TẬP SAN DƯỢC SƯ

An Lạc Trong Đau Khổ
Trúc Giao
--o0o--
 
Là Phật Tử Chùa Dược Sư, cứ mỗi tháng chúng ta đều có thứ Bảy tuần lễ Thứ Hai thực tập Quán Niệm và Thứ Bảy tuần lễ thứ tư thực tập Thiền Quy Hướng Tịnh Độ, trong ngày thực tập Thiền Quy Hướng Tịnh Độ đại đa số thời giờ chúng ta niệm danh hiệu Phật A Di Đà. Do vậy, nếu đứng trên phương diện khích lệ chúng ta thấy đại chúng càng lúc càng tươi mát và tăng tiến thêm trên phương diện tu tập.
Trong những năm gần đây, tình hình chung trên thế giới càng ngày càng phát sinh nhiều sự đối nghịch, do vậy mà đời sống con người ở những vùng thù nghịch đó đau khổ mỗi lúc mỗi nhiều thêm hơn. Theo thời gian, những sự đối nghịch này trở nên nghiêm trọng, đau khổ và thường xuyên hơn. Có người hỏi:
- Tâm đại từ đại bi của chư Phật, chư Bồ Tát, và chư tôn thiền đức là thường hay giúp chúng sinh đau khổ. Như vậy tình hình đối nghịch của xã hội như hiện nay, chư tôn thiền đức, chư Bồ Tát, chư Phật có hoan hỷ giúp không? Và nếu giúp thì giúp bằng cách nào.
Như chúng ta đã biết, hạnh nguyện của chư Phật và chư Bồ Tát, chư tôn thiền đức lúc nào cũng cứu khổ ban vui, cho nên câu trả lời chắc chắn là hoan hỷ, có. Và các Ngài có rất nhiều phương pháp để hướng dẫn chúng ta thoát khổ, nhưng điều đó còn tùy thuộc vào mỗi cá nhân đã và đang sống trong những vùng thù nghịch đó có muốn lắng nghe và thực hành hay không, đó là một vấn đề khác nữa. Theo ý của một số chư tôn đức thì có rất nhiều phương pháp, nhưng phương pháp hữu hiệu nhất để vô hiệu hóa sự thù nghịch lẫn nhau, trước hết là:
- Chúng ta phải giải trừ tham, sân, si để tâm trí không mê muội nữa, thì sẽ chuyển thù thành bạn.
Và kế đến là các ngài cũng dạy chúng ta hiểu biết về luật nhân quả, để có thể chấp nhận được cuộc sống hiện tại, và sống an lạc trong cuộc đời đau khổ như vậy. Nói về nhân quả, trước hết chúng ta phải biết về nguyên nhân của sự khổ. Là con người, chúng ta phải chịu khổ về các khía cạnh:
- Sinh
- Già,
- Bệnh,
- Chết.
- Không đạt được những gì mình mong muốn;
- Phải chia ly với những người thương yêu,
- Phải sống chung đụng với những người mình ghét.
- Khổ vì năm ấm không dung hòa nhau.
Chúng ta bị vây bủa bởi tất cả những sự đau khổ này mà không biết cách nào để thoát ra. Như vậy nếu biết kiểm soát hoàn cảnh, thì  chúng ta có thể biết được phần nào những ảnh hưởng tới nghiệp quả của mình. Vì thế trong đời sống hằng ngày chúng ta cần phải tạo nghiệp tốt để được hưởng quả tốt. Lúc đó chúng ta sẽ hiểu rõ rằng đời sống hạnh phúc chính là nghiệp quả tốt phát sinh từ nhân duyên tốt, và đó là cách thoát khỏi đau khổ để được sống trong an lạc.
Ngày nay, khi chứng kiến những đau khổ ở xung quanh chúng ta, nhiều người trong chúng ta có thể cảm thấy sức nặng của nghiệp xấu. Những nghiệp xấu này đã phát sinh từ những tâm tư ích kỷ và hành vi sai lầm của mình. Chúng ta chỉ biết làm hại người khác để làm lợi cho mình. Vậy con đường duy nhất để chúng ta có thể giải trừ nghiệp xấu và tránh tạo thêm nghiệp xấu đó là:
- Chúng ta phải thực hành những lời dạy của Ðức Phật, không lợi dụng người khác để làm lợi cho mình, mà chúng ta phải ra sức giúp đỡ người khác và làm lợi ích cho xã hội.
Ða số trong chúng ta, đều có ý muốn hơn thua với người khác, cả những con vật và những đồ vật chúng ta cũng đều muốn làm chủ nó nữa. Vì thế nếu biết buông bỏ sự chấp thủ này, chúng ta sẽ có sự giải thoát. Những người giải thoát giác ngộ, là những người có đời sống an nhiên tự tại, vì họ đã làm tròn nhiệm vụ hướng dẫn và giáo dục chúng sinh bằng cách giải thích cho mọi người biết về chân lý của đời sống và vũ trụ, về luật nhân quả, để mọi người biết rằng mỗi hành vi thân, miệng, ý đều có hậu quả của nó.
Mọi người chúng ta đều tự quyết định làm điều tốt hay điều xấu, và do đó chúng ta sẽ nhận lãnh quả tốt hay quả xấu. Giáo lý của Đạo Phật chỉ giáo dục chúng ta theo nhân duyên, phần còn lại thì để cho chúng ta tự quyết định là sẽ tạo nghiệp tốt hay xấu. Đối với người Phật Tử chúng ta học và thực hành theo chân đức Phật, lẽ tất nhiên tâm của chúng ta sẽ thực tập trụ trong an tĩnh, nhờ vậy mà chúng ta có được chút ít tịnh tâm, và trí huệ, từ đó chúng ta có thể giao tiếp một cách có hiệu quả với con người và sự vật. Cách thực hành như vậy sẽ mang lại lợi ích, vì chúng ta sẽ không những giải trừ được đau khổ hiện tại của mình, mà còn có thể giải trừ được những nghiệp xấu đã tích lũy từ vô số kiếp trước.
Sự an lạc, hạnh phúc đích thực là như vậy, nhưng trong cuộc đời không có được bao nhiêu người nhận ra sự lợi ích đích thực này. Lý do đơn giản là vì chúng ta bị nghiệp xấu ngăn che, cho nên không thể trông thấy điều hay lẽ phải ở trước mắt. Mặc dầu nhiều người Phật Tử được chư tôn đức liên tục nhắc nhở qua các đối tượng như những tranh và tượng chư Phật, Bồ Tát, với những câu kinh mà chúng ta tụng niệm, và với những bài thuyết pháp mà chúng ta đã nghe, nhưng chúng ta vẫn không thể ứng dụng giáo lý trong đời sống hằng ngày, cho nên đau khổ vẫn cứ mãi đau khổ.
Tình trạng này chúng ta không nên đổ lỗi cho chư Phật, Bồ Tát, là đã không giúp đỡ. Sự thật là các ngài luôn luôn giúp đỡ, nhưng chúng ta không để ý tới. Bởi vì lúc nào chư tôn đức cũng thường nhắc nhở:
- Ðược sinh ra làm người có khả năng nghe Giáo Pháp là một cơ hội rất hiếm có, cơ hội đó chỉ có một lần trong hằng triệu triệu kiếp sống của chúng ta.
Quả thật, được gặp Giáo Pháp là một điều hiếm có, chúng ta sẽ thiệt hại lớn nếu để lỡ cơ hội quý báu này. Do vậy chúng ta cần phải suy ngẫm và sám hối những lỗi lầm của mình để có thể giải trừ phiền não và những thói quen phàm tục, tức là đã giải trừ được nghiệp xấu. Chúng ta có thể giải trừ những nghiệp xấu này bằng cách sám hối những lỗi lầm của mình và phát nguyện không tái phạm. Việc tu tập hằng ngày sẽ giúp chúng ta giảm bớt nghiệp xấu. Nhưng nhớ là chúng ta cần phải tu tập ở giữa xã hội chứ không xa lánh xã hội. Chúng ta có thể chọn một pháp tu nào đó trong số tám mươi bốn ngàn pháp môn mà Ðức Phật đã dạy. Một trong vô số pháp môn thường được chư tôn đức nhắc nhở nhiều đó là pháp môn Nhị Lực:
- Tụng Kinh, niệm Phật, thiền tọa và thiền hành.
Pháp môn Nhị Lực là một pháp môn tiện lợi, đơn giản, và hiệu quả nhất, vì tự thân pháp môn này đã có sức mạnh cần thiết để giải trừ mọi phiền não và ác nghiệp của chúng ta. Có người hỏi rằng:
- Bạch Thầy, theo lời Thầy dạy, con vẫn cứ luôn tụng Kinh, niệm Phật và thiền tọa hằng ngày, nhưng tại sao con chưa thấy có kết quả gì cả.
Chúng ta phải biết rằng, từ xưa đến nay đã có nhiều người thực hành pháp môn Nhị Lực và đã có người đạt kết quả đáng kể, và đã thành công trong việc giải trừ nghiệp xấu của họ. Cho nên nếu chúng ta không thấy có kết quả, thì chúng ta phải xét lại, vì có thể là sự hành trì hằng ngày của chúng ta không đúng với lời hướng dẫn của Ðức Phật. Nói cách khác, chúng ta đã không làm những gì được khuyên phải làm, mà chúng ta lại làm những gì được khuyên không nên làm. Thí dụ:
- Chúng ta được khuyên là phải nên tạo cơ hội để hiểu nhau, để có thể thương yêu và chung sống với nhau trong hòa bình và hạnh phúc.
 Lời khuyên là như vậy, nhưng chúng ta không làm, trong khi đó ai cũng cứ đem cái kỳ cục của mình ra để trên bàn, còn tự thị khoe khoan là cái kỳ cục của tui còn to hơn của cô/anh/chị chớ không nhỏ đâu, đừng có lên mặt ba gai ..... Lý do đó mà chúng ta không có hạnh phúc an lạc là như vậy.
 Điều tốt hơn hết là nên làm theo lời dạy của Ðức Phật để giảm bớt nghiệp xấu. Cho nên việc tụng niệm, tu tập hằng ngày, và mục tiêu của chúng ta phải phù hợp với giáo lý. Việc tụng kinh là nhắc nhở chúng ta về những giáo lý, và nhắc nhở chúng ta phải làm theo giáo lý để tu sửa bản thân. Do vậy yếu tố cần phải có trong mỗi người là:
- Tâm chân thực,
- Thanh tịnh,
- Bình đẳng,
- Từ bi, và giác ngộ.
Với tâm trí như vậy thì chúng ta mới có thể giải quyết được mọi vấn đề, vốn không thể được giải quyết bằng hơn thua, ích kỷ hẹp hòi. Những vấn đề này chỉ có thể được giải quyết trong tinh thần hòa hiếu và lòng từ bi đối với toàn thể chúng sinh, các loài sinh linh cũng như những vật bất động. Nhưng trước hết là chúng ta cần phải buông bỏ ý muốn điều khiển người khác, vì khi một con người muốn điều khiển một con người, thì chỉ đào thêm hố sâu ngăn cách. Không ai có thể thực sự kiểm soát được ai cả, điều này lịch sử đã cho chúng ta nhiều thí dụ về những cường quốc dùng võ lực để kiểm soát một quốc gia khác chẳng hạn: Thành Cát Tư Hãn xâm chiếm từ Trung Đông đến bờ biển Thái Bình Dương, Hitler xâm chiếm Âu Châu, Nhật Bản xâm lăng Trung Hoa, người Nga ở Afganistan, và người Mỹ ở Việt Nam; tất cả đều đã mang lại khổ đau khốn cùng cho người bị trị và kẻ được trị.
Khác hẳn với pháp thế gian, đó là việc truyền bá giáo pháp của Phật giáo ở khắp nơi trên thế giới của đệ tử Đức Phật. Đoàn thể thanh tịnh này đến đâu đều tổ chức những buổi giảng pháp, những khóa tu học, phân phối miễn phí băng ghi âm, và sách để khuyên mọi người làm điều tốt. Kết quả là nhiều người được nghe giáo lý của Ðức Phật, và trở thành những con người lương thiện. Tuy nhiên đoàn thể này đã không phải tốn kém nhiều để đạt được loại kết quả này. Trong khi đó có các cường quốc phải chi tiêu những món tiền lớn để sản xuất những loại vũ khí tối tân cho chiến tranh, như thế chỉ tạo thêm những nghi kỵ và hận thù nhiều hơn. Ðáng ra họ có thể dùng tiền đó để giúp đỡ những người nghèo đói, và như vậy họ sẽ có hòa bình và dễ thu phục được lòng mọi người. Họ cũng có thể dùng tiền để giáo dục người dân cho họ biết tự túc, và nên quan tâm tới những nhu cầu cấp thiết an lạc và hạnh phúc cho con người nhiều hơn, thế thì còn gì hay bằng. Nếu làm được như vậy thì trong đời sống hằng ngày, trong bất cứ công việc gì của cũng có tính chất lợi ích và hiền từ. Ðây là cách tốt nhất để gây ảnh hưởng tới người khác với lòng từ bi. Việc dùng võ lực để giải quyết vấn đề không chỉ tạo thêm thù hận, mà lại còn mang lại quả xấu phải đọa vào địa ngục trong đời kiếp nào đó. Trong khi đó việc hành xử phù hợp với Giáo Pháp chắc chắn sẽ làm cho tâm trí của chúng ta được chuyển hóa, và con người càng thân cân cận với con người nhiều hơn. Sự vật là đối tượng phản chiếu của tâm trí, vì vậy khi chuyển được tâm trí là chúng ta có thể chuyển hóa được hoàn cảnh. Cho nên khi sống theo giáo pháp giải thoát thì ý nghĩ của chúng ta sẽ thay đổi, và hành vi của chúng ta cũng sẽ trở nên đúng đắn.
Chúng ta nên buông bỏ tính vị kỷ, và nghĩ đến việc làm lợi ích cho người khác. Tâm lý thông thường, chúng ta chỉ quan tâm tới bản thân, chỉ nghĩ tới việc bảo vệ quyền lợi của chính mình, của đoàn thể mình, hay của nước mình. Lối nghĩ như vậy đã đưa tới sự tranh chấp giữa mọi người, sự kình chống giữa những đoàn thể, và chiến tranh giữa các quốc gia. Hậu quả là mọi bên đều bị thiệt hại về nhân mạng, tiền bạc, tài sản, và chủ quyền quốc gia. Sự kình chống giữa cá nhân thì tình thân hữu, chị em hay anh em và hòa bình bị phá vỡ, hơn thế nữa khi đã tạo thành môi trường kình chống nhau, là chúng ta đã hoàn toàn thiếu quan tâm tới vạn vật trong môi trường tự nhiên, vì vậy môi trường sống của chúng ta cũng sẽ bị hủy diệt. Chính chúng ta sẽ phải chịu hậu quả của sự vô tâm và thiếu từ bi này.
Tất cả vạn vật đều có sự tương quan tương duyên chặt chẽ với nhau. Muôn loài vạn vật, kể cả chúng ta, đều sinh ra từ nhân duyên, vì vậy làm hại người khác hay vật khác thì chính là chúng ta đang làm hại chính mình. Chỉ khi nào hiểu rõ điều này thì chúng ta mới có thể giải quyết được những vấn đề của con người, xã hội và thế giới. Nguyên nhân của mọi tranh chấp và tai họa đều xuất phát từ tính vị kỷ, chỉ nghĩ tới quyền lợi của bản thân, của nhóm hay của nước mình. Cho nên nếu giải quyết được tính tình vị kỷ thì chúng ta cũng sẽ giải quyết được tất cả những vấn đề khác.
Khi chúng ta thực hành buông bỏ tánh vị kỷ với hành vi đúng đắn, chúng ta sẽ thấy ác nghiệp sẽ giảm bớt và nghiệp tốt gia tăng. Kết quả là sự đau khổ của chúng ta sẽ giảm thiểu, hay có thể được giải trừ hoàn toàn. Nói cách khác, hoàn cảnh của chúng ta sẽ được thay đổi một cách thuận lợi. Trong khi đó nếu để cho một ý nghĩ xấu không bình đẳng xuất hiện, thì chúng ta đã và đang làm cho một tình trạng thuận lợi trở thành tình trạng bất lợi. Và khi một ý nghĩ tham, sân, hay si sanh khởi thì đời sống hằng ngày của chúng ta sẽ trở nên bất ổn và rối loạn. Như thế trong lúc một ý nghĩ bình đẳng xuất hiện thì khi đó cõi Phật hiển lộ tức khắc. Tương tự như vậy, khi chúng ta có một ý nghĩ về Bồ Tát đạo thì cõi Bồ Tát sẽ xuất hiện ngay lúc đó. Một ý nghĩ thanh tịnh sanh khởi thì đời sống của chúng ta sẽ trở thành Cõi Tịnh Tây Phương.
Ðời người ngắn ngủi, nhưng chúng ta đã rất may mắn được sinh ra làm người, lại có khả năng nghe giáo lý của Ðức Phật, có khả năng hiểu một chút về chân lý thâm diệu trong giáo lý đó. Luật nhân quả là thường tồn và không bao giờ thay đổi. Chúng ta gieo giống nào thì gặt giống đó, tạo nghiệp tốt thì được hưởng quả tốt, tạo nghiệp xấu thì sẽ lãnh quả xấu. Do vậy như nhân đem niềm vui đến cho người, thì chúng ta sẽ được hạnh phúc, và tạo sự khổ đau cho người thì chúng ta sẽ chịu bất hạnh. Ðó là quy luật của ngàn đời, ngay cả Chư Phật, Bồ Tát cũng không thể thay đổi được luật nhân quả này.
Tuy nhiên, đối với những nghiệp xấu mà chúng ta đã tạo, chúng ta có thể học cách sửa đổi nhân duyên trước khi chúng kết thành quả. Chúng ta cần phải tránh và dứt khoát không bao giờ tạo thêm nghiệp ác, và nên tinh tấn tạo thiện nghiệp. Chúng ta lại còn phải tránh những điều kiện xấu ... Trong một số trường hợp, việc này có thể làm giảm hay giải trừ quả xấu. Như vậy, chúng ta có thể kiểm soát nghiệp quả của mình, chuyển hoá hoàn cảnh và đổi hướng trong đời sống, để được thuận lợi hơn.
Hiện tại, mỗi lúc chúng ta lại nghe nói nhiều hơn về những lời tiên tri, báo trước những tai họa và cả tận thế ... Những lời tiên tri này cũng nói rằng người ta có thể giảm bớt, hoặc chậm lại, hay cả giải trừ những tai họa này nếu biết tu sửa để trở thành người tốt, biết làm lợi ích cho người khác mà không nên vị kỷ. Nếu không biết, quay lưng trở lại với điều tốt thì người ta sẽ khó tránh khỏi tai họa. Ðức Phật nói rằng có ba tai họa lớn và ba tai họa nhỏ trong thế gian này. Ba tai họa lớn đó là:
- Lửa, nước và gió.
Ba tai họa nhỏ là:
- Chiến tranh, bệnh dịch và đói khát.
Bàn về sự tác hại của ba tai họa này, theo Kinh Hoa Nghiêm nói rằng:
- Đại họa lửa có thể đốt cháy cõi Thiền Thiên thứ nhất, một trong hai mươi tám cõi trời, và là cõi cao nhất mà lửa có thể tới được. Lửa sẽ phát sinh từ bên trong chúng ta khi tâm ganh tị và sân hận với nhau. Và tất nhiên cõi Thiền Thiên thứ nhất cũng phải chịu tai họa lửa, nơi chúng ta có thể thấy rằng những sinh linh ở cõi trời này vẫn chưa giải trừ được tính nóng giận. Họ đã tu tập bốn tâm vô lượng từ, bi, hỷ, xả nhưng chưa tận diệt được sân hận, vì vậy họ vẫn có thể bị nạn lửa tiêu diệt.
- Trong khi đó các chúng sanh trong cõi Thiền Thiên thứ nhì đã hoàn toàn giải trừ được tính sân hận của họ vì họ không có một ý nghĩ sân hận nào cả. Vì vậy cõi trời này sẽ không phải chịu nạn lửa, nhưng họ vẫn phải chịu nạn nước, là tai họa có thể làm chìm đắm cõi trời này. Do vì tính tham dục mà ra.
- Chúng sinh ở cõi Thiền Thiên thứ ba đạt trạng thái thiền định sâu hơn chúng sinh ở hai cõi trời thứ nhất và thứ nhì, vì vậy họ không phải chịu nạn lửa hay nạn nước, nhưng họ vẫn có thể phải chịu nạn gió, là tai họa từ gốc rễ của là si mê.
- Cõi Thiền Thiên thứ tư không có những tai họa lửa, nước hay gió, vì vậy cõi này được gọi là cõi trời phúc lạc. Chúng sinh ở cõi này có phúc lạc lớn nhất trong sáu cõi.
Nếu chúng ta là những sanh loại trong các cõi trời này, muốn tránh hay được miễn những tai họa này, thì chúng ta phải trừ bỏ tính tham dục, sân hận, si mê, cũng như tính kiêu ngạo của mình. Cho dù là tu hành, chúng ta cũng không nên có cảm giác tham muốn giáo lý thế gian hay giáo lý của Ðức Phật. Vì một chút cảm giác tham muốn cũng là chướng ngại trong việc đoạn lìa tâm tham dục, và giải trừ mọi tai họa, trong khi thế giới đang phải chịu những tai họa mỗi lúc mỗi nhiều hơn và nghiêm trọng hơn. Theo trong kinh Ðức Phật cũng đã nói rằng thế gian sẽ bị hủy diệt một phần từ ba tai họa nhỏ đó là:
- Chiến tranh, bệnh tật, và nạn đói.
Ngài cũng nói rằng sẽ có một trận chiến tranh kéo dài bảy ngày và bảy đêm. Sau cùng là nạn đói kéo dài bảy năm, bảy tháng, và bảy ngày. Trước đây, người ta khó có thể tưởng tượng một trận chiến tranh chỉ kéo dài bảy ngày mà lại gây ra hậu quả tàn khốc lớn như vậy, nhưng khi kết thúc Đệ Nhị Thế Chiến bằng hai quả bom nguyên tử tại hai thành phố Hiroshima và Nagasaki ở Nhật Bản thì con người hiểu ra rằng Ðức Phật đã nói tới chiến tranh hạt nhân. Ở Nagasaki nhiều người sống sót sau vụ nổ nhưng lại bị nhiễm phóng xạ và nhiều người trong số họ đã chết trong một thời gian ngắn sau đó. Sự kiện này có thể được coi là một bệnh dịch. Và bệnh do phóng xạ gây ra được diễn biến một cách âm thầm. Bạch cầu trong máu bị hủy diệt dần dần rồi sau đó nạn nhân bị xuất huyết không thể cứu chữa được, và sau cùng là tử vong. Những người nào vẫn còn sống ít nhất là bảy tháng sau vụ nổ sẽ được coi là đã thoát được hiệu ứng tức khắc của bom nguyên tử. Mấy năm sau vụ nổ cây cỏ không mọc nổi. Tất cả đều khô cằn. Cây cỏ chỉ bắt đầu mọc trở lại khoảng tám năm sau khi hai quả bom rơi xuống. Như Ðức Phật đã nói:
- Đất không mọc gì cả trong bảy năm, bảy tháng, bảy ngày. Trong khoảng thời gian này, tất cả sẽ phải chịu nạn đói.
Như vậy, chúng ta thấy rằng sự hủy diệt một phần trong thế giới mà Ðức Phật đã nói chính là hậu quả của chiến tranh hạt nhân.
Ngày nay, các nước trên thế giới đều đua nhau chế tạo nhiều vũ khí hạt nhân hơn, và càng khó kiểm soát hơn. Không ai biết là việc kiểm soát này còn được duy trì bao lâu nữa. Phải thành thật mà nói, chỉ có một cách độc nhất để đạt được sự kiểm soát thực sự võ khí hạt nhân, đó là khuyến khích và giúp con người hiểu là cần phải ngăn ngừa những tai họa do con người tạo ra. Do vậy khi nhìn vào tình trạng của thế giới hiện nay một cách khách quan, thì chúng ta sẽ thấy là rất khó tránh được tai họa đã và đang bị đe dọa này. Cũng từ đây, nếu xảy ra chiến tranh lúc này thì nhiều nhân mạng trên thế giới sẽ bị tiêu diệt rất nhiều.
Như chúng ta đã biết rằng thế giới đang phải chịu một tai họa lớn, mà ngay cả chư Phật, Bồ Tát và các vị Thần, Thánh cũng không thể cứu được. Cách duy nhất để giúp chúng ta thoát khỏi tai họa này, đó là tìm vào thế giới an tịnh của chư Phật. Muốn được như vậy, chúng ta cần phải chấm dứt việc tạo nhữngÕác nghiệp qua thân, khẩu và ý. Song song với việc tạo tác nghiệp ác từ nơi thân miệng ý, chúng ta cần phải tích lũy nghiệp tốt bằng cách trừ bỏ mọi ý nghĩ vị kỷ, luôn luôn nghĩ tới việc làm lợi ích cho người khác, không nghĩ tới quyền lợi của mình mà chỉ giúp đỡ người khác. Như vậy chúng ta sẽ không tạo nghiệp xấu nữa và sẽ chỉ tích lũy nghiệp tốt, còn nếu chỉ nghĩ đến bản thân thì chúng ta sẽ khó tránh khỏi tai họa đang tiến tới cuộc sống của chúng ta trong thế giới ngày nay.
Hiện nay trong số những người trong cộng đồng nhân loại vẫn còn sân hận, si mê, vẫn có khuynh hướng bạo động, và vẫn còn tranh chấp không biết khoan dung tha thứ nhau. Số người đó vẫn có vẻ nhất quyết đi về và lôi kéo nhau về hướng vực thẳm của đau khổ. Những người còn có hành động thù nghịch như vậy tại vì tâm ích kỷ và tà kiến chưa đoạn diệt. Lý do đơn giản là tại vì họ không có khả năng quan tâm tới người khác. Họ không thể hiểu được rằng mọi sự vật đều phát sinh từ chính tâm của họ. Họ không biết rằng mỗi ý nghĩ thù địch của họ có ảnh hưởng nguy hiểm tới môi trường sống chung quanh con người.
Là người học Phật, muốn có an lạc trong cuộc đời này chúng ta phải hiểu sự nguy hiểm của tâm tình bạo động. Do vậy chúng ta cần phải bỏ tính vị kỷ và cần phải hiểu rằng vũ trụ là quê nhà của chúng ta, đồng thời chúng ta và vũ trụ vạn vật là một thực thể độc nhất. Mỗi người chúng ta có cùng giác tánh như chư Phật, Bồ Tát. Chúng ta, chúng sanh, và chư Phật, Bồ Tát chỉ khác nhau ở chỗ các ngài là những người đã giác ngộ, còn chúng ta, và chúng sanh chưa giác ngộ. Vì là chưa giác ngộ cho nên cứ lẫn quẩn trong sanh tử luân hồi để làm cha làm mẹ làm con làm cái của nhau trong quá khứ. Tuy nhiên tất cả chúng sanh đều sẽ thành Phật trong tương lai, cho nên chúng ta không nên sát hại chúng sanh mà còn phải tôn trọng mỗi mỗi sinh mạng của chúng sinh. Chỉ cần hiểu chân lý này, và mở rộng tâm trí là chúng ta sẽ thấy rằng dù thuộc chủng tộc nào, tôn giáo nào, nền văn hóa nào, tất cả mọi người đều có liên quan mật thiết với nhau:
- Tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh.
Vì thế cho nên:
- Phải đối xử và coi nhau như anh em một nhà.
Khi hiểu biết như vậy thì những sự phân biệt, hiểu lầm, và tranh chấp giữa mọi người sẽ tự nhiên giảm, hoặc không còn nữa. Được như vậy thì loài người trước hết sẽ tránh được những tai họa do chính mình tạo ra, và sau đó là những tai họa được coi là tự nhiên cũng sẽ không còn. Vì là hoàn cảnh thay đổi theo tâm trí, cho nên khi tâm trí của chúng ta an lạc và từ bi, thì môi trường sống của chúng ta sẽ trở nên yên ổn và hòa bình.
Trong Kinh A Di Đà có đề cập đến Tây Phương Tịnh Ðộ. Cũng theo như trong Kinh A Di Đà nói rằng, cảnh giới này chỉ có những người đạo hạnh sâu dày mới được sống ở cõi đó. Từ ý nghĩa này chúng ta có thể hiểu, khung cảnh kỳ diệu của cõi tịnh Tây Phương chính là hình ảnh phản chiếu của đức hạnh và tâm trí của chúng ta trong cuộc sống hiện thực. Ngược lại với Tịnh Độ là Ta Bà hay còn gọi là cõi đời Ác Năm Trược. Sở dĩ gọi là Ta Bà hay còn gọi là cõi đời Ác Năm Trược bởi vì môi trường sống của chúng ta đã và đang bị ô nhiễm, sự kiện này là hậu quả của ý nghĩ và hành vi xấu của loài người chúng ta. Ðể có thể cứu vãn tình thế, chúng ta cần phải dùng trí huệ để giúp những người còn mê muội thực tập đạo tỉnh thức, càng nhiều bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Nhưng làm sao chúng ta có thể mang giáo dục đến cho nhiều người để làm thay đổi tình trạng của xã hội hiện nay, đó là những ưu tư của những người học Phật chúng ta. Tất nhiên chúng ta sẽ làm điều này bằng cách tận dụng tất cả các phương tiện, kể cả phương tiện khoa học kỹ thuật mà chúng ta đang có, để mang những điều hiểu biết tốt lành của chúng ta đến với mọi người. Hiện tại vẫn chưa quá trễ để chuyển hóa thế giới của chúng ta. Nếu tất cả mọi người trên toàn thế giới đều biết tu tập mỗi ngày, thì trong vòng một vài năm trái đất sẽ trở lại trạng thái bình thường. Những thiên tai sẽ tự nhiên chấm dứt. Đời sống của con người là hình ảnh phản chiếu của tâm trí chúng ta, vì vậy nếu có thêm nhiều người biết nghĩ đến người khác, có ước nguyện sống trong hòa bình, thì môi trường sống của chúng ta sẽ trở nên tốt đẹp không khó.
Trong chiều hướng này, nhiều Thầy cô trẻ và các cư sĩ nhiệt tình đã lên đường, do vậy mà nhiều nơi trên thế giới, nơi nào cũng có Chùa, nơi nào có phật tử thì nơi đó có những chương trình giảng dạy Phật Pháp. Nhiều nước ảnh hưởng Phật Giáo đều đã có những chương trình truyền hình trong việc giảng dạy. Ở Ðài Loan có ba hay bốn giờ diễn thuyết được phát sóng trên truyền hình mỗi ngày. Tại Hoa Kỳ, trong hệ thống Paltalk gần như lúc nào cũng có sự giảng dạy của các Thầy, có thể là các Thầy giảng trực tiếp hoặc có thể là mở băng giảng của các bậc tôn đức nổi tiếng cho mọi người nghe. Trong tương lai, nếu có nhiều thính giả hơn, có lẽ chuơng trình sẽ tăng giờ thuyết giảng nhiều hơn, và có thể cũng sẽ tăng số ngôn ngữ của những bài pháp luận nữa, vì hiện nay đa số đều được thuyết giảng bằng tiếng Việt. Trên khắp thế giới, những người nào có máy vi tính đều có thể nhận được những bài giảng trực tuyến này. Chúng ta dùng Internet để truyền thông với nhau, và có thể trả lời những câu hỏi trong những chương trình được phát năm hoặc bảy ngày mỗi tuần. Những việc này cần phải được thực hiện rộng rãi để mọi người trên toàn thế giới có thể sửa đổi bản thân và trở nên tốt hơn. Bằng cách này, chúng ta có thể đóng góp vào việc giải cứu thế giới của chúng ta.
Việc mọi người trên khắp thế giới đều có thể nghe thuyết pháp, đó là phương diện lý thuyết, nhưng chúng ta cũng cần phải thực hành. Như có lần đã nói, pháp môn hay nhất và thích hợp nhất vẫn là pháp môn:
- Tụng Kinh, Niệm Phật, Thiền và kinh hành.
Lý do nói pháp môn niệm Phật, thiền tọa và kinh hành thích hợp bởi vì một chúng sanh, khi chưa thành Phật, Bồ Tát, chúng ta vẫn còn có những ý nghĩ phân biệt, xao động, sân hận, chấp thủ, vẫn còn tham, sân, si và kiêu ngạo. Từ sự bất hòa trong gia đình cho tới sự tranh chấp giữa các quốc gia, rồi dẫn tới sự hỗn loạn của thế giới. Những ý nghĩ xấu này sẽ gây ra tai họa lớn cho loài người nếu chúng ta không tìm cách để hóa giải chúng. Vậy thì bây giờ chúng ta chỉ cần niệm:
- Nam Mô A Di Ðà Phật.
Là mọi việc đều tự nhiên tiêu. Khi niệm Phật tự nó làm cho tâm trí chúng ta trở về với sự thanh tịnh, bình đẳng, thức tỉnh, và an lạc. Khi tâm trí an tĩnh thì ngoại cảnh cũng phản chiếu trên sự an tịnh đó. Ý nghĩ của chúng ta tạo ra những làn sóng, hay còn gọi là sự rung động. Sự rung động của ý nghĩ không phải chỉ truyền tới những cá nhân khác mà còn có sức mạnh hóa giải những làn sóng ý nghĩ rối loạn phát ra từ những cảm xúc tham, sân, si và kiêu ngạo của họ.
Vậy nguyên tắc và nền móng của pháp môn tụng kinh, niệm Phật và thiền hành là sự phát ra những làn sóng ý nghĩ tốt. Hơn nữa, mục đích của pháp Tụng Kinh, niệm Phật và Thiền tọa và thiền hành không những chỉ là vãng sinh Tịnh Ðộ mà còn là gạn lọc những ý nghĩ xấu của chúng ta và những người khác. Ðức Phật đã biết về nhu cầu hiện tại của chúng ta, và ngài đã dạy chúng ta cách sống an lạc trong trong khổ, cách thay đổi số phận của chính mình và người khác nữa qua những câu kinh, tiếng niệm Phật.
Khi đã biết diệu lực của của pháp môn Nhị Lực và thực hành thì chúng ta có thể thực hành ở ngoài trời, bất kỳ nơi đâu hay trong điện Phật, khi đó quý Thầy sẽ dùng khánh, mõ hoặc nhạc cụ hướng dẫn mọi người. Nếu không có thời giờ hay ở xa chùa, thì chúng ta có thể mở máy niệm Phật và niệm theo ở nhà. Trong lúc làm việc cũng có thể niệm Phật, khi đi khi đứng khi làm, bất kỳ chúng ta làm gì, và bất kỳ nơi đâu đều có thể tùy duyên thực hành: Tụng Kinh, niệm Phật, thiền tọa và kinh hành. Đó là cách an lạc trong bận rộn hay an lạc trong đau khổ. Cứ thực hành như vậy cho tới khi mọi ý nghĩ và hành động đều hướng về Phật A Di Ðà.
Nói tóm lại, không cần phải là tín đồ Phật giáo mới có thể nhận được lợi ích của pháp niệm Phật, thiền tọa và thiền hành mà là bất cứ ai cũng có khả năng nhận được lợi ích của pháp môn Nhị Lực này, miễn là những ai có tâm hồn tu tập và phụng sự. Chúng ta không thể biết khi nào có thể nhận được lợi ích của pháp môn Nhị Lực, vì kết quả nhiều hay ít còn tùy thuộc vào sự hành trì của mỗi người. Để trợ duyên cho việc thực hành dẫn chúng ta về hướng chánh niệm, để sống cuộc đời an lạc trong mọi hoàn cảnh khổ đau của kiếp người, là Phật Tử chúng ta cũng nên thường xuyên tham gia các khoá tu học, thường xuyên về Chùa khi có cơ hội thì tốt hơn. Bởi vì mỗi khi bước chân vào Chùa chúng ta sẽ trông thấy tôn tượng của chư Phật, chư Bồ Tát là những tượng trưng cho chân tính của chúng ta. Tùy theo cách thờ phượng của mỗi Chùa. Có chùa thờ đức Phật A Di Đà ở giữa, Đức Quán Thế Âm và Bồ Tát Đại Thế Chí hai bên. Đức Phật A Di Đà tượng trưng cho tánh thanh tịnh. Bồ Tát Quán Thế Âm tượng trưng lòng từ bi. Bồ Tát Ðại Thế Chí tượng trưng trí huệ. Từ bi và trí huệ là hai phẩm tính giúp chúng ta tu tập để khám phá chân tính của mình, nhắc nhở chúng ta có lòng từ bi với người khác. Lúc nào cũng có sự tư duy chân chánh, không bị lôi cuốn theo cảm xúc nhất thời. Cách thờ phượng khác như đức Phật Thích Ca, Đức Văn Thù, và Phổ Hiền Bồ Tát. Phật Thích Ca tượng trưng cho chân tánh liên tục của chúng ta, Bồ Tát Văn Thù tượng trưng cho trí tuệ, và Bồ Tát Phổ Hiền tượng trưng cho đại nguyện. Trí tuệ và đại nguyện cũng là hai phẩm tính giúp cho tâm chúng ta vững vàng tu tập để thành tựu tâm nguyện cứu thế độ đời, để tất cả mọi người cùng sống an vui hạnh phúc bên nhau. Có được như thế thì cho dù cảnh đời có đau khổ, cay đắng, nghiệt ngã đến đâu đi nữa thì niềm hạnh phúc và an lạc cũng vẫn luôn luôn tồn tại trong tâm tư của người con Phật. 
--o0o--