho mọi người. Tình thương là một
chất liệu nhiệm mầu.
-
Như chúng ta đã biết,
lời nói có thể có giá trị xây dựng, có thể làm cho mọi người
thương nhau, nhưng cũng có tính phá hoại đều tùy thuộc vào nơi
chúng ta. Nói với chánh niệm, thì lời nói có thể mang lại hạnh
phúc thật sự, lời nói thiếu chánh niệm có thể gây chia rẻ căm
thù và giết hại. Khi một người nói với chúng ta những điều làm
cho ta khoẻ mạnh và hạnh phúc, thì đó là món quá quý hoá nhất
người ấy có thể hiến tặng. Thỉnh thoảng, có người nói những điều
rất ác và rất đau lòng khiến cho người nghe muốn tự tử, và mất
tất cả mọi hy vọng, tất cả niềm vui cũng như sự sống.
-
Người ta thương nhau
vì lời nói, mà cũng giết nhau vì lời nói. Khi chúng ta cuồng tín
biện hộ cho một chủ thuyết, nói rằng chỉ có đường lối suy nghĩ
hay tổ chức xã hội này mới là hay nhất, và nếu có người làm
vướng đường mình thì mình phải đàn áp hay loại trừ người đó. Thứ
ngôn ngữ này có thể giết, không phải chỉ có một người mà rất
nhiều người. Khi tin vào một điều gì mạnh mẽ như vậy, chúng ta
có thể bỏ hàng triệu người vào phòng hơi ngạt. Khi dùng lời nói
để nâng cao một chủ thuyết, xúi dục người ta giết để bảo vệ và
nâng cao chủ thuyết của mình, chúng ta có thể giết hàng triệu
người.
-
Nhiều người phải nói
dối để thành công như một nhà chính trị, hay như một người bán
hàng, và nhiều người cũng đang bị kẹt vào những tình huống tương
tự. Do vậy mà một người phật tử chúng ta nên luôn luôn phát
nguyện:
-
-
Con nguyện chỉ nói
những lời có thể tạo thêm niềm tự tin, an vui và hy vọng ....
-
Điều này cần phải được
thực tập với trẻ em. Nếu ta nói với em bé rằng em không làm được
tích sự gì cả, em bé sẽ khổ trong tương lai. Cần phải luôn luôn
nhấn mạnh những điều tích cực, và đầy hứa hẹn với con mình, và
với vợ hay chồng mình nữa. Cho nên chúng ta cũng phải dứt khoát:
-
- Con nguyện chỉ nói
những lời chân thật có giá trị xây dựng sự hiểu biết và hoà
giải. Con nguyện không nói những điều sai với sự thật, không nói
những lời gây chia rẽ và căm thù. Con nguyện không loan truyền
những tin mà con không biết chắc là có thật, không phê bình và
lên án những điều con không biết chắc. Con nguyện không nói
những điều có thể tạo nên sự bất hoà trong gia đình và đoàn thể,
những điều có thể làm tan vỡ gia đình và đoàn thể.
-
Hòa giải, tạo niềm
thương mến lẫn nhau, và cách nói để cho mọi người có cảm tình
thương mến là một pháp tu sâu sắc nhất, chúng ta có thể thực tập
được với sự lắng nghe và ngôn ngữ chánh niệm. Cách nói tạo sự
thương mến cho nhau cũng có ý nghĩa là mang lại hoà bình và hạnh
phúc cho quốc gia, con người, và các thành viên trong gia đình
của chúng ta. Đây là công việc của một vị Bồ Tát. Để tạo yếu tố
thành công trong việc thực tập, chúng ta phải có nghệ thuật lắng
nghe, cũng như nắm được nghệ thuật nói lời nói dễ thương. Chúng
ta cũng phải tránh liên kết mình với một bên để có thể hiểu được
tâm tư nguyện vọng của cả hai phía.
-
Hòa giải, tạo niềm
thương mến lẫn nhau, và cách nói để cho mọi người có cảm tình
thương mến là công việc không phải đơn thuần, cho nên chúng ta
phải dùng thân thể, thời gian, và cuộc đời mình để làm công việc
thực tập nầy. Chúng ta có thể làm việc này bằng nhiều cách, và
có thể bị đàn áp bởi những người chúng ta đang tìm cách giúp đỡ.
Chúng ta phải lắng nghe và hiểu nỗi khổ của bên này, rồi lại đến
lắng nghe nỗi khổ của bên kia. Như vậy ta sẽ có thể lần lượt nói
cho mỗi bên về những nỗi khổ mà phía bên kia phải gánh chịu. Đây
là công việc cốt yếu, và đòi hỏi phải có can đảm. Chúng ta cần
nhiều người có khả năng lắng nghe. Chúng ta cần học hỏi cho sâu
sắc để có thể thực tập giỏi, trong phạm vi cá nhân, gia đình,
cộng đồng, xã hội và thế giới.
-
Nói tóm lại muốn cho
mọi người cùng chung sống trong hạnh phúc, hòa bình an lạc,
chúng ta phải biết nhìn lại tự tâm, và thực tập lời nói dễ
thương mà không cần đòi hỏi mọi người chung quanh phải làm gì
đối với chúng ta. Để kết thúc bài viết nầy, chúng tôi xin giới
thiệu đến đại chúng một câu chuyện:
-
Xưa có
con chim Cú mèo làm tổ chung trên một cây với chim Gáy.Một hôm
Cú mèo đến từ giã chim Gáy để dọn đi nơi khác, Gáy ngạc nhiên
hỏi:
-
-Bác đi
đâu thế?
-
-Tôi dời
nhà sang Phương Tây.
-
Chim Gáy
hỏi:
-
-Sao lại
làm thế?Có việc gì làm trở ngại cho bác?Tôi trông nơi đây sinh
sống dễ dàng, mát mẻ, sao bác lại bỏ đi?
-
Cú mèo
buồn rầu đáp:
-
-Dân cư
vùng này không ưa tôi.
-
Chim Gáy
dịu dàng bảo:
-
- Này bác
ạ! Chỗ thân tình với nhau tôi nói cho bác nghe ... sở dĩ người
ta không ưa bác là vì tiếng kêu của bác.Nếu sang Phương Tây bác
cũng kêu như thế thì người ta cũng ghét bác thôi... Chi bằng bác
đổi tiếng kêu thì đông tây gì cũng tốt như nhau, chẳng ai ghét
bác nữa đâu mà sợ.
-
Cú mèo
nghe nói, giận dữ bỏ đi đến miền Tây ở. Ðúng như lời tiên đoán
của chim Gáy, dân chúng miền Tây cũng ghét bỏ nó, Cú mèo đâm ra
hận đời, nhất định đi vào thâm sơn cùng cốc, lánh xa loài người,
loài vật, mặt trời, mặt trăng ...
-
Từ câu
chuyện nầy chúng ta thấy, đổi chỗ ở bao giờ cũng dễ dàng hơn sửa
đổi một số tật của mình, phản ứng nhất thời của chúng ta mỗi khi
gặp trở ngại, bị bạc đãi là giận dữ bỏ đi.Chúng ta chỉ muốn giữ
lại mối tương giao nào mà cái huyễn ngã của chúng ta được ái mộ
chìu chuộng vuốt ve, những hành động được tung hô vạn tuế
...Bằng ngược lại, chúng ta hờn, dỗi, hận đời đen bạc, và than
rằng sao người ta không hiểu mình, rằng sao mà mình cô đơn quá
v.v...
-
Vậy thì
nên đổi tâm của chúng ta và thực tập lời nói dễ thương là điều
cần thiết. Chư Bồ Tát đã làm được việc đó, vì thế mà chư vị Bồ
Tát dù ở địa ngục mà vẫn hỷ lạc như cảnh trời đệ tam thiền. Còn
chúng ta ở giữa cảnh đời này có trăng thanh gió mát, hoa thắm lá
xanh, bụng no thân ấm mà vẫn muộn phiền khôn nguôi. Để rồi cứ
mang cái tạm bợ của mình đi lang thang từ nơi này sang nơi khác.
Tình trạng nầy dù có gặp được những chốn thong dong như cõi Cực
lạc của Ðức Phật A Di Ðà đi nữa, thì chúng ta cũng cứ tự làm
phiền mình, và các chúng sanh lân cận mà thôi.
--o0o--
|
|