|
TẬP SAN DƯỢC SƯ
-
Hiện Thân Của Tâm Từ
-
Thông Trí
-
--o0o--
-
-
Qua một
thời gian dài, hơn hai mươi lăm, hai mươi sáu thế kỷ qua, những
điều giáo huấn của Ðức Phật được ghi thành kinh tạng, và những
cuốn sách mộc mạc đó được lưu truyền từ quốc gia nầy đến quốc
gia khác. Những tạng kinh sách tuy đã bị thời gian phủ bụi, song
tư tưởng của những áng văn trác tuyệt đó bao giờ có giá trị.
Không những từ ngàn xưa mà cho đến bây giờ cũng vậy, trước sau
gì cũng vẫn là di sản bất di bất dịch, đượm hương sắc của đạo Từ
Bi Trí Tuệ. Bởi vì cũng từ nơi đây đã sản xuất ra không biết bao
nhiêu những con người thương đạo mến đời, không phải chỉ đóng
khung ở Ấn Ðộ không mà thôi, mà là khắp nơi trên thế giới. Một
trong những quốc gia ảnh hưởng sâu đậm nền đạo giáo này có Việt
Nam. Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước Việt
Nam, những vị Vua, và những tướng lãnh của các triều đại Ðinh,
Lê, Lý, Trần của Việt Nam đều là những con người thương đạo mến
đời theo chiều hướng của Ðạo Phật. Với giáo lý của đạo Từ Bi và
Trí Tuệ này đã làm đẹp cho cuộc đời, và giúp con người có tinh
thần tự chủ, vui sống, đồng thời giải quyết bao nhiêu mối hoài
nghi về vũ trụ và con người, về quan niệm sống và sự tiến hóa
chung của nhân loại. Nơi đây, sau một thời gian tìm hiểu, ai
cũng ghi nhận đạo phật có khả năng giải quyết tất cả mọi việc
hầu như toàn mỹ.
- Ðiều này
cũng dễ hiểu. Chúng ta hãy ôn lại những lời dạy của đức Phật để
làm tư lương trong khi hành xử:
-
- Này các người hãy tự thắp đuốc lên mà đi. Hãy tinh tấn để giải
thoát. Các ngươi hãy trở về lại với chính mình, các ngươi là
Phật đấy.
- Lời dạy,
tự mình thắp đuốc lên mà đi, đã đào luyện con người có một tinh
thần không tùy thuộc vào bất cứ ai, mà chỉ có chúng ta là chủ
cho chính mình. Và lời dạy:
-
- Các ngươi hãy trở về lại với chính mình, các ngươi là Phật
đấy.
-
Ðây là lời khích lệ hết sức có giá trị, bởi vì có được bao nhiêu
người dám nhìn vào những hành vi tạo tác của mình, có được bao
nhiêu người dám đối diện với khổ đau, chướng ngại để tìm những
nguyên nhân gì đã làm cho sự việc xảy ra như vậy?
-
Trước sau gì đạo Phật cũng đều chủ trương tinh thần tự chủ.
Chính chúng ta làm chủ cho chúng ta chớ không nên ký thác, phó
mặc cho bất cứ một ai điều khiển, hay có quyền thưởng phạt. Vì
thế đức Phật luôn luôn khuyến khích con người phải tự mình làm
chủ cuộc sống. Ngài còn cho biết con người còn có đặc quyền khám
phá ra những gì bí ẩn trong nội tâm của chính mình, ngay cả
những gì đã được tàng trử trong trời đất bao la. Bất cứ loài hữu
tình nào cũng có năng lực tiến hoá và cải tạo, nâng cao địa vị
chính mình và thay đổi hoàn cảnh chung quanh. Ðừng bao giờ tự
tôn khi thấy mình được thời được thế, và cũng đừng bao giờ tự ti
mặc cảm khi thấy mình bị lỡ bước sa chân.
- Trong lịch
sử truyền bá đạo Phật, cách đây hơn hai ngàn năm trăm năm mươi
bốn năm, với thời gian dài dằng dặc ấy, và hiện nay đạo Phật vẫn
giữ địa vị quan trọng trong công việc hướng dẫn con người trên
đường sáng. Chánh kiến trong việc tìm hiểu sự thật. Tôn trọng sự
sống, quyền sống của hết thảy chúng sanh, thể nhận giá trị tuyệt
đối mà con người là chủ động lực của tất cả vấn đề. Ðồng thời
hoạch định cho con người có một đường lối thẳng tiến để tự giải
thoát mọi phiền não khổ đau, mê tối. Kiến thiết một xã hội mới
mà trung tâm điểm là giáo dục con người trên ba phương diện: Bi,
Trí, Dũng nhằm giúp con người có một ý niệm chính xác trong cuộc
sống, biết nhận rõ về mình một ý nghĩa chân thực là con người.
Và có một đức tin vững chắc có thể vượt qua tất cả mọi chướng
ngại, để tạo hoàn cảnh, tìm một lối thoát, một chương trình cải
tiến thích hợp, với nhu cầu của tự thân và cho quần chúng thời
đại, tạo cho đời một cảnh giới tốt đẹp hơn.
-
Xưa kia con người có quan niệm Ðông Phương là Ðông Phương. Tây
Phương là Tây Phương giữa hai thái cực không thể gặp nhau được.
Ðây là một quan niệm sai lầm. Có người còn cho phong tục tập
quán là phong tục tập quán, chúng ta không thể tách rời nó ở
điểm nào hết, chỉ có quyền chấp nhận, không thể thêm và không
thể bớt vì đó là phong tục tập quán của một dân tộc, một xứ sở.
-
Tuy nhiên nếu hiểu cho chính xác thì những phong tục tập quán
thì đó chẳng qua là thói quen, tập khí gây nên! Nếu chúng ta mãi
cố chấp như vậy, sự thật chúng ta sẽ không có tiến bộ. Thành
thật mà nói, có những phong tục tập quán hay chúng ta cần phải
cố giữ, nhưng có những tập tục chúng ta cũng cần thay đổi, nếu
không chúng ta sẽ không bao giờ nhận chân được bản thể chung
cùng của một nguồn sống vô biên diệu dụng... Ở điểm này Ðạo Phật
rất khoan dung, cho nên nơi đây, chúng ta phải thấy những trung
thực, nguồn giáo lý cao đẹp của đạo Phật để chúng ta cùng suy
nghĩ và thực hành. Sự cống hiến nầy, trong đó sẽ cho chúng ta có
những khái quát, khái niệm về những gì nói về một tổng hợp của
đạo lý, đồng thời giúp chúng ta có khả năng tham chiếu tư tưởng
các bậc thánh nhân, hiền triết Đông Tây. Có thể nói đây là điểm
tập hợp đáng kể, để mở ra một chân trời mới cho những ai muốn đi
trên đường tìm về ánh sáng giác ngộ giải thoát.
-
Qua những sự
kiện này chúng ta thấy Ðức Phật luôn luôn hướng dẫn hàng môn đệ
phải hành động đúng trên bốn tâm vô lượng. Không những vậy mà
chính bản thân của Ngài, Ngài cũng tuân theo những nguyên tắc đó
để sống, cho nên Ðức Phật được người đời tôn xưng là người đã vứt
bỏ gậy guộc, đã quăng đi mọi gươm đao giáo mác. Có người còn nói:
-
- Chính Ngài tự
trang bị cho mình, và cho hàng đệ tử của Ngài hai loại vũ khí:
Chân Lý và Từ Bi.
-
Quả thật như
vậy, vì muốn cho nhân loại hiểu được làm thế nào để sống trong
tình huynh nghĩa đệ, cho nên Ngài đem nguồn giáo lý nhân bản nầy
truyền đến mọi người, do đó mà có thể nói toàn khắp cõi Ấn Ðộ, từ
Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây, không có nơi nào là không có dấu
chân của Ngài. Ngài là người đi bộ nhiếu nhất trên thế gian. Ngài
đi và đi trên các con đường lớn, và kể cả các nẻo đường nhỏ của xứ
Ấn Ðộ, không có nơi nào là không có dấu chân của Ngài. Ngài đến
địa phương nào, thì nơi đó đều được bao bọc và chung cùng niềm an
tịnh trong ánh hào quang từ Bi và Trí tuệ vô lượng vô biên của
Ngài.
-
Ngài di chuyển
giữa nhân quần xã hội thời bấy giờ, không phải như một đấng siêu
nhân, một nhân vật siêu phàm hay hiện thân của một thần linh, mà
là như một con người đúng thật là một con người. Trong thực tế,
chính cái nhân cách ấy làm cho con người của Ngài sáng chói rạng
ngời, xuyên qua kinh điển ghi lại cuộc đời và những sinh hoạt của
Ngài. Ngài truyền dạy, làm cho người ta hiểu biết rằng tất cả mọi
người đều có thể giác ngộ, thành Phật như Ngài nếu khai triển đúng
mức, và trau giồi đầy đủ những phẩm hạnh cần thiết để giác ngộ.
-
Chính vì vậy mà
các đạo hiện thời đã có rất nhiều tôn giáo muốn tranh luận hơn
thua với Ngài. Mặc dầu vậy Ngài luôn luôn tránh những va chạm
không cần thiết. Có những lúc không thể tránh thì ngài giải quyết
bằng tâm từ bi rộng mở một cách tế nhị, mà qua đó theo sự ghi lại
trong kinh điển cho chúng ta thấy buổi tranh luận của đạo Ni Kiền
Tử với đức Phật:
-
Đạo Ni Kiền Tử
là một trong 92 học thuyết có trước Đạo Phật, tuy nhiên từ khi học
thuyết của Đạo Phật có mặt thì đạo Ni Kiền Tử cũng như các học
thuyết khác lu mờ dần dần. Do vậy mà cả giáo chủ lẫn tín đồ của
các học thuyết rất căm hận Đức Phật và đệ tử của Ngài. Nhiều vị
giáo chủ luôn luôn thách thức Đức Phật tranh luận, nhưng Đức Phật
không bao giờ đáp ứng lời thách thức của họ, vì thấy không cần
thiết phải có những buổi tranh luận vô vị như vậy.
-
Và rồi những gì
sẽ xảy ra phải xảy ra. Sau nhiều ngày sắp đặt, giáo chủ của Ni
Kiền Tử cho một tín đồ rất giàu có và nhiều uy tín mời Đức Phật và
chư tăng đến cúng dường. Đức Phật đã biết đây là âm mưu của ngoại
đạo Ni Kiền Tử, nhưng vì thấy cơ duyên hóa độ đã đến cho nên Ngài
nhận lời mời thọ trai.
-
Sau khi Đức Phật
và tăng đoàn thọ trai gần xong, người gia chủ giàu có đó cũng bắc
ghế ngồi một bên trò chuyện:
-
- Thưa Cồ Đàm,
đạo của Ngài là đạo từ bi, vậy từ trước đến giờ Ngài đã làm cho ai
đau khổ chưa?
-
Khi hỏi câu hỏi
nầy theo thâm tâm ông chủ nhà giàu này nghĩ Đức Phật sẽ không trả
lời được. Vì từ khi có Đạo Phật, với tư cách sáng ngời của Đức
Phật, cho nên muôn người vạn lòng đều quy hướng về Đạo Phật, vì
thế đã làm cho rất nhiều giáo chủ và tín đồ ngoại đạo buồn phiền,
trong số những người buồn phiền đó có Thầy của ông. Do vậy nếu Đức
Phật nói chưa làm ai đau khổ thì hóa ra Đức Phật nói láo. Còn như
nếu Đức Phật thừa nhận là đã làm nhiều người đau khổ thì Đạo Phật
không còn được gọi là Đạo Từ Bi nữa. Do vậy ông hiu hiu tự đắc vì
nghĩ Đức Phật sẽ không trả lời nổi câu hỏi hiểm hóc của ông. Chính
trong lúc đang đàm đạo với Đức Phật, đứa con trai kháo khỉnh của
ông chủ nhà giàu chạy ra. Nhân đó Đức Phật khen:
-
- Con trai của
gia chủ kháu khỉnh dễ thương quá!
-
Nghe Đức Phật
khen, ông chủ nhà giàu rất hài lòng và phụ họa theo:
-
- Con trai của
tôi nó rất dễ thương dễ dạy, tôi cưng yêu quý nó lắm.
-
Lúc đó Đức Phật
mới hỏi ông chủ nhà giàu kia:
-
- Nầy gia chủ,
nếu trong lúc sơ ý đứa con trai cưng của gia chủ lỡ nuốt phải lưỡi
móc câu, thì ông phải làm sao?
-
Ông chủ nhà giàu
không cần suy nghĩ đáp:
-
- Thưa
Cồ Đàm, lưỡi câu là loại vật dụng hai mang khi đã nuốt nhằm nó, và
khi nó đã móc vào rồi thì kéo ra không được mà đẩy vào cũng không
xong. Nhưng mà vì đứa con trai yêu quý, nó đau đớn khổ sở cở nào
tôi cũng phải tìm mọi cách lấy ra cho bằng được để cứu mạng sống
của nó.
-
Nghe
ông chủ nhà giàu trả lời như thế, Đức Phật thong thả nói tiếp:
-
- Nầy
gia chủ, trường hợp nầy cũng giống như Như Lai vậy đó. Như gia chủ
đã chứng kiến, các ngoại đạo thấy mọi người cùng về tu học đạo
giải thoát với Như Lai, và sống cuộc sống hoàn toàn thánh thiện,
thì các vị giáo chủ và tín đồ của họ buồn phiền đau khổ vì mất tín
đồ, mất lợi dưỡng. Điều đó Như Lai biết, nhưng vì sự an lạc hạnh
phúc của nhân loại cho nên không vì những buồn phiền của các giáo
chủ ngoại đạo và tín đồ của họ mà Như Lai ngưng truyền bá đạo pháp
đến cho những người cần tu dưỡng.
-
Khi
nghe Đức Phật nói như thế, vị gia chủ nhà giàu kia nhìn Đức Phật
với cái nhìn thảng thốt và thay đổi cách xưng hô:
-
- Bạch
Đức Thế Tôn, lời dạy của Ngài sao đơn giản và có lý quá, vậy mà
chúng con tìm câu hỏi nầy mất cả đêm bàn thảo, và cứ nghĩ là Ngài
sẽ không bao giờ trả lời được. Nhưng không ngờ lời dạy của Ngài
thật đơn giản, thật hữu dụng vô cùng. Không một chút do dự, người
gia chủ nhà giàu nói tiếp:
-
-
Trước hết con xin vô cùng biết ơn lời khai thị của Đức Thế Tôn, và
xin Ngài từ bi cho con và cả gia đình quy y làm đệ tử của Ngài.
-
Nghe
ông gia chủ nhà giàu trình bày, Đức Phật từ tốn trả lời:
-
- Chỉ
có đôi lời chỉ điểm xin gia chủ đừng bận lòng, còn việc làm đệ tử
của Ta, gia chủ hãy suy nghĩ cho kỷ rồi quyết định sau cũng không
muộn.
-
Nghe
Đức Phật nói thế, vị gia chủ nhà giàu lại càng kính trọng bội phần
và nói với thái độ dứt khoát:
-
- Bạch
Đức Thế Tôn, thật ra trong thành này, vị giáo chủ nào cũng muốn
con làm đệ tử của họ. Chỉ cần con hứa là họ đã rêu rao khắp làng
trên xóm dưới ngay liền, thế mà Đức Thế Tôn khi nghe con nói còn
bảo con suy nghĩ cho kỷ. Bạch Đức Thế Tôn, trước khi chưa nghe Đức
Thế Tôn nói lời nầy thì con còn một thoáng do dự, nhưng bây giờ
con quyết định dứt khoát phải làm đệ tử của Ngài mới được.
-
Nghe
ông gia chủ nhà giàu tỏ thái độ dứt khoát muốn làm đệ tử, Đức Phật
từ tốn nói tiếp:
-
Này
gia chủ! từ lâu gia chủ là đại thí chủ của Ni Kiền Tử, và những
giáo phái khác, hôm nay do một đại nhân duyên ông trở thành đệ tử
của Như Lai. Ta chấp cho ông và gia đình làm đệ tử của Như Lai,
nhưng ông phải hứa, mọi sự cúng dường cho phái Ni Kiền Tử nói
riêng và các giáo phái khác nói chung, từ trước như thế nào thì
bây giờ vẫn cũng phải cúng dường tứ sự như vậy không thay đổi. Có
như thế thì ta mới yên lòng.
-
Nghe
Đức Phật dạy như thế ông gia chủ nhà giàu kia lại càng vô cùng
kính trọng nhân cách của Đức Phật:
-
- Bạch Đức Thế
Tôn! Con xin y giáo phụng hành.
-
Tin tức ông gia
chủ nhà giàu kia trở thành đệ tử của Đức Phật lan rộng nhanh
chóng, và chẳng mấy chốc đã bay đến tai của vị giáo chủ Ni Kiền
Tử. Khi nghe những sự việc xảy ra ngoài ý muốn, vị giáo chủ kia vô
cùng phẩn uất, vội vả tìm đến nhà ông gia chủ giàu kia để hỏi cho
ra lý lẽ. Nhưng khi đến nơi, ông bị người gác cổng từ chối không
cho vào, thay vì trước đây mỗi lần vừa thấy bóng dáng vị giáo chủ
kia đến ngõ là mọi người hân hoan chào đón mời mọc vào nhà trong.
Đã bực tức lại càng phẩn uất thêm. Trong lúc đang cãi cọ với người
gác cổng thì ông gia chủ nhà giàu từ trong nhà bước ra. Thấy vị
thầy cũ, ông gia chủ nhà giàu vẫn chào đón nhưng không nhiệt thành
như trước đây. Cũng mời vào nhà nhưng không mời ngồi lên ghế bành
như trước mà chỉ mời ngồi chiếc ghế thông thường. Thấy tình thế
thay đổi, vì giáo chủ Ni Kiền Tử tức giận nói như hét:
-
- Ta sắp xếp cho
nhà ngươi gặp lão Cồ Đàm để vặn hỏi một vài câu cho lão ta mất
mặt, vậy mà người làm cũng không xong. Trái lại còn ăn bùa mê
thuốc lú gì của lão mà nhà ngươi đối đãi với ta như thế này? Tức
thật đấy.
-
Nghe những lời
hằn học của vị thầy cũ, ông gia chủ nhà giàu trả lời trong từ tốn:
-
- Quả thật tôi
đã ăn phải bùa mê thuốc lú của ông Cồ Đàm, nhưng tôi muốn cả thế
gian nầy ai cũng ăn trúng phải bùa mê thuốc lú của ông Cù Đàm, để
cho họ có thể sống một cuộc sống an lạc hạnh phúc.
-
Nghe người tín
đồ cũ của mình nói kiểu đó, ông giáo chủ Ni Kiền Tử tức quá trào
máu miệng ngất xỉu tại chỗ ...
-
Qua câu chuyện
trên cho chúng ta thấy, Đạo Phật là Đạo Từ Bi, không bao giờ tranh
giành với đời, nhưng khi đời cần, thì đạo sẵn sàng giang tay đón
tiếp mà không phân biệt giàu nghèo sang hèn ... Phong thái, cốt
cách khoan thai dịu dàng từ bi và vui vẻ của Ðức Phật làm cho tất
cả những ai được duyên may tiếp xúc với Ngài đều cảm mến, kính
phục. Nhiều người cũng lấy làm vui mà nhận xét rằng:
-
- Đã có nhiều
bậc Thầy vào thời bấy giờ đặc biệt là những vị ở các tín ngưỡng
khác, lấy làm lo sợ không dám gỡi đệ tử hay tín đồ đến gặp Đức
Phật, vì họ e rằng tín đồ của họ sẽ từ bỏ đạo cũ mà về với Đức
Phật.
-
Và như thế, các
vị giáo chủ của ngoại đạo cứ cho rằng Đức Phật đã xử dụng bùa mê
thuốc lú để dụ dỗ đệ tử họ, nhưng thực ra đó chính là do tâm từ
rộng lớn vô biên vô cùng tận của đức Phật đã thu hút người khác về
với Ngài chứ không phải bùa phép. Vì vậy có người hiểu, cho rằng
Ðức Phật là hiện thân của tâm từ, là người đã ban truyền những lời
dạy và nêu lên những gương lành đượm nhuần từ bi, qua những nguyên
tắc và cuộc sống của mình.
-
Phong thái đó
trong khi tranh luận, Ngài rất trầm tĩnh và đón nhận lời đối
nghịch một cách khiên tốn, thản nhiên, không chao động không tỏ ý
phiền giận. Cho đến những nhà hùng biện trứ danh thời bấy giờ, sau
một cuộc tranh luận với Ðức Phật, không thể cầm lời khen tặng:
-
- Quả thật kỳ
diệu, quả thật tuyệt vời, trong khi bị người ta nặng lời như vậy,
trong khi bị đả kích dữ dội bằng những lời buộc tội, màu da của sa
môn Cồ Ðàm vẫn trong sáng và thái độ vẫn tươi tỉnh như một vị A La
Hán.
-
Cho đến có những
lúc bị tấn công một cách thô tục đê hèn và bị khiển trách với
những lời lẽ nặng nề, Ðức Phật không bao giờ mất bình tĩnh. Kinh
sách ghi rằng ngài luôn luôn có nụ cười dịu hiền trước khi mở lời.
Do vậy khi người Cơ Ðốc Giáo quan sát về Ðức Phật đã có những nhận
xét:
- - Lần đầu
tiên nhìn thấy gương mặt ấy của Ðức Phật, tôi vô cùng cảm kích
vì tánh thánh thiện thâm dịu của Ngài, không có người nào theo
Cơ Ðốc Giáo một cách tín thành và tâm mở rộng mà có thể tự chế,
tự ngăn cản lòng cảm phục, và sự lễ lạy trước nụ cười hiền hòa
đầy năng lực của Đức Phật.
-
Ðiều nầy cho
chúng ta cái nhìn dứt khoát, là một người được mọi người kính mến
phải là người có đầy đủ phẩm hạnh. Như vậy phẩm hạnh là những yếu
tố cần thiết một con người cần phải có, và cũng được coi là điều
kiện tiên quyết để làm tín đồ của một tôn giáo, làm công dân của
một quốc gia, một chủng tộc. Tất cả những ai có mắt để thấy, và có
tâm trí để hiểu biết đều nhận thức rằng những đức tánh như:
-
- Tình huynh đệ
giữa người và người,
-
- Lòng trắc ẩn,
và tình thương đại đồng ..,
-
Là con người ai
ai cũng cần phải có, vì đó là yếu tố cần thiết để sống, để kiến
thiết một xã hội tươi mát lý tưởng nhất. Nhưng do những hiểu biết
bị đóng khung, hướng về những mục đích tham vọng khác, cho nên con
người đã bị hướng dẫn dưới sự lãnh đạo sai lầm của một số tôn
giáo. Vì vậy mà có những nhọc nhằn tranh giành, chiến tranh và
công lý, và nhiều khi chúng ta còn nghe nhắc đến Thánh Chiến nữa.
Thực sự chiến tranh là chiến tranh. Dù là thánh chiến hay chiến
tranh thì tất cả cũng đều để bênh vực công lý, nhưng khi nói đến
chiến tranh thì sẽ không bao giờ là hòa bình. Tất cả mọi cuộc
chiến tranh đều tàn nhẫn đều đưa con người đến chỗ tiêu diệt lẫn
nhau. Nhưng theo tôn chỉ và nhất là sự thể hiện tâm từ bi của Đạo
Phật, Đức Phật luôn luôn muốn mọi người sống trong tình huynh đệ,
không ai làm khổ ai, không bộ lạc nào tiêu diệt bộ lạc nào, không
có quốc gia nào xâm lăng quốc gia nào ...
-
Theo chiều hướng
này, trong kinh nam truyền có ghi lại một diễn biến:
-
- Những người
Sakya và người dòng Koliya vốn là hai nước láng giềng, đang chuẩn
bị gây chiến tranh với nhau để giành quyền xữ dụng nước của một
dòng sông. Khi hay biết cuộc chiến tranh đẩm máu sắp xảy ra, Ðức
Bổn Sư cùng tăng đoàn đến gần và hỏi họ:
-
- Máu người và
nước sông cái nào quý hơn?
-
Cả hai đều nhìn
nhận máu người là quý hơn. Ðức Bổn Sư giảng cho họ, và cuộc chiến
sắp bùng nổ đã được ngăn chận.
-
Những hành vi
của Ðức Phật đến với mọi người rất bình dị, Ngài chỉ muốn hướng
dẫn cho con người thấy, muốn sống với nhau trong tình huynh đệ
toàn khắp là phải thể hiện tâm từ thương yêu mọi người mọi loài.
Vì lẽ ấy Ðức Phật dạy hàng tín đồ không nên xem Ngài là vị cứu
thế, là một người cứu rỗi linh hồn của những sinh vật do mình tạo
nên, mà Ngài là vị Thầy, hướng dẫn chúng ta trên con đường đến
chân thiện mỹ, và khuyến khích chúng ta tự nương nhờ lấy vào chính
chúng ta. Ngài cũng giảng giải hàng tín đồ rằng sau khi Ngài tịch
diệt họ phải tìm nương tựa và tìm sự bảo vệ nơi chính chúng ta
cũng như trong giáo Pháp, chớ không nên nương tựa vào bất cứ một
ai khác.
-
Ðối với người
Phật Tử, ngài còn nhấn mạnh, lời dạy của Ngài là những phương cách
để sống cuộc đời chân thiện mỹ, nhưng nếu mọi người có coi đạo
Phật như là một tôn giáo, thì tôn giáo và nguồn gốc của tôn giáo
Phật Giáo không phải là một vấn đề siêu hình, mê tín, cuồng tín mà
là vấn đề tâm lý và trí thức, có hiểu biết và biết sống một cuộc
sống có ý nghĩa.
-
Vì thế là người
Phật Tử chúng ta phải có cái nhìn chính xác, Ðạo Phật là một tôn
giáo không phải là tín ngưỡng suông. Không vì do quyền lực thiêng
liêng khai sáng chỉ bảo, do đó chúng ta không phải kinh sợ một cái
gì mà chúng ta không biết, cũng không kinh sợ một chúng sanh, hay
một thần thánh siêu hình nào đó có quyền ban thưởng những hành
động thiện, và hình phạt những hành động bất thiện. Thay vì chúng
ta cứ quan tâm đến vấn đề thần thánh, thì chúng ta nên cố gắng tu
tập, sửa đổi tâm tánh, chú trọng đến khía cạnh tâm lý và trí thức
để thăng tiến trong cuộc sống, làm giảm bớt những suy tư, lo âu,
phiền muộn để không còn đau khổ, không còn những xung đột và những
bất toại nguyện của đời sống. Có được như thế thì thật sự chúng ta
đã thực nghiệm tinh thần đạo Phật và thể hiện Tâm Từ ngay trong
kiếp sống sinh tồn nầy.
-
Khi xem qua nội
dung những lời được giảng dạy trong Phật Giáo chúng ta thấy rằng
lời giáo huấn của Ðức Phật có phần khác biệt với các hệ thống tôn
giáo khác, và điểm chánh là khái niệm về một Thần Linh Tạo Hóa.
-
Có rất nhiều đặc
tính tôn giáo trong đạo Phật, nhưng không thể xếp Phật Giáo vào
chung với những tôn giáo mà phần nồng cốt chỉ xoay quanh vấn đề
thần linh và những năng lực siêu phàm. Phật Giáo không nhìn nhận
một thần linh tạo hoá trường tồn vĩnh cửu, không khuyên dạy một hệ
thống nghi thức sùng bái, và van vái nguyện cầu những thần linh.
Do đó không có sự tin tưởng vào một quyền lực cao siêu nào kiểm
soát định mạng con người. Trong Phật Giáo con người xem tất cả
những gì mình thực hiện tốt đẹp và thành tựu hoàn mãn đều do sự cố
gắng, và hiểu biết của chính mình. Phật Giáo là một tôn giáo có
nền giáo lý lấy con người làm trung tâm điểm, không phải thần
linh. Như vậy đối với người Phật Tử, tôn giáo là một lối sống an
vui hạnh phúc. Trong ý nghĩa một người có tu có học, tự tạo cho
mình một nếp sống luân lý, đạo đức và trí thức dẫn đến ánh sáng
nội tâm cao siêu nhất để chấm dứt mọi hình thức đau khổ, và những
kiếp sinh tồn triền miên trong vòng luân hồi, cuối cùng giải thoát
toàn vẹn cái tâm.
-
Nhìn về phương
diện triết học, Ðức Phật không quan tâm đến những vấn đề vốn làm
bận tâm các triết gia, Ðông và Tây Phương, từ xưa đến nay. Theo
quan điểm của Ngài những vấn đề siêu hình ấy chỉ làm rối trí con
người và xáo trộn mức quân bình tâm trí. Những giải đáp của họ,
Ngài biết như vậy là sẽ không ngăn chận được nổi đau khổ và tình
trạng không vừa ý, vốn là bản chất của đời sống. Vì lẽ ấy, Ngài
thường không giải thích những thắc mắc được nêu lên một cách lầm
lạc.
-
Nói tóm lại, sự thử thách lớn của Phật Giáo nhằm hướng dẫn chúng
ta tìm hiểu sâu sắc những gì mà chúng ta biết và thực tập, đồng
thời xét lại định nghĩa xưa của danh từ tôn giáo Phật Giáo, mà
có một số người vì không biết, vì vô tình hay cố ý gán ghép cho
Phật Giáo, và tìm ra một định nghĩa cho thích hợp với đạo Phật.
Ðối với tự thân phương cách nắm lấy chân lý cao siêu nhất của
người Phật Tử, là tất cả mọi người phải hiểu và thực hành cho
được tâm từ bi. Thực hành ngay từ trong cuộc sống hiện thực, từ
trong vô minh tham vọng, cho đến lúc bừng tĩnh giác ngộ mới
thôi. Chúng ta phải biết rằng tất cả đều không tùy thuộc nơi sự
phát triển thuần túy của trí thức, mà tất cả đều tùy thuộc nơi
sự chấp nhận một sự giáo huấn thực hành nghiêm túc của tâm từ bi
rộng mở. Chính công trình phối hợp chặt chẽ lý thuyết và thực
hành ấy chăc chắn sẽ dẫn đến giác ngộ và giải thoát cùng tột.
--o0o--
|
|