TẬP SAN DƯỢC SƯ

Con Đường Phải Đi
Trúc Giao
--o0o--
 
Chúng ta đang sống trong cõi đời ác năm trược, và ý thức được con người hiện tại đã và đang bị dòng sanh tử luân hồi, và cuộc đời vô thường chi phối, cho nên thường đem đến sự sợ sệt và bất an rất nhiều cho chúng ta. Vì thế những ai muốn ra khỏi vòng sanh tử luân hồi, thì chính chúng ta phải tự mình lựa chọn một con đường phải đi. Con đường mà chúng ta lựa chọn và phải đi đó nó không bằng hoa gấm mà bằng tâm nguyện tha thiết:
- Trên cầu Phật đạo dưới hóa độ chúng sanh.
Đây là nói những người ý thức cuộc đời là vô thường, và sợ hãi trong kiếp sống luân hồi sanh tử.
Có người cũng cho rằng chết là hết, cho nên con người một khi chết rồi thì trăm việc hết, cái gì cũng đều không có. Đây là quan niệm theo chủ nghĩa vật chất, mà theo lập trường của Phật Giáo cho rằng đây là cách nhìn của con người thường chỉ có nhục nhãn, mà không có huệ nhãn. Vì vậy cho nên không thấy được chân tướng của vạn tượng vũ trụ, nên mới nói thế này. Ðức Phật không những có nhục nhãn, huệ nhãn mà còn có Phật nhãn, cho nên chân tướng của muôn hình tượng vũ trụ Ngài thấy rất rõ ràng. Ngài nói sinh mạng của con người không phải là chết rồi thì kể như xong hết, nếu như đơn giản như thế này, thì con người ai cũng có cái tâm tham muốn, thích làm cái gì thì làm cái nấy mà không cần nói cái việc có nhân quả báo ứng thiện ác.
Kỳ thật, sinh mạng của mỗi người trước khi chưa sinh thì đã có rồi, cũng không phải chết rồi là hết. Lý lẽ nầy không phải chỉ nói qua loa vài ba câu là có thể nói hết được vấn đề, đồng thời cũng là vấn đề rất khó giải quyết. Do đó với nhu cầu của người học Phật tu hành, là để giải quyết sự kiện nầy, đại sự sinh tử cho chính mình. Chúng ta là người học Phật đối với cái chết, không phải là hết cho nên phải ghi nhớ hai điều:
1- Ðời người vô thường, vì thế nói về cái chết rất có thể do tuổi thọ hết, hoặc phước hết, hoặc nghiệp báo đến.
2- Không nên lầm tưởng rằng thọ mạng là do trời sinh, trời cho tuổi thọ, do vậy việc sống chết đều phó thác cho vận mệnh.
Phải biết rằng tuổi thọ ngắn dài đều tùy thuộc vào thực tại, đa số là nghiệp ác hiện đời, bởi vì có những việc không nên làm thì chúng ta lại làm càn, không khéo tự giúp để dưỡng nuôi tốt tự thân chúng ta. Vì vậy cứ cho là do thọ hết mà chết.
Chúng ta là người biết đạo lý, biết rõ sinh tử, con người chết rồi lại sinh, sinh rồi lại chết, chết chết sinh sinh, sinh sinh chết chết, cứ thế mà luân hồi không dứt. Yếu tố chủ yếu tạo thành luân hồi sinh tử chính là Nghiệp.
Nghiệp có nghĩa là tạo tác. Trước tiên là từ ý nghĩ hay tư tưởng, do từ nơi tư tưởng mà phát ra tạo tác các ác nghiệp ở nơi ngôn ngữ và thân thể. Bất luận có hành động tốt xấu thế nào đi nữa, thì Phật pháp đều gọi là Nghiệp. Nghiệp có ba tánh:
- Thiện: Thiện nghiệp hay chiêu lấy thiện quả,
- Ác: Ác nghiệp hay chiêu lấy ác quả, và
- Vô ký: Vô ký nghiệp tức là nghiệp không phải là thiện cũng không phải là ác, cho nên không có quả.
Nói về Nghiệp, nếu không phải là người có tín tâm, thì hơi khó hiểu rõ, bởi vì nó không hình không tướng, không chất không lượng, nhưng một khi chúng ta khởi tâm động niệm, thì tất cả đều thành nghiệp chủng. Nói một cách khác, Nghiệp mà chúng ta bàn ở đây chính là ấn tượng trong ý thức của chúng ta và những người chung quanh. Chúng ta và những người chung quanh, mỗi khi có khởi tâm động niệm, thì từ ý nghĩ cho đến ngôn ngữ và hành vi, không kể là thiện hay ác, lúc đó trong ý thức đều có lưu giữ ấn tượng, đây tức là nghiệp chủng đã gieo vào trong ruộng thức thứ tám. Ruộng thức thứ tám là thức A Lại Da. Chúng ta cũng như những người chung quanh đều do ở nơi ngôn ngữ và hành vi của thân tâm mà tạo thành một ấn tượng lưu giữ trong ý thức. Tuy rằng những ấn tượng đó có cạn có sâu, nhưng tất cả đều không bị thời gian xóa diệt, mà cứ nhớ luôn trong tìm thức, trong ký ức. Ðối với một sự việc nào đó, có những ấn tượng sâu sắc, cố nhiên trọn đời khó quên, và mỗi khi nhớ đến ấn tượng như thế, thì việc này ngay tức khắc cũng ảnh hưởng đến tâm lý và hành vi của người chung quanh và chúng ta. Cho dầu là ấn tượng đó rất nhỏ nhặt, nhưng cũng sẽ giữ gìn vĩnh cửu ở trong chiều sâu của ý thức. Đó cũng là lý do hiện tại các nhà tâm lý học giải thích về giấc mơ, hay mộng là những hoạt động ẩn chứa trong ý thức, đồng thời cũng biểu thị cho chúng ta thấy nghiệp lực cũng là bất diệt trong tâm thức của chúng ta. Khi đã thành nghiệp chủng, thì khó có thể mài dũa hay diệt đi, vì nó luôn luôn tồn tại hằng hữu, hoặc là chúng ta có thể thấy, hoặc có khi chúng ta không thấy, nhưng khi gặp duyên thì chúng khởi hiện ra.
Nếu lấy hiện tại để giải thích về Nghiệp thì đại khái là mỗi người chúng ta đều nhờ vào kết quả của sự phản ứng hoạt động, ý lực không dứt của chính mình, mà tạo thành nghiệp của chính mình. Nghiệp nầy lại tạo thành gốc gác của hoạt động tương lai, và chi phối vận mệnh chính mình. Từ sự chi phối vận mệnh mà nói, thì gọi đó là nghiệp quả hoặc nghiệp báo. Đã gọi là Nghiệp có nghĩa là vĩnh viễn không mất, trừ khi Nghiệp chấm dứt, hay do ý chí ngừng nghỉ hoạt động để tạo Nghiệp của chúng ta. Do đó những hoạt động nếu chúng ta chuyển về phương hướng nào, thì Nghiệp cũng chuyển theo phương hướng đó mà tồn tại. Như vậy nghiệp quả, nghiệp báo không phải lấy một thời kỳ sanh ra đời hoặc chết đi một sinh mạng mà gọi là hết. Chết chẳng qua là thân thể nầy được tạo thành bởi các yếu tố vật chất, cho nên nó cũng theo phép tắc vật lý là có tụ thì phải có tan. Hơn nữa sinh mạng của chúng ta thật ra không phải chỉ là thuần túy trên phương diện vật chất, cho nên mỗi người chúng ta tạo nghiệp, đều không do từ nơi chết của thân thể vật chất mà hết Nghiệp. Sau khi chết, cái sức mạnh của nghiệp dẫn chúng ta đổi thành một phương hướng khác, hình thành một cái sinh mạng mới, cách chuyển đổi trạng thái này gọi là luân hồi. Hiểu được đạo lý luân hồi, thì chúng ta có thể chứng minh được nguyên tắc nghiệp lực không diệt.
Nghiệp lực đều không do từ nơi cái chết của nhục thể mà tiêu diệt, bởi vì sau khi nhục thể tan rã thì nghiệp do chúng ta tạo tác được gởi gắm ở trong thức của A Lại Da, thức này lại chịu sự chi phối của nghiệp lực, trở lại kết hợp cùng với vật chất riêng thành một sinh mạng mới. Sinh mạng mới hình thành nầy:
- Là người,
- Là súc,
- Là thần,
- Là quỷ ...
Thì chúng ta không thể tự chủ, mà hoàn toàn dựa vào sự dẫn dắt của nghiệp lực. Trong kinh Phật có nói tình hình nghiệp lực dắt dẫn A Lại Da thức tương tự như:
- Ví như chúng ta thiếu nợ một người nào đó, không sớm thì muộn người đó cũng đến nhà đòi nợ.
Do đây cũng có thể nói nghiệp lực tương tự như một quả cân treo, sức nặng lệch về phía nào thì quả cân rơi về phía đó.
Nghiệp lực tức là sau khi tạo tác khởi tâm động niệm, năng lực giữ gìn liên tục mà dẫn phát. Thọ báo nhân gian đời này là nghiệp lực đời trước. Nghiệp lực đời trước cùng với nghiệp lực đời này, sẽ quyết định cho tiền đồ tương lai của đời sau, đây chính là nhân quả báo ứng ba đời. Y cứ nơi luật nhân quả nghiệp báo mà nói, nghiệp lực phát sinh nghiệp báo có ba thời gian ghi nhận:
1- Đời này tạo nghiệp, mà đời này cũng thọ báo. Đây gọi là quả báo nhãn tiền, hay còn gọi là Hiện Báo Nghiệp.
2- Đời này tạo nghiệp, mà một đời sau đó thọ quả báo. Đây gọi là Sanh Báo Nghiệp.
3- Đời này tạo nghiệp, mà hai hay nhiều đời sau mới thọ quả báo. Đây gọi là Hậu Báo Nghiệp
Căn cứ từ nơi ba đời: Quá khứ, hiện tại, vị lai mà nói thì nhân quả không thể tiêu diệt. Chỉ cần nhân duyên đầy đủ, đến lúc gọi là định nghiệp thì ai là người tạo nhân thì người đó phải chịu báo ứng. Cuối cùng tất cả đều do nghiệp lực xúc tác mà thành. Ở đây có ba sự phân biệt:
a- Tùy Theo Nơi Sức Nặng:
Không luận là thế nào, con người đến lúc chết, nghiệp lực nhất định sẽ hiện ra. Việc tốt hay xấu lúc bình thường chúng ta làm đều rất nhiều, do đó mà ngay lúc này nó có một cái sức mạnh đặc biệt, không luận là thiện hay ác, cũng bắt đầu hiển hiện ra, con người sẽ nương theo cái năng lực này mà thọ quả báo hay phước báo. Chẳng hạn như một người sát nhân, trong tâm thường ghi nhớ sự việc giết người ở trong tâm, quên không được. Mặc dầu người tạo nghiệp muốn cho quên nhưng không quên được, mà trái lại càng cố gắng quên đi thì trong tâm thức càng tồn tại sâu đậm hơn. Đến lúc chết, những việc làm tội lỗi này sẽ hiện ra. Cũng vậy, một người làm việc thiện một đời cứu người đến lúc mạng chung, thiện nghiệp đó cũng sẽ tự nhiên hiển bày trước mắt.
b- Tùy Theo Nơi Tập Khí:
Như có người không biết nghiệp tốt, hay xấu, cứ bình thường làm việc theo thói quen của chúng ta và cho đó là thường. Trong cái không biết chúng ta cứ cho đó là thường, nhưng không có nghĩa là không có tạo tác nghiệp, do vậy cũng có thể sinh ra những năng lực vĩ đại. Việc ác tuy là nhỏ, nhưng cuối cùng cũng phải thọ lãnh ác báo. Việc thiện tuy là nhỏ nhưng cũng có thể thu gặt được thiện quả, tức là muốn nói khi tạo nghiệp gì, thì cuối cùng cũng phải theo nghiệp định này mà thọ báo. Trường Hợp nầy gọi là tạo Nghiệp theo tập khí
c- Tùy Theo Sự Nhớ Nghĩ:
Bình thường trong cuộc sống của chúng ta, không có thiện không có ác. Tuy nhiên, nếu một giây phút nào đó bỗng nhớ tới chuyện xưa, lúc đó trong tâm chợt khởi lên niệm thiện hoặc niệm ác, thế là tùy theo niệm thiện hoặc niệm ác này mà thọ báo. Chẳng hạn như câu chuyện được kể lại:
Thuở xưa, ở ngôi làng nọ có ba mươi người thanh niên kết bạn với nhau, chung lo việc từ thiện. Họ đặt ra bảy điều luật mọi người tuân hành. Bảy điều luật đó là:
- Không sát sanh
- Không trộm cắp
- Không tà dâm
- Không nói dối
- Không nói hai chiều
- Không nói thêu dệt
- Không nói lời độc ác.
Hằng ngày các thanh niên chuyên làm việc từ thiện như làm đường, bắt cầu, giúp đỡ những người nghèo khổ, bệnh tật. Ảnh hưởng của họ một ngày một lớn ở trong thôn. Ai ai ở trong thôn cũng đều quý mến họ vì thấy họ làm từ thiện mà không ý tham chiếm giữ vật nhỏ nào.
Anh đoàn trưởng có ba bà vợ. Bà vợ thứ nhất nghĩ:
- Chồng mình làm từ thiện, kiếp sau sẽ sanh về cõi Trời, bây giờ mình không làm từ thiện, thì kiếp sau sẽ bị đọa lạc.
Vì nghĩ như thế cho nên bà vợ thứ nhất phát tâm cúng một khu vườn rộng bằng một mẫu, có bóng cây râm mát ở giữa làng để làm công viên. Các chàng thanh niên trồng đủ loại kỳ hoa dị thảo, trông thấy rất đẹp mắt, lại có ghế đá để dưới tàng cây cho dân làng chiều chiều đi tản bộ ngồi nghỉ mát.
Bà vợ thứ hai bỏ tiền ra đào hồ trồng sen ở giữa vườn trông rất đẹp mắt. Giữa hồ lại làm nhà thủy tạ lục giác, trên mái lợp ngói âm dương, có chiếc cầu cong bắc ngang qua, sơn màu đỏ trông rất xinh. Dưới hồ nuôi những đàn cá đỏ, cá vàng. Người đứng trên cầu, ngồi trong nhà thủy tạ ném thức ăn xuống dưới hồ, cá tranh nhau ăn trông rất vui.
Riêng bà vợ thứ ba chỉ biết chưng diện, ăn chơi, không biết làm từ thiện, không biết đạo đức nhân nghĩa là gì.
Ba mươi ba người thanh niên làm việc từ thiện, ảnh hưởng mỗi ngày một lớn, dân chúng rất mến mộ. Điều nầy làm cho ông thôn trưởng đâm ra ganh tỵ. Ông viết biểu dâng Vua rằng ba mươi người thanh niên nầy có ý tạo phản, cho nên tìm mọi cách làm từ thiện để lấy lòng dân. Nhà Vua nghe theo, liền cho truyền lệnh bắt ba mười người thanh niên đem ra pháp trường cho voi dày. Khi sắp hành hình, nhớ lại các việc làm xa xưa, anh đoàn trưởng nói với các anh em trong đoàn:
- Chúng ta không nên oán thù ông thôn trưởng và nhà Vua, mà chúng ta phải khởi tâm thương xót vì họ đã bị vô minh che lấp nên làm việc thất đức, rất đáng thương xót. Chúng ta cũng nên khởi tâm thương con voi làm việc độc ác. Chúng ta phải luôn nhớ lại việc làm từ thiện của mình, vì thân người có mất đi, nhưng phước đức thì không.
Lúc quan giám sát ra lịnh thả voi ra để thi hành án lệnh, Voi không dám dẫm lên ba mươi ba người thanh niên kia, trái lại voi còn sợ và thụt lùi. Người nài ra lịnh nhưng voi vẫn không chịu nghe. Quan Giám Sát về tâu Vua, nhà Vua lấy làm lạ và đích thân tra hỏi:
- Các người là Trời, hay là Quỷ Thần mà Voi không dám làm hại.
Các thanh niên thưa:
           - Chúng tôi là dân lành, chỉ chuyên làm việc từ thiện, ích quốc lợi dân, không có gì phạm pháp. Ông thôn trưởng thấy mất ảnh hưởng nên sanh lòng đố kỵ, vì vậy mới báo cáo lên nhà Vua là chúng tôi âm mưu làm phản, chứ thật ra chúng tôi là dân lương thiện. Nếu Bệ Hạ không tin thì cứ hỏi dân chúng sinh sống trong thôn nầy thì biết. Cùng lúc dân chúng trong thôn cũng dâng kiến nghị, trình bày với nhà Vua là ba mươi ba người thanh niên nầy vô tội.
           Nhà Vua nghe xong rất hoan hỷ, cho tha bổng ba mươi ba người thanh niên vô tội và còn khen thưởng để khích lệ nhân dân. Nhà Vua cho phép ba mươi ba thanh niên tiếp tục làm việc từ thiện và trừng trị ông thôn trưởng có tâm hiểm ác, vu khống người lương thiện.
           Từ khi được nhà Vua biết và tha bổng, các thanh niên làm việc phước thiện càng hăng hái hơn. Trong suốt cuộc đời của ba mươi người thanh niên kia lúc nào cũng làm việc nghĩa để tích công bồi đức, nhờ vậy mà đến khi mãn phần tất cả đều được sanh về cõi Trời ba mươi ba. Vị đoàn trưởng kia làm Thiên Đế Thích(tức là Thượng Đế), còn ba mươi hai người kia làm Vua của ba mươi hai cõi Trời chung quanh. Hai bà vợ của anh trưởng đoàn, nhờ phước cúng vườn cây và hồ, nhà thủy tạ, nên được sanh lên cõi Trời làm vợ Thiên Đế Thích. Trong khi đó bà vợ thứ ba do vì ăn chơi, chưng diện, phạm tôi sát sanh nên bị đọa làm cò trắng. 
           Nội dung câu chuyện nầy cho chúng ta thấy, bất cứ hành động nào của chúng ta cũng đều có kết quả. Tuy ba mươi ba thanh niên làm việc thiện, nhưng sở dĩ có kết quả tốt đẹp do nhờ ở giây phút thập tử nhất sanh nhớ lại thiện nghiệp đã làm, nên phước báo hiện tiền. Nhưng nếu ba mươi ba thanh niên nầy lúc đó khởi tâm niệm thù hận, không chắc việc làm từ thiện đó có kết quả, không khéo còn bị cận tử nghiệp phá tan những phước đức đã làm, bởi vì:
           - Một đám lửa sân cháy cả rừng công đức.      
Từ những điểm chính yếu trên, cho nên bình thường, thay vì chúng ta cứ nhớ nghĩ viễn vong, niệm theo kiểu chúng sanh niệm thì chư tôn đức thường hay nhắc nhở mọi người niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Và trong cuộc sống hằng ngày, thường nên xưng tán công đức bố thí, trì giới, khiến họ tự thân phước báo càng ngày càng thêm tăng tiến, và người chung quanh nghe được khởi tâm ưa thích công đức và tâm sinh thiện niệm. Nương nơi công lực này thì sẽ tạo nên phước báo tốt đẹp cho hiện tại và đời sau.
Có người tuy có nghiệp thiện, nhưng lúc lâm chung vì người thân không biết tạo những điều không tốt, lúc gần chết chịu sự đâm chích đau khổ trong lòng, cho nên niệm ác sanh khởi vì vậy mà phải bị đoạ lạc. Đây cũng là lý do tại sao chư tôn đức thường khuyên người đời, nếu những thân bằng quyến thuộc đến lúc lâm chung, không luận già trẻ, đều không nên kêu khóc, nắm tay, sờ mó, cứ la hét, kêu réo, ôm ấp, đụng chạm vào thân thể của người chết. Những hành động nầy chúng cứ nghĩ là thương tiếc nhớ nhung, nhưng thật ra là chúng ta làm phiền tâm thần của người mất khiến cho họ sinh khởi tâm phiền não. Thay vì chúng ta khóc thương, thì chúng ta nên khuyên người mất, người thân của chúng ta nên chuyên tâm tưởng nhớ đến Phật, niệm Phật, niệm công đức... Đây là giây phút quan trọng. Như lúc bình thường chúng ta cứ mãi tạo tác các nghiệp ác, cho nên lúc lâm chung, chúng ta được nhắc nhở khởi lên một niệm thiện là điều không thể khởi được. Trừ phi chúng ta đời trước có nghiệp thiện, hoặc lúc bình thường hay có nghiệp thiện to lớn, hoặc tập thiện thành tánh, và lúc lâm chung còn có trợ niệm thêm, thì có thể quyết định được sanh qua nơi cõi lành như người xưa đã từng nói:
- Thiện có báo thiện, ác có báo ác.
Và mỗi con người ở mỗi đời đều có thiện nghiệp và ác nghiệp, nhưng không phải vì vậy mà vĩnh viễn không có cách nào thóat khỏi sinh tử.
Tuy nhiên, một yếu tố khác chúng ta cũng nên ghi nhận. Rằng  nếu nói chỉ có mỗi nghiệp lực thì không đủ để cho chúng ta phải đau khổ trong sanh tử luân hồi, mà phải nói thêm một yếu tố khác nữa đó là phiền não. Quả thật, ngoài nghiệp lực còn có điều kiện của phiền não, trong đó ái nhiễm là tối trọng yếu. Nếu như không có khát ái thì các thứ phiền não, cũng sẽ không thể cảm lấy mầm khổ của sinh, cho nên Phật Pháp cũng thường dạy bảo người đời:
- Dứt phiền não, xong sinh tử.
Như vậy chúng ta thấy các loài hữu tình thuộc ba cõi, trong đó có chúng ta, do nơi mê hoặc mà tạo nghiệp, từ nơi nhân tạo nghiệp mà thọ khổ, rồi nhân thọ khổ lại trở thành mê hoặc. Cho nên ba món:
- Hoặc
- Nghiệp
- Khổ
Là ba yếu tố nầy hình thành ra tánh ác, rồi cứ theo đó mà tuần hoàn luân lưu mãi. Nhưng Nghiệp mà Hoặc tạo ra, có chia ra nghiệp thiện, nghiệp ác, nghiệp nhẹ, nghiệp nặng, do đây quả báo nhận được cũng có phân ra làm sáu đường. Nghiệp thức ở trong sáu đường mà sinh đây tử kia thì gọi là luân hồi sáu đường. Sáu đường là:
- Trời,
- A Tu La,
- Người,
- Súc sinh
- Ngạ quỷ, và
- Địa ngục.
Ba đường trước gọi là đường thiện, ba đường sau gọi là đường ác. Trong ba thiện nghiệp nầy thì cõi trời là cảnh giới phước báo rất nhiều, thọ mạng cũng dài. A Tu La phước báo giống trời, nhưng do vì tâm sân rất là nặng, đấu tranh không dừng cho nên không có địa vị như cõi Trời. Cõi Người thì khổ nhiều vui ít, nhưng vẫn còn khá hơn những cảnh giới của ba ác đạo. Trong ba đường ác, cảnh giới Súc sinh thì hoàn toàn khổ. Ngạ quỷ thường chịu đói lạnh. Địa ngục thì khổ đau, trong cõi đó khổ đau rất nhiều kiểu.
Chúng ta đã biết cảnh sung sướng ở cõi người, cõi Trời, và những cảnh khổ của Súc Sanh, Địa Ngục, Ngạ Quỷ, cho nên là người học Phật chắc chắn chúng ta biết lựa chọn con đường nào là con đường mà chúng ta phải đi rồi. Khi mà chúng ta đã biết Con Đường mà chúng ta phải đi thì chúng ta sẽ biết được chúng ta từ đâu đến, chết rồi đi về đâu ngay tức khắc.
Đến đây chắc hẳn chúng ta biết sau khi chúng ta không còn ở cõi đời nầy thì chúng ta sẽ đi về đâu!
Như có lần chúng tôi nói, người chết, không phải trăm việc đều hết, chết rồi thì mọi việc đều xong, mà người chết là nhục thân chết thôi, chứ tâm thức không chết. Cái tâm thức  đó vĩnh viễn không thể chết, mà là theo chỗ tạo tác trong hiện tại:
- Làm thiện thì thăng thiên hưởng phước, hoặc sinh trở lại làm người. Nếu làm ác, thì đọa lạc trong ba đường chịu lấy khổ báo, tức là chết đây rồi lại sinh kia, sinh rồi lại chết, sinh chết, chết sinh xoay vần luân chuyển, không bao giờ dừng lại, đây gọi là luân hồi sáu đường.
Đến đây chúng ta mới thấy cái hiệu lực của báo ứng nhân quả. Nghĩa là thiện có thiện báo, ác có ác báo. Chúng ta biết rằng sở dĩ chúng ta hiện tại là con người rất có thể:
-  Đời này làm người, là đời trước do phước báo cõi trời hưởng hết nên đọa lạc vào con đường làm người.
Hoặc là:
- Đời trước chúng ta ở nơi nhân đạo sau khi chết, hợp với việc trở lại làm người mà trở lại sinh làm người.
Hoặc là:
- Đời trước chúng ta do khổ báo ba đường, ác chịu hết nghiệp ác rồi chuyển sinh làm người.
           So với ba trường hợp để trở thành con người, chúng ta thấy, nếu chúng ta từ cõi trời hết phước báo mà trở lại đời nầy, hoặc do phước báo lúc làm con người từ đời kiếp trước mà trở lại làm người thì tương đối chúng ta sẽ có phước tướng, giàu có sang trọng. Nhưng nếu chúng ta là con người do từ ba đường dữ trở lại thì cuộc đời sẽ còn đau khổ không ít. Tuy nhiên nếu biết được đạo lý mà tu tập thì đó là chúng ta đã biết lựa chọn con Đường chúng ta phải đi, trong tương lai sẽ tươi mát nhiều phước báo hơn.
Con người, và tâm thức sau khi chết, trở lại chuyển sinh cũng thường có vấn đề này, nhất là theo truyền thống của Phật Giáo Tây Tạng. Tuy nhiên vì là người phàm mắt thịt, chúng ta không thấy, nhưng nếu tu hành, được khai ngộ, có thiên nhãn huệ nhãn, thì việc trong sáu đường chúng ta có thể xem xét rất rõ ràng. Chúng ta là phàm phu chỉ có nhục nhãn, chỉ có thể nhìn thấy việc của phàm phu và súc sinh, còn thiên đạo, ngạ quỷ đạo và địa ngục đạo đương nhiên không thấy.
Nói thì nói vậy, thật sự không có gì là khó hiểu, nếu chịu khó suy xét về nhân quả nghiệp báo thì chúng ta sẽ thấy. Như trong đời nầy việc làm chúng ta hợp với thiên đạo, như thế đời sau, sau khi chết, chúng ta sẽ sanh về cõi Trời hưởng phước. Nếu như đời này việc làm hợp với nhân đạo, như thế đời sau tái sinh làm người. Các đường khác cũng tương tự như vậy. Như thế nếu lựa chọn con đường phải đi, thì chúng ta phải lựa chọn con đường dẫn chúng ta về:
- Cõi Trời
- Cõi Người ...
Một khi chúng ta đã lựa chọn con đường đi về cõi Trời, cõi Người thì không ai có thể cưỡng bách chúng ta phải đọa lạc vào địa ngục, đây là vấn đề rất hiển nhiên. Nói một cách đơn giản tức là:
- Làm thiện thì được phước, làm ác thì bị họa.
Nói tóm lại, trong sáu đường thì đường Trời là tốt nhất; kế tới là A Tu La, rồi đến con người, còn các đường khác đều là khổ. Chúng ta nhờ dựa nơi lương tâm của một con người, làm nhiều việc thiện, thì sau được báo ứng tốt sinh vào thiên đạo, chờ cho báo ứng xong hết trở lại chuyển đến các đường khác, cũng như vậy có thể chuyển sinh đến đường súc sinh. Nếu muốn thoát ly luân hồi sáu đường mà riêng nhờ vào việc làm thiện thì không đủ, cho nên chúng ta là người học phật, tu hành một cách chí thành, chuyên nhất tinh tấn không biếng lười, không phô bày, không lơ là, mới có thể ra khỏi luân hồi sáu đường. Nên nhớ rằng, không phải chỉ nói qua loa chúng ta tu hành học Phật là xong, là chúng ta ra khỏi luân hồi sáu đường, mà chúng ta phải dấn thân quyết chí tu tập mới được.
Nếu chúng ta biết rằng thế giới Ta Bà là biển khổ, đời người là khổ, khổ nhiều vui ít, làm ác dễ làm thiện khó, cơ hội sanh về cõi Trời hưởng phước thì ít, mà cơ hội rơi vào ba đường ác thì nhiều. Một khi mất thân người rơi vào ba đường ác thì không phải là việc giỡn chơi. Nếu chúng ta muốn thoát ly ra khỏi luân hồi của sáu đường, thì chúng ta cần phải có định hướng, lựa chọn con đường nào là Con Đường Phải Đi của chúng ta, biết được con đường mà chúng ta phải đi thì cứ thế mà đi, không sớm thì muộn chắc chắn chúng ta sẽ đến nơi mà chúng ta muốn đến.
--o0o--