|
TẬP SAN DƯỢC SƯ
-
Chuyển Hóa Tự Thân
-
Trúc Giao
- ---o0o---
-
-
Trong đêm trà đàm tại Chùa Dược Sư, vào tối Thứ Sáu ngày 12 tháng
09 năm 2003. Có một câu hỏi của sư cô Giác Tịnh:
-
- Con lớn tuổi mới xuất gia, chữ nghĩa kém cỏi không thể đọc kinh
và hành trì như các Thầy cô trẻ tuổi. Vậy xin Sư Phụ, và đại chúng
hoan hỷ chỉ dạy cho con pháp môn nào dễ tu để cho con thấy đạo.
-
Qua câu hỏi nầy, trong đại chúng ai cũng nhất trí:
-
- Là con người phàm phu ai cũng đầy dẫy những tham, sân, tật đố,
ganh tỵ , ngã mạn ...
-
Vì vậy muốn thực hành đạo và thấy đạo, chúng ta phải theo dõi các
tâm hành của chính mình, nếu thấy tánh hư tật xấu nào chúng ta
phải lập tức hết lòng chuyển hóa tự thân cho trở nên tốt đẹp. Theo
tinh thần nầy, được đại chúng đóng góp ý kiến theo một quan điểm
chung là phải thực tập các hạnh:
-
- Nhẫn Nhục để chuyển hóa tâm hành sân hận
-
- Từ Bi để biết thương những kẻ sa cơ thất thế
-
- Hỷ xả để hài hòa với tất cả mọi người
-
- Niệm Phật để chuyển hóa tâm tán loạn
-
- Nụ cười luôn nở trên môi để chào đón những ...
-
Nói chung, cách chuyển hóa tự thân dựa theo tinh thần căn bản của
Đạo Phật được đại chúng ai cũng rất hài lòng với sự đóng góp ý
kiến và kinh nghiệm của từng cá nhân, hoặc chia sẽ những gì học
được từ sách vở trên phương diện tu tập. Tuy nhiên hôm nay chúng
tôi cũng muốn chia sẽ một phần nào đến đại chúng trong và ngoài
đạo tràng về những gì tai nghe mắt thấy.
-
Như tất cả mọi người chúng ta ai cũng biết là Ðức Phật thường dạy:
-
- Cuộc đời là vô thường, kiếp người chẳng khác nào như hoa, sớm nở
tối tàn.
-
Mặc dầu vậy có rất ít người trong chúng ta có được tâm bình tĩnh,
và không sợ hãi khi nhìn lá vàng rơi hay những đóa hoa khô héo. Và
không ai là không khởi dậy niềm vui khi nhìn thấy muôn hoa đua nở,
cho dù chúng ta biết là những đóa hoa đó sẽ úa tàn, và những lá
hoa mềm mại kia cuối cùng rồi cũng sẽ bị hoại diệt.
-
Là người học Phật, nếu chúng ta quán chiếu về tính chất vô thường,
chúng ta sẽ thấy cái mong manh của kiếp người một cách chính xác,
và chúng ta sẽ càng yêu quý những cây cảnh, con người, những sinh
vật chung quanh chúng ta hơn, khi chúng ta thấy những cành cây
đang đâm chồi nở nụ. Điều này cũng giống như cuộc đời vô thường
nầy. Mặc dầu là Vô Thường, nhưng mỗi phút phù du trôi qua đều mang
trong nó một giá trị đặc biệt, và chính vì lý do nầy mà theo học
thuyết của Kim Cang Thừa, là mỗi người chúng ta có trách nhiệm
chuyển hóa xác thân, hay biến thân xác hoại diệt của chúng ta trở
thành một xác thân không gì có thể hủy hoại được. Hay nói một cách
văn vẻ hơn đó là:
-
- Thân Kim Cang Bất Hoại.
-
Thân Kim Cang Bất Hoại chính là hải đảo tự thân, ngôi chùa tâm
linh trong mỗi người chúng ta, là dòng suối từ bi chảy triền miên
bất tận chan hòa đến khắp chúng sanh nhân loại.
-
Trong Kim Cang Thừa, quá trình chuyển hóa tự thân này được thực
hiện bằng cách quán chiếu hình ảnh của các vị ác thần hoặc thiện
thần. Dù là ác hay thiện thần đối với người thực hành theo lập
trường của Kim Cang Thừa, thì những vị ấy cũng đều được coi là
những vị Đại Bồ Tát. Khi chúng ta quán chiếu, càng đồng hóa chúng
ta với các vị đại Bồ Tát nầy, thì niềm hoan hỷ an lạc sẽ xuất hiện
trong tâm của chúng ta. Trong quá trình tu tập, nhất là trong việc
tập trung Niệm Phật, Thiền Tọa và Kinh Hành. Chúng ta có thể tạo
bên trong chúng ta một vùng sức mạnh tâm linh có thể vượt khỏi tầm
mức của một kinh nghiệm của cá nhân, đồng thời tác động vào ngoại
cảnh, mà qua đó tạo sự thay đổi trong chính bản thân của mỗi người
chúng ta một cách nhẹ nhàng.
-
Khi mà những hình ảnh của các vị Đại Bồ Tát trở thành sống thật
với chính chúng ta trong quá trình tụng kinh, thiền định, niệm
Phật và Kinh Hành thì chúng ta gọi là bản chất giác ngộ đạt được,
hay thấy được trong lúc hành trì. Mỗi vị trong số các Bồ Tát như:
-
- Ðức Quan Âm tiêu biểu cho đức tánh từ bi
-
- Văn Thù tiêu biểu cho đức tánh trí tuệ
-
- Di Lặc tiêu biểu cho sự hoan hỷ ...
-
Tất những vị Bồ Tát nầy là hiện thân cụ thể của một đức tính đặc
biệt nào đó của lý tưởng Bồ Tát. Bởi vì cũng như con người, các cá
nhân có thể có cùng lý tưởng và quan điểm, nhưng cá tánh vẫn khác
nhau, các vị Bồ Tát cũng thế. Dù các ngài đều là hiện thân của
lòng từ, tâm bi, giàu tình nhân ái, có khả năng thấy cùng khắp, và
biết tất cả. Tuy nhiên, các ngài thể hiện tâm giác ngộ này bằng
nhiều cách độc đáo khác nhau.
-
Noi theo tâm hạnh của các vị Đại Bồ Tát, như vậy chúng ta phải
thực tập một sự kết hợp thật nhuần nhuyễn đến mức tuyệt hảo giữa
tâm đại bi và trí tuệ bát nhã để chuyển hóa những thứ tình cảm xấu
tệ trở thành thứ tình cảm dung nạp và san sẽ khổ đau với tất cả
muôn loài. Mặc dầu chúng ta biết rằng mỗi đức tánh đó của các vị
Bồ Tát đó đều khác nhau trong cách dụng công, nhưng quan điểm
chung của các ngài là khả năng thấy được bản chất thống nhất của
vạn thể. Khả năng nầy có được là nhờ các vị có thể đặt mình vào vị
trí của người khác. Chúng ta là người đã và đang đi qua con đường
Bồ Tát Hạnh, bằng cách quán chiếu và đồng hóa mình với các đức
tánh Bồ Tát, thì chúng ta chính là người được giải thoát và tự do.
Như vậy chúng ta không những chỉ thánh thiện, hay thoát khỏi phiền
não chướng theo nghĩa tín ngưỡng thông thường là:
-
- Chỉ được cứu khổ họ, mà còn chính là người đạt được quả vị toàn
giác và tâm thức đã hòa vào bản thể tuyệt đối.
-
Ðồng thời chúng ta cũng có thể bước một bước nhảy vọt vào vùng tâm
thức giải thoát này. Có nghĩa là chúng ta đã vượt qua mọi giới hạn
cá nhân và đã chứng ngộ được những thực tại vượt khỏi tầm mức cá
nhân trong tâm chúng ta. Và vì kinh nghiệm chứng ngộ này là kinh
nghiệm bao trùm và phổ quát nhất mà tâm thức con người có khả năng
đạt đến, nó đòi hỏi chúng ta ngay từ đầu một thái độ cơ bản. Đó
là:
-
- Mở rộng tâm vô biên của chúng ta đến với cái phổ quát tận cùng
của cuộc sống.
-
Có nghĩa là chúng ta phải thực tập thể hiện các hạnh:
-
- Tha thứ
-
- Bao dung
-
Và tất cả các hạnh khác cho tâm tư nhẹ nhõm. Chúng ta cũng phải
ghi nhớ rằng những gì mà đức Phật đã giảng và diễn tả bằng lời,
chỉ là một phần nhỏ của những gì Ngài đã dạy qua nhân cách và tấm
gương của Ngài. Ngay cả những lời dạy cùng với nhân cách vĩ đại
ấy, cũng chỉ phản ánh một phần nhỏ kinh nghiệm tâm linh của Ngài.
Đức Phật rất cảnh giác về giới hạn của ngôn ngữ ngay từ lúc đầu
khi ngài do dự không muốn tuyên bố giáo lý của mình, và diễn đạt
nó bằng lời. Bởi vì Ngài nhận định là những gì Ngài đã thấy là cao
sâu vi diệu, khó hiểu, khó nhận ra, không dễ nắm bắt bằng hiểu
biết suông. Và khi cuối cùng Ngài quyết định thuyết giảng chân lý
vì lòng thương tưởng đối với một số ít người mà mắt còn dính chút
bụi mờ, Ngài đã thận trọng không nói đến những điều được coi là
tối hậu. Cho đến hơn bốn mươi năm sau, ngài mới hướng dẫn chúng
hội đi đến nơi tối hậu.
-
Vì công cuộc chuyển hóa tự thân có tính cách thực tế, cho nên
Ngài đã từ chối trả lời những câu hỏi liên quan tới lãnh vực siêu
hình trong nhận thức tâm linh, và cũng yên lặng về những vấn đề
vượt ngoài tầm hiểu biết của con người. Ngài không lạm bàn với
loại tư duy suy đoán. Ngài chỉ giới hạn ở việc chỉ ra con đường
chúng sanh có thể đi, và con đường có khả năng giúp chúng sanh
giải quyết tất cả vấn đề thuộc về thực chất trong cuộc sống hiện
tại. Ngài trình bày con đường này sao cho nó thích nghi với khả
năng trí thức, và tình cảm của người nghe, để cho mọi người ghi
nhận và biết tự chuyển hóa khi gặp cố sự.
-
Ngài hướng dẫn học trò mình theo trình độ phát triển của từng
người, và chỉ truyền lại những phần sâu sắc hơn của giáo pháp, và
những lời chỉ dẫn hành thiền thâm diệu hơn cho một nhóm giới hạn
gồm các đệ tử có trình độ cao hơn của Ngài. Ðiều nầy không có
nghĩa là Ngài thiên vị, nhưng Ngài biết có chỉ dạy cũng không hiểu
nổi, điều nầy có thể lý giải cho chúng ta hiểu được rằng, tại sao
trong pháp hội Linh Sơn chỉ có Ngài Ca Diếp hiểu được giáo pháp
tối thượng thừa đó.
-
Có những trường phái Phật Giáo về sau nầy vẫn còn giữ nguyên tắc
nầy. Tuy nhiên họ có điều chỉnh các phương pháp giảng dạy giáo lý,
và thiền định sao cho thích hợp với nhu cầu của mỗi cá nhân, và
điều kiện phát triển lịch sử của thời đại. Và cũng giống như chính
đức Phật đã hướng dẫn đệ tử của Ngài theo những cách khác nhau,
tùy theo sự trưởng thành về tâm linh của mỗi người. Ngài dạy cho
họ những cách hành trì và sự chuyển hóa khác nhau, những trường
phái sau này đã dành những phần phức tạp hơn trong giáo lý, và
những bài tập thiền định tương ứng cho những ai đã phát triển được
những kiến thức, và thiện xảo cần thiết.
-
Những phương pháp hướng dẫn đặc biệt nầy về sau được mọi người
thường gọi là bí truyền hay giáo lý mật. Nhưng phương pháp tu tập
nầy hoàn toàn không có ý định ngăn cản bất cứ ai đạt đến những
trình độ nhận thức cao hơn. Ngược lại, phương pháp này chỉ nhằm
mục đích tránh những hý luận vô ích, và những suy đoán mò mẫm, dễ
đưa những người còn sơ cơ đến chỗ chỉ mong đạt đến những trạng
thái chứng ngộ cao hơn bằng con đường thuần tri thức, mà không
chịu đi qua con đường tu tập thiền định, niệm Phật và kinh hành.
Vì sự mong mỏi đạt đến những kinh nghiệm tâm linh thuần trí thức,
có thể dễ dàng đưa những ai thiếu kinh nghiệm đến chỗ cho rằng:
-
- Chỉ có hiểu biết thuần lý là cần thiết.
-
Và điều này sẽ ngăn chặn quá trình thiền định, mà chỉ có kinh
nghiệm thiền định nầy mới tỏa được nguồn năng lực cần thiết đưa
đến sự chuyển hóa trong tâm thức con người.
-
Ngày nay, nếu chúng ta là người mong cầu sự chuyển hóa tự thân, đi
theo con đường Bồ Tát Hạnh, thì chúng ta phải theo dấu chân của
đức Phật, và thực tập giữ sao tâm mình luôn khai mở qua việc thực
hành chánh niệm liên tục. Chúng ta phải tự mình rèn luyện, qua
việc hướng tâm và quán tưởng về đạo, xem xét kỹ lưỡng và tìm hiểu
đúng sai trong khi học pháp, không nên cố chấp. Nghĩa là làm sao
để có thể đạt được trí tuệ và hiểu biết bằng trực giác, qua việc
giữ gìn giới luật dựa trên trách nhiệm cá nhân, đó chính là:
-
- Giữ giới
-
- Thực hành Ba La Mật
-
- Trau dồi Bốn Tâm Vô Lượng.
-
Qua lòng tận tụy tôn kính và siêng năng lễ Phật, niệm Phật, thiền
tọa và kinh hành để tránh bị lệch lạc vào con đường tà, và hết
lòng tận lực công phu để đạt đến sự hợp nhất, và chuyển hóa trong
nội tâm hầu có một nhân sinh quan đủ rộng mở để có thể thấu đáo
bao quát, và toàn bộ về cuộc sống con người. Bằng cách phát triển
bề sâu tâm thức, chúng ta sẽ có thể nhìn thẳng và sâu vào lòng của
mọi hiện tượng, và trong cuộc sống, chúng ta có thể sử dụng và
chuyển hóa bất cứ những hoạt động nào của thân tâm mình thành một
bước tiến vững chãi lên trên con đường giác ngộ.
-
Trong giai đoạn đầu, chuẩn bị cho sự chuyển hóa, chuẩn bị cho lộ
trình giác ngộ này mà cũng là giai đoạn khởi động các năng lực trí
thức, và tình cảm của chúng ta thức dậy, chúng ta sẽ dùng tư duy,
lý luận sáng suốt của chính chúng ta để điều chỉnh tâm, và làm nền
tảng cho kinh nghiệm trực giác nẩy nở. Ðồng thời, chúng ta sẽ biến
năng lực tình cảm của chính chúng ta thành sức mạnh của hành động
toàn tâm, hướng về mục tiêu giải thoát. Chúng ta sẽ làm chủ tâm ý
bằng cách, nắm vững những quy luật tư duy để rồi sau đó vượt qua
biên giới của suy luận và tư duy, cuối cùng toàn tâm toàn ý tìm
tới một trạng thái tâm thanh tịnh, và tỉnh thức đối với tất cả
chúng sinh đau khổ. Ðến một lúc nào đó, tâm bồ đề của chúng ta sẽ
tự nhiên xuất hiện. Và rồi con người, và nhân cách của chúng ta đã
đủ cao đẹp sẽ thình lình xuất hiện, xuất hiện như một con người
mới với tâm ý duy nhất là:
-
- Làm sao chúng ta có thể giúp loài người hoàn toàn thoát khỏi sự
đau khổ.
-
Ðến đây tất cả những buồn phiền, dằn vặt và thống khổ riêng tư có
lẽ sẽ không còn quan trọng nữa, mà giờ đây trong tâm thức của
chúng ta chỉ còn một ao ước duy nhất đó là:
-
- Làm sao cho tất cả chúng sanh này được giải thoát, và hạnh phúc.
-
Tất cả đều tập trung hướng về một mục tiêu duy nhất, mục tiêu giải
thoát tất cả chúng sinh, và buông bỏ tất cả những ước vọng khác sẽ
tác động sâu sắc trên cuộc đời của chúng ta. Ngay cả những nổ lực
tập trung nầy, cho dù có trôi qua và tắt đi như âm thanh của một
tiếng chuông chỉ vang lên một lần, và tác động của nó trên cuộc
đời nầy cho dù có chìm sâu vào quên lãng, thì nó cũng vẫn tiếp tục
là nguồn năng lượng chỉ đạo, và mang tính quyết định trong đời
sống nội tâm của chúng ta, cũng vẫn còn tồn tại liên miên bất tận
theo tâm nguyện của mỗi người chúng ta mà chúng ta có thể tùy theo
đó mà thực hiện.
-
Nếu trong thế giới này, có một chất liệu nào đó có khả năng chuẩn
bị cho lộ trình của bồ đề tâm, thì chất liệu đó không gì khác hơn
là:
-
- Sự mở rộng
-
- Ðồng cảm đầy tình thương
-
- Sự hiểu biết với muôn loài,
-
Những chất liệu nầy không phải để chiếm hữu, hay mong cầu bất kỳ
phần thưởng nào, dù là một phần thưởng rất nhỏ. Và càng không
phải để tạo ra phước đức để hưởng lợi riêng cho chính mình, mà
là cho chúng sanh nhân loại. Việc làm vị tha với tâm an tịnh vì
lòng từ, tâm bi mẫn và tâm tình chia sẻ niềm vui với tất cả
chúng sanh. Ðây chính là chìa khóa duy nhất. Và bất cứ ai cũng
có thể yêu thương bất kỳ một chúng sanh nào mà không đòi hỏi hay
có những ý đồ ích kỷ người đó. Qua tình thương đối với một chúng
sanh, chúng ta sẽ có khả năng thương yêu tất cả muôn loài. Và
qua đó, có thể chúng ta sẽ phát tâm Bồ Đề, hay nói đúng hơn, làm
cho tâm Bồ Đề của chúng ta nẩy mầm và hiển lộ. Và rồi có lẽ
chúng ta sẽ mạnh dạn hơn khi tuyên đọc lời thệ nguyện tương tự
như Bồ Tát đã có lần thệ nguyện. Rằng là:
-
- Con nguyện mang trên con gánh nặng của tất cả sự đau khổ.
-
Con quyết tâm mang lấy nó
-
Con sẽ không thối lui.
-
Con sẽ không chạy trốn hay run sợ
-
Con sẽ không nhường bước hay do dự
-
Vì cứu độ tất cả chúng sanh là lời phát nguyện của con.
-
Nói tóm lại, công trình chuyển hóa tự thân là một sự nổ lực lớn và
cũng là một sự tích cực vượt bực trong công trình tu học để đạt
được đạo quả giác ngộ, qua đó chúng ta thấy khả năng công trình
nầy sẽ không bị giới hạn bởi tuổi tác, mà là cho tất cả mọi người
mọi lứa tuổi. Nghĩa là cho tất cả những ai có tinh thần cầu tiến,
những ai muốn có được những giây phút an lạc thảnh thơi trong hiện
tại.
--o0o--
|
|