TẬP SAN DƯỢC SƯ

Tình Yêu Thăng Hoa
Nguyên Châu
---o0o---
 
Lần đầu tiên mà cũng là lần cuối khi ngồi xe đò đi Cần Thơ để vượt biển, trên xe thầy có nghe ca sĩ Minh Vương hát:
- Nhắc nhở mà làm chi cho thêm tội lắm
Tình duyên ví cũng như bọt bèo
Hợp đây rồi tàn
Chỉ còn là còn tình yêu
Mà tình yêu thì như bong bóng bay cao
Chỉ còn là còn tình yêu
Mà tình yêu thì như bong bóng bay cao.
Minh Vương thì nói là tình yêu như bong bóng bay cao, vậy mà Thầy nói là Tình Yêu Thăng Hoa, vậy chúng ta thử tìm hiểu coi ra sao.
Trong cuộc đời có hai yếu tố làm cho chúng ta không thể nào quên nhau được, đó là
- Thương nhau nhiều
- Ghét nhau nhiều.
Thương nhau nhiều cũng khổ, mà ghét nhau nhiều cũng khổ. Vì thương thì ngày ngày mong đợi, đêm đêm nhớ trông, để cho nhau những giây phút nồng nàn êm ấm. Còn ghét nhau thì cứ nhớ nhau, chờ đợi gặp mặt nhau để mà trút hận thù cho nhau. Như vậy là thương mà chờ đợi cũng khổ, mà ghét chờ đợi nhau cũng khổ. Nhưng cuộc đời nầy vốn đã vô thường cho nên không ai thương nhau cả đời, mà cũng không ai ghét nhau cho trọn kiếp. Cho nên ghét ghét thương thương cứ thế mà đan chồng lẫn nhau để dệt nên những bản bi hài kịch trong cuộc sống. Với nội dung Tình Yêu Thăng Hoa, và khuynh hướng sau cơn mưa trời lại sáng, chúng tôi xin được trình bày quan điểm đau khổ, vô thường và kế đến là sự thăng hoa của tình yêu. 
A- Đau Khổ & Vô Thường
Sự khổ đau như là một việc tất yếu trong đời sống con người. Mặc dầu có một số thứ khổ đau không thể tránh được, nhưng cũng có một số là do chính chúng ta tạo ra. Khi đối diện với những khổ đau, chúng ta thường có khuynh hướng không chấp nhận khổ đau, bởi vì khi chấp nhận những khổ đau rất có thể chúng ta trở thành là một nạn nhân suốt đời.
Tuy biết như vậy, nhưng chúng ta cũng thường tạo ra những khổ đau riêng của chúng ta bằng nhiều cách, và chúng ta cứ thường làm cho cái đau khổ của chúng ta kéo dài, bằng cách diễn đi diễn lại mãi những nỗi nhọc nhằn đó trong tâm, bằng cách là chúng ta thường nhắc lại những kỷ niệm đau thương với hình thức này hay hình thức khác.
Đương nhiên, đôi khi kể lại mãi những nỗi thống khổ có thể thỏa mãn một ít mục đích, và có thể tăng thêm sự sôi động hay khêu gợi sự chú ý, và cảm tình của người khác trong lúc đó. Nhưng bằng cách nầy, giống như chúng ta muốn cho mọi người tội nghiệp cho sự bất hạnh mà chúng ta đang phải chịu đựng, như vậy chúng ta hơi yếu đuối.
Chúng ta thấy có nhiều con đường dẫn chúng ta đến trạng thái bất an và khổ đau tinh thần. Mặc dầu, thường thường, những nỗi ưu phiền tinh thần và cảm xúc tự chúng có thể xẩy ra một cách tự nhiên, nhưng chính chúng ta lại làm cho những cảm xúc ấy tăng thêm khiến chúng trở thành sự tai hại. Chẳng hạn khi chúng ta giận dữ hay căm ghét một người nào đó, rất ít khi nó phát triển đến một mức cao độ, nếu chúng ta không quan tâm nó. Tuy nhiên nếu chúng ta tưởng người ta đối xử bất công với chúng ta, và chúng ta cứ suy nghĩ mãi đến nó thì điều đó sẽ nuôi dưỡng sân hận, và sân hận sẽ càng ngày càng tăng.
Cho nên quan niệm về đau khổ. Chúng ta đau khổ hay không đau khổ tất cả đều tùy thuộc vào cách chúng ta phản ứng trước một tình huống nhất định. Thí dụ, Chúng ta khám phá ra người nói xấu sau lưng chúng ta. Nếu chúng ta phản ứng khi biết chuyện người ta nói xấu, thì đó là tính xấu với cảm giác thương tổn và giận dữ, rồi thì chính chúng ta tự phá hoại sự yên ổn trong tâm chúng ta. Như vậy sự đau đớn của do chính chúng ta tạo ra. Trái lại, nếu chúng ta kìm giữ không hành động xấu, hãy để cho lời phỉ báng ấy qua đi như thể cơn gió nhẹ thoảng qua bên tai, thì chúng ta bảo vệ chính mình không có cảm nghĩ đau khổ. Vì thế mặc dầu chúng ta thường không thể tránh được những tình huống khó khăn, nhưng chúng ta có thể thay đổi mức độ khổ đau bởi sự lựa chọn, cách phản ứng của chúng ta với tình hình một cách khách quan.
Có tính cách tản mạn, chúng ta phải công nhận căn nguyên của những sự việc hàng ngày, có thể làm tăng thêm nguồn gây ra khổ đau. Trạng thái nầy, các thầy thuốc chuyên khoa gọi tiến trình này là cá nhân hóa những đau khổ của chúng ta. Đây là khuynh hướng thu hẹp tầm nhìn tâm lý của chúng ta bằng cách giải thích sai mọi sự việc xảy ra, trong khi nó không có gì tác động đến chúng ta cả.ÕDo vậy chúng ta không nên quan trọng hóa vấn đề. Quả thật như vậy, đây là một kinh nghiệm:
Khi chúng tôi còn là một học sinh, buổi tối của một năm rất xưa, tôi dùng cơm chiều cùng với anh bạn tại một tiệm ăn chay. Việc phục vụ khách ăn nơi đây quá chậm, từ lúc ngồi xuống bạn tôi bắt đầu phàn nàn:
- Người hầu bàn này quá ư là chậm chạp!
Mặc dầu cả hai chúng tôi đều không có việc gì phải vội cả. Anh bạn của tôi tiếp tục phàn nàn trong suốt bữa ăn, và phát triển thành những lời kể lể than van về đồ ăn, bát đĩa, dao dĩa và tất cả mọi thứ không hợp ý với anh ta. Cuối bữa ăn, người hầu bàn bưng đến chúng tôi hai món tráng miệng không tính tiền và giải thích:
- Xin lỗi quý khách vì phục vụ chậm tối nay.
Anh hầu bàn rất thành thực và nói tiếp:
- Chúng tôi thiếu nhân viên, một người nấu ăn nghỉ hôm nay vì gia đình có tang, và vào phút cuối một người hầu bàn gọi điện thoại báo ốm. Cho nên trong lúc tiếp đón có phần chẫm trễ. Tôi hy vọng không có gì bất tiện với quý khách ...  
Anh bạn của chúng tôi cay đắng lẩm bẩm trong hơi thở của anh ta khi người hầu bàn bước đi:
- Tôi sẽ không bao giờ còn đến đây nữa.
Trên đây chỉ là một chuyện nhỏ cho thấy chúng ta đã góp phần vào khổ đau của chúng ta bằng cách cá nhân hóa mọi tình huống khó chịu. Trong trường hợp này, kết quả cuối cùng chỉ là làm cho bữa cơm mất ngon, một giờ bực mình. Nhưng những kiểu suy nghĩ như vậy, không phải chỉ có mình anh bạn chúng tôi mà tất cả mọi người, lan tràn khắp thế giới. Ngay cả trong gia đình của chúng ta hay bè bạn, và tất cả mọi gia đình trong xã hội nói chung. Kết quả nó trở thành căn nguồn đau khổ đáng kể của tất cả mọi người chúng ta.  
Như chúng ta đã biết, trong đời sống hàng ngày, những khó khăn luôn luôn phát sinh. Nhưng nếu bản thân biết chuyển hóa thì những khó khăn không tự động gây đau khổ, mà chúng ta có thể trực tiếp giải quyết các khó khăn, và tập trung nghị lực của chúng ta vào việc tìm giải pháp hóa giải, thì những khó khăn có thể biến đổi thành thử thách. Tuy nhiên nếu chúng ta rơi vào sự lẫn lộn, cảm thấy sự khó khăn đến với chúng ta là không công bằng, cho nên chúng ta không chấp nhận, tức là chúng ta đã có thêm chất liệu, làm cho chúng ta bất an và cảm xúc đau khổ. Như vậy là bây giờ chúng ta có hai khó khăn thay vì chỉ có một, mà còn cảm thấy bất công làm rối trí chúng ta, làm hao mòn chúng ta, và cướp đi nghị lực cần thiết để giải quyết những khó khăn lúc ban đầu.
Có thể có nhiều cách đối trị với cảm tưởng khó khăn, đau khổ của chúng ta mà chúng ta cho là bất công cho cá nhân riêng mình. Muốn đối trị mọi tình huống một cách hữu hiệu, là chúng ta phải nhận thức tầm quan trọng của sự chấp nhận khổ đau, là việc tất nhiên trong đời sống con người. Và nhiều người, trong số các phật tử biết tu tập giáo lý giải thoát đã ở trong vị thế, chấp nhận thực tại khó khăn để chuyển đổi cuộc đời cho tốt đẹp hơn bằng cách nói:
- Có thể đó là do Nghiệp của tôi trong quá khứ.
Khi chúng ta đổ thừa việc đó cho những hành động tiêu cực, vi phạm ở đời này hay đời trước, do vậy có mức chấp nhận lớn hơn. Điều nầy chúng ta cũng đã thấy một số gia đình tại Việt Nam, ở những vùng nông thôn trong tình trạng hết sức khó khăn, sống trong cảnh hết sức nghèo và con cái còn bị mù cả hai mắt, hoặc đôi khi trì độn. Và bằng cách này hay cách khác các ông cha, các bà mẹ khổ sở đó vẫn trông nom chúng, đơn giản chỉ than:
- Đó là vì nghiệp của con tôi, số phận của con tôi như vậy, nên nó phải chịu như vậy.
Nói đến Nghiệp, ở đây điều quan trọng chúng ta phải lưu ý và hiểu rằng, đôi khi chúng ta vì hiểu lầm về Nghiệp, chúng ta hay đổ lỗi mọi việc cho Nghiệp, và cố gắng tự bào chữa cho chính mình. Chúng ta hoàn toàn tin tưởng là do Nghiệp quá khứ của chúng ta, nhưng nếu chúng ta cứ bảo:
- Nghiệp của chúng ta phải như vậy ...
Thì hành động nầy là hành động bất lực. Đó là một sự lầm lẫn hoàn toàn về Nghiệp, vì lẽ dầu chúng ta chịu hậu quả của những hành vi trong quá khứ, nhưng không có nghĩa là cá nhân chúng ta không còn sự lựa chọn nào khác, hay không còn khả năng chủ động để thay đổi. Chúng ta không nên trở thành một con người thụ động, và cố bào chữa cho mình, lại càng không nên viện lý lẽ mọi thứ đều là kết quả của Nghiệp. Nếu chúng ta hiểu quan niệm về Nghiệp một cách đứng đắn, thì chúng ta sẽ hiểu rằng Nghiệp có nghĩa là hành động. Nghiệp là một tiến trình hết sức tích cực. Và khi chúng ta nói về Nghiệp, hay hành động thì đó là chính hành động của mỗi người gây ra, trong trường hợp này của chính chúng ta trong quá khứ. Vậy kiểu tương lai nào sẽ xảy ra, tất cả đều nằm trong tay chúng ta ở hiện tại nầy. Nó sẽ được quyết định những hành động mà chúng ta đang tạo tác bây giờ. Cho nên Nghiệp không nên được hiểu là loại tác động thụ động, mà đúng ra phải hiểu là tiến trình tích cực. Điều này cho thấy tác động cá nhân của mỗi người đóng một vai trò quan trọng trong việc quyết định diễn biến của tiến trình Nghiệp. Chẳng hạn, ngay cả một hành động bình thường hay một mục đích bình thường, như nhu cầu ăn uống... Muốn đạt được mục tiêu đơn giản ấy, chúng ta cần một hành động của chính chúng ta. Chúng ta cần phải kiếm thực phẩm, rồi thì chúng ta cần phải ăn, điều này cho thấy cả đến một hành động tầm thường nhất, thậm chí một mục tiêu đơn giản chỉ có thể đạt được nhờ hành động.
Trong chiều hướng chấp nhận cuộc sống hiện thực, chúng ta thấy trong xã hội có ba cách chấp nhận:
a- Phật Tử
Để giảm thiểu những cảm nghĩ bất công, người phật tử chúng ta có thể chấp nhận điều đó là kết quả của Nghiệp.
b- Người Tây Phương
Còn đối với người Phương Tây thì họ tin tưởng vào khái niệm Đấng Sáng Tạo, Thượng Đế, có thể chấp nhận những hoàn cảnh khó khăn dễ dàng hơn bằng cách xem mình là một phần sáng tạo của Thượng Đế, hay ý định của Thượng Đế. Họ có thể cảm thấy rằng Thượng Đế là đấng toàn năng và rất nhân từ, cho nên có một ý nghĩa nào đó, một tầm quan trọng nào đó là ẩn sau tình thế đó mà người ta không biết được. Chúng ta nghĩ là niềm tin như vậy có thể trợ sức và giúp đỡ họ trong lúc khổ đau.
c- Người Không Tôn Giáo:
Riêng về những người không tin học thuyết về Nghiệp, và khái niệm Thượng Đế Sáng Tạo, thì giải quyết mọi khúc mắc bằng sự chứng minh của khoa học. Chúng ta phải biết rằng các nhà khoa học thường coi trọng cách nhìn vào vấn đề một cách khách quan, nghiên cứu vấn đề mà không để cho tình cảm dính líu. Bằng cách giải quyết như vậy, chúng ta có thể nhìn vào vấn đề với một thái độ:
- Nếu có cố gắng thì cố gắng cho thành công,
- Nếu không thể cố gắng, thì chúng ta chỉ có thể quên nó đi.
Chẳng hạn, nếu chúng ta cảm thấy bị xử đối bất công bởi ông chủ nơi làm việc, thì chúng ta thấy có nhiều nhân tố khác liên quan, có thể ông ta bị khó chịu bởi điều gì đó. Rất có thể là do cãi vã với vợ ông ta sáng nay hay điều gì đó, cho nên cách hành xử của ông ta chẳng liên quan gì đến cá nhân chúng ta cả. Do vậy những khó chịu đó có thể không nhằm vào chúng ta. Đương nhiên, chúng ta vẫn phải đối đầu mặc dù tình thế không trầm trọng, nhưng ít nhất với cách thức giải quyết này, chúng ta giảm bớt phần lo âu vào sự lo âu đã có của chúng ta.
Loại giải quyết khoa học này có thể giúp ta khám phá ra những khía cạnh mà chính chúng ta đã góp phần vào vấn đề, đồng thời giúp giảm thiểu cảm nghĩ bất công liên quan đến những khó khăn của chúng ta. Hơn thế nữa, nếu chúng ta xem xét tỉ mỉ bất cứ tình cảnh nào với một cách chân thật, thì chúng ta sẽ nhận ra rằng chúng ta cũng phải chịu trách nhiệm về cái phát sanh của các sự việc. Nhưng thông thường chúng ta hay đổ lỗi cho người khác về những khó khăn của chúng ta, về những yếu tố bên ngoài. Cho nên chúng ta chỉ tìm kiếm nguyên nhân một chiều, rồi cố tránh trách nhiệm cho chính mình. Trong trường hợp này, nếu chúng ta đi xa hơn nữa và phân tích tình huống thật cẩn thận, thì chúng ta thấy người gây sự chỉ là một phần của vấn đề, là một trong nhiều yếu tố, ngoài ra còn có nhiều điều kiện khác góp phần vào, rất có thể còn có sự góp mặt của chính chúng ta không chừng. Một khi chúng ta nhận thức được như vậy, thì thái độ trước đây chúng ta cứ cho rằng chỉ có người kia là nguyên nhân của sự rắc rối, mà chúng ta là nạn nhân cũng không còn nữa.
Từ trong chiều hướng nầy, đương nhiên đầu tiên chúng ta có thể cảm thấy thất vọng, khi một người nào đó không thành thực. Nhưng dù vậy, nếu chúng ta xem xét tình huống, chúng ta có thể khám phá sự việc. Thực ra động cơ thúc đẩy họ dấu giếm chúng ta một điều gì đó, không phải là kết quả của một động cơ xấu. Có thể đơn giản chỉ là thiếu tin chúng ta. Cho nên thỉnh thoảng khi chúng ta cảm thấy thất vọng bởi những loại vụ việc đó, thì chúng ta nên nhìn họ dưới một góc độ khác, chúng ta sẽ nghĩ rằng có lẽ người đó không hoàn toàn tin chúng ta, vì chúng ta không thể giữ bí mật. Tính chúng ta thường thẳng thắn, vì lẽ đó người ấy có thể đã quyết định đúng chúng ta không phải là người có thể giữ bí mật. Nói một cách khác, chúng ta không phải là người đáng tin cậy, vì bản tính cá nhân của chính chúng ta. Bằng cách ấy, chúng ta phải coi nguyên nhân là vì lỗi của chính chúng ta, cho nên chúng ta không nên trách cứ người khác.
Tìm ra sự góp phần của chính mình vào những khó khăn và đau khổ trong cuộc đời, đó là kỹ thuật mà chúng ta có thể sử dụng để đối trị nghịch cảnh. Áp dụng kỹ thuật đó vào đời sống của chúng ta, đương nhiên chúng ta rất có thể không thành công trăm phần trăm, trong việc tìm ra sự đóng góp phần của chính mình vào các tình huống khó khăn. Nhưng dù thành công hay không, thì sự cố gắng muốn tìm ra sự góp phần của chúng ta vào vấn đề, cũng sẽ giúp chúng ta khắc phục lối suy nghĩ hẹp hòi dẫn đến cảm nghĩ thiếu xây dựng về bất công, mà nó là nguồn bất mãn trong chính chúng ta.
Như chúng ta đã biết, tội lỗi là sản phẩm của những hành động không hoàn hảo. Tất cả chúng ta không ai dám tự hào mình là con người hoàn hảo, vì không ít thì nhiều, mỗi người trong chúng ta cũng đều đã làm một số điều sai trái. Đối với một số việc sai trái, chúng ta thừa nhận sự sai lầm với ý thức hối hận, sẽ giúp chúng ta chuyển hóa, và trở lại được con đường chính đáng trong đời. Cũng như khích lệ chúng ta sửa chữa những lỗi lầm, và đồng thời đó là biện pháp để uốn nắn những cách hành xử của chúng ta trong tương lai. Nhưng nếu chúng ta để sự hối tiếc chuyển thành tội lỗi quá đáng, và cứ nhớ mãi trong ký ức về những tội lỗi trong quá khứ mà tự trách mình, và tự căm ghét chính mình triền miên, điều đó cũng chẳng đi đến đâu.
Đối với người tu học, tuy chúng ta có những cảm nghĩ hối hận về những điều sai trái, nhưng nó không vì vậy là nguyên nhân gây nản chí và thất vọng, hoặc cản trở khả năng tu học của chúng ta trong đời sống. Điều làm chúng ta chú ý là tất cả mọi con người, nhất người học phật.  Trong chúng ta ai cũng có khả năng thực sự đối đầu với những bi kịch của cuộc đời, và phản ứng bằng cảm xúc, bằng hối tiếc, nhưng không cho phép mặc cảm tội lỗi quá đáng hoặc coi thường chính mình. Chúng ta hoàn toàn có khả năng chấp nhận mình, là có giới hạn, có nhược điểm, và có suy xét lầm lẫn. Có khả năng thừa nhận tình hình khó khăn về vấn đề nào đó, và có phản ứng bằng cảm xúc, nhưng không phản ứng quá mức. Chúng ta thành thực cảm thấy hối hận về việc xảy ra nhưng kèm theo tâm trạng hối hận là nhân phẩm con người và tình thương. Do vậy mà chúng ta không nên để sự hối tiếc này đè nặng lên chúng ta, và trong khi đó chúng ta vẫn tìm cách tiến lên và tập trung vào việc giúp đỡ người khác bằng khả năng tối đa của chúng ta.
Tội lỗi nảy sinh khi chúng ta đã gây ra các lầm lỗi thường thường người đời có khuynh hướng là không thể sửa chữa được. Tuy nhiên vì mọi việc đều thay đổi, cho nên đau khổ cũng vậy rồi sẽ dịu đi. Đó là mặt tích cực của đổi thay. Mặt tiêu cực là chúng ta chống lại sự thay đổi gần như trong mọi phạm vi hoạt động của cuộc sống.
Mô tả bản chất luôn luôn thay đổi của cuộc sống, là tìm ra nguyên nhân hay nguồn gốc của khổ đau. Chúng ta phải bắt đầu tiến trình này bằng cách hiểu rõ bản chất tạm bợ phù du trong cuộc sống của chúng ta. Tất cả mọi sự, các sự kiện và hiện tượng là động lực thay đổi từng khoảnh khắc, không có gì đứng yên. Nghĩ về sự tuần hoàn của mạch máu có thể dùng để củng cố khái niệm này. Máu luôn luôn chảy, chuyển động và không bao giờ đứng nguyên một chỗ. Bản chất thay đổi từng khoảnh khắc của hiện tượng này giống như vậy. Và vì bản chất của tất cả hiện tượng đều thay đổi từng khoảnh khắc, nó cho chúng ta thấy tất cả mọi sự vật đều không có khả năng tồn tại mãi, không có khả năng giữ mãi mãi nguyên như vậy. Vì mọi sự vật đều phải thay đổi, không có cái gì có thể hiện hữu trong điều kiện vĩnh viễn, không có gì có thể giữ nguyên bằng sức mạnh của chính nó. Cho nên, vào bất cứ lúc nào, dù chúng ta có vui hay buồn phiền đến đâu thì cũng không có trạng thái nào là lâu bền.
Khái niệm vô thường đóng một vai trò chính trong tư tưởng Phật Giáo, và suy tưởng về vô thường là sự tu tập then chốt. Suy tưởng về vô thường phục vụ hai chức năng chính yếu trong phạm vi Đạo Phật:
1- Ở mức độ thông thường, hay trong ý nghĩa hàng ngày, người tu tập Phật Giáo suy tưởng cái vô thường của chính mình, sự thật là đời sống rất mong manh và chúng ta không biết sẽ chết lúc nào. Khi phối hợp suy nghĩ này với niềm tin vào cuộc sống của con người, và khả năng đạt được tình trạng giải thoát của tinh thần, khả năng thoát khỏi khổ đau và vòng tái sinh vô tận, thì việc suy tưởng này được dùng để tăng quyết tâm của người tu tập trong việc sử dụng thời giờ của mình vào lợi ích tốt nhất.
2- Ở mức độ cao hơn, suy tưởng về những khía cạnh tinh tế hơn của vô thường, bản chất vô thường của tất cả hiện tượng, người tu tập bắt đầu truy tìm bản chất thực sự của thực tại, và nhờ sự hiểu biết này mà chúng ta phá tan vô minh, nguồn gốc khổ đau chủ yếu của chúng ta.
Cho nên, trong khi suy tưởng về vô thường có một ý nghĩa to lớn trong phạm vi Phật Giáo, câu hỏi được nêu lên:
- Suy tưởng và hiểu biết về vô thường có ứng dụng thực tiễn nào trong đời sống hàng ngày cho người không phải là Phật Tử không?
Có, nếu chúng ta nhìn khái niệm vô thường từ một lập trường thay đổi, thì câu trả lời nhất định là có. Xét cho cùng, dù chúng ta nhìn đời bằng một nhãn quan Phật Giáo hay của người Tây Phương, sự thực vẫn là cuộc sống luôn thay đổi. Trong cuộc sống hiện tại, khi mà chúng ta vẫn không chấp nhận sự thật, và chống lại những thay đổi tự nhiên của cuộc sống, là chúng ta tiếp tục kéo dài mãi khổ đau của chúng ta.
Chấp nhận sự thay đổi, có thể là một yếu tố quan trọng trong việc giảm thiểu mức khổ đau do chúng ta tự tạo ra. Cho nên thường là chúng ta gây nên khổ đau cho chính chúng ta, vì không chấp nhận từ bỏ quá khứ. Nếu chúng ta xác định là chúng ta biết làm gì khi sự việc trong cuộc đời có xảy ra, chắc chắn chúng ta sẽ hạnh phúc hơn khi về già. Khi chấp nhận sự thay đổi như một nguyên tắc tổng quát, chúng ta có thể đối phó được nhiều vấn đề, do vậy mà chúng ta có thể giữ một vai trò tích cực hơn nhờ thực tập riêng về những thay đổi bình thường trong cuộc sống, và có thể ngăn chặn được nhiều hơn nữa những lo âu hàng ngày, nhiều nguyên nhân của nhiều phiền muộn của chúng ta.
B- Phát Hiện Sự Thay Đổi
Khi biết phát giác ra giá trị của việc công nhận sự thay đổi bình thường trong cuộc sống, thì chắc chắn cuộc đời của chúng ta sẽ thảnh thơi, và tình yêu của chúng ta sẽ thăng hoa. Quả thật như vậy, đây là một sự thật, chúng tôi xin được chia sẽ đến đại chúng:
 Có một anh phật tử, vừa mới ly dị vợ, tuy là anh ta hiểu biết tầm quan trọng của thay đổi trong phạm vi quan hệ cá nhân. Nhưng dầu vậy, cũng không tránh khỏi những bỡ ngỡ vào những buổi ban đầu. Vì vậy, anh ta đến gặp tôi phàn nàn về một ít lo âu mà anh ta cho là khó thích ứng với việc ly dị mới đây của anh ta.Õ
Anh ta giải thích:
- Sau khi ly dị vợ, con nghĩ rằng có một vài cuộc gặp gỡ để chuyện trò, tâm sự với một người nào đó cũng là một ý kiến hay. Tại vì nó giúp con có thể bỏ quá khứ và trở về đời sống độc thân.
Nghe anh ta nói thế, tôi hỏi anh ta về hoàn cảnh ly dị của anh ta.ÕAnh ta trả lời:
- Bạch Thầy, việc ly dị của con được giải quyết êm thấm. Không có mâu thuẫn, lục đục gì lớn. Vợ con và con đều có công ăn việc làm tốt, cho nên chúng con không có vấn đề gì phải giải quyết về tài chánh cả. Chúng con có một cháu trai và dường như nó có thể thích nghi với việc ly dị của chúng con. Vợ con và con đồng ý cả hai đều có quyền trông nom con, và việc này tiến triển tốt đẹp...
Tôi nhắc lại câu hỏi:
- Tôi muốn hỏi là điều gì đã dẫn đến anh phải ly dị vợ, hoặc vợ phải ly dị anh?
Anh ta trả lời thành thật:
- Con cho rằng chúng con không còn thương yêu nhau, và dường như tình yêu lãng mạn dần dần không còn nữa, chúng con không còn khăng khít như lúc ban đầu mới cưới. Chúng con đều quá bận về công ăn việc làm, và con chúng con hầu như bị bỏ mặc không ai có thì giờ trông nom. Chúng con đã có một vài lần nhờ cố vấn về hôn nhân, nhưng cũng chẳng đi tới đâu. Chúng con vẫn sống với nhau, nhưng giống như tình anh em chị em. Không cảm thấy tình yêu vợ chồng thực sự như lúc ban đầu. Cuối cùng, chúng con cùng thỏa thuận, tốt hơn là chúng con nên ly dị.
Mặc dù có lo lắng cho nhau, nhưng anh ta và vợ của anh ta đã hiểu sự thay đổi đến mức độ không hàn gắn nhau được, và phải chấm dứt hôn nhân. Để ghi nhận sâu sắc trong cách đối xử với nhau, nhiều khi chúng ta thường hiểu việc giảm thiểu sự đam mê, giảm thiểu sự thương mến lẫn nhau là một dấu hiệu báo cho chúng ta biết có vấn đề trục trặc trong mối quan hệ.
Xét cho cùng có thể nói, là chúng ta đã không chọn đúng người bạn đường. Người bạn đường không giống người mà chúng ta mê say. Do đó mà những bất đồng xuất hiện, chẳng hạn:
- Chúng ta muốn đi xem một bộ phim đặc biệt, nhưng người bạn đường lại không thích hoặc luôn luôn bận rộn.
- Chúng ta khám phá ra có nhiều dị biệt mà trước đây chúng ta không bao giờ thấy.
Từ đó chúng ta kết luận, mối quan hệ không còn nữa, và cuộc hôn nhân phải chấm dứt. Rốt cuộc, những khác biệt tuy thật sự không ai muốn, nhưng lại khó có thể bảo nó không xuất hiện, khi mà hai người không vừa lòng nhau. Và một khi nó xuất chúng trở nên khoảng cách để xé sự việc thành đôi bờ. Cho nên những qua hệ tình cảm ngày trước không còn như cũ nữa, thế là dẫn tới tình trạng ly dị.Õ
Đây là tình trạng của người phật tử trẻ mà có lần chúng tôi giới thiệu đến đại chúng. Sau hai lần anh bạn trẻ thăm Chùa, và hiểu được hoàn cảnh của anh bạn trẻ nầy, cho nên chúng tôi quyết định áp dụng phương pháp tu học để giúp anh ta giảm thiểu lo âu, và điều chỉnh những thay đổi cuộc sống gần đây của anh ta. Nhìn chung, anh phật tử nầy là một người thông minh và là một người có khả năng thích nghi dễ dàng về mặt cảm xúc. Anh ta đã đáp ứng tốt đẹp trong thời gian thay đổi và dễ dàng chuyển hóa để trở lại cuộc sống độc thân. 
Về vấn đề hôn nhân và ly dị, hiện nay có rất nhiều chuyên gia về sự quan hệ tình cảm của con người, đã tốn rất nhiều giấy mực, mục đích là giúp chúng ta, hướng dẫn chúng ta phải làm gì khi sự đam mê, và ngọn lửa tình ái lãng mạn trở nên yếu dần. Do vậy mà họ đưa ra vô số gợi ý để nhen nhóm lại ngọn lửa tình yêu lãng mạn. Sắp xếp lại thời khóa biểu nhằm ưu tiên cho tình yêu lãng mạn, chẳng hạn như:
- Trù tính các bữa ăn chiều mơ mộng lãng mạn,
- Tạo điều kiện đi chơi xa vào những ngày nghỉ cuối tuần,
- Khen ngợi người bạn đường,
- Học hỏi cách trò chuyện có ý nghĩa ...
Đó là một trong những phương thức có hiệu lực cao, mà chúng ta có thể làm được để duy trì cuộc tình. Song song với việc nầy, là khi chúng ta nhận thấy có sự thay đổi, thì chúng ta hãy ngưng lại cách hành xử của chúng ta, hoặc lùi lại để đánh giá tình hình, và trang bị cho chúng ta càng nhiều kiến thức càng tốt về việc thay đổi trong mối quan hệ giữa chúng ta và người thương.
Chúng ta chấp nhận những thay đổi ở bên ngoài, cũng như trong sự phát triển cá nhân như một tiến triển tự nhiên. Khi đời sống của chúng ta tiến triển, lẽ tất nhiên chúng ta phát triển từ lúc còn nằm ngửa trong nôi, cho đến tuổi thiếu niên, rồi đến tuổi trưởng thành, và cuối cùng là đến tuổi già. Thời nào cũng có những mối quan hệ, tác động lẫn nhau trong môi trường sinh động. Tuy nhiên, bất cứ mối quan hệ nào, và trong giai đoạn nào cũng có những phương diện về:
- Thể xác, cảm xúc, và trí tuệ.
Tiếp xúc thể xác, chia sẽ cảm xúc, tư tưởng và trao đổi ý kiến .. hoàn toàn là những cách chính đáng của sự liên hệ giữa chúng ta với người mà chúng ta thương yêu. Trong tác phẩm Cư Xử Thân Mật Riêng Tư, ông Desmond Morris mô tả những thay đổi bình thường xẩy ra trong nhu cầu gần gũi thân mật của con người. Ông đưa ra giả thuyết, mỗi người chúng ta lập đi lập lại qua ba giai đoạn:
1- Ôm chặt lấy tôi,
2- Đặt tôi xuống,
3- Để mặc tôi.
Ôm chặc lấy tôi là chu trình trước nhất, và rõ ràng nhất trong những năm đầu cuộc đời. Khi đứa trẻ chuyển đổi từ giai đoạn ôm chặt lấy, tức là thời kỳ còn ẵm bồng, nằm ngửa ... Rồi đến giai đoạn đặt tôi xuống, là khi đứa trẻ lần đầu tiên biết tập bò, tập đi, và đạt được sự đi đứng độc lập và tách khỏi người mẹ, đó là giai đoạn để mặc tôi.  
Ba tiến trình nầy là một phần của sự phát triển, và nẩy nở tự nhiên của mỗi con người. Tuy vậy những giai đoạn ấy không chỉ tiến theo một hướng, mà ở nhiều giai đoạn. Đứa trẻ có thể trải qua một số lo âu khi cảm giác tách rời trở nên quá lớn. Khi gặp hoàn cảnh như vậy thì đứa trẻ quay về với người mẹ để tìm sự xoa dịu và gần gũi. Ở tuổi trưởng thành, tức là giai đoạn Để Mặc Tôi trở thành giai đoạn dễ nhận thấy nhất khi đứa trẻ vật lộn với cuộc sống để hình thành cá tính của một người con trai hay người con gái. Giai đoạn nầy, hầu hết các chuyên gia tâm lý học đều công nhận đó là môt giai đoạn bình thường và cần thiết để chuyển tiếp từ tuổi thơ ấu đến trưởng thành.
Trong mối quan hệ người lớn cũng vậy, sự thay đổi liên tục như vậy cũng diễn ra. Mức thân mật gần gũi thay đổi, có những thời kỳ thân mật nhiều hơn, cũng có những thời kỳ xa cách lâu hơn. Đó cũng là một phần của chu trình sinh trưởng và phát triển bình thường. Muốn tiến tới tiềm năng đầy đủ với tư cách con người, chúng ta cần biết quân bình nhu cầu gần gũi và hòa hợp với các thời kỳ, có nghĩa là chúng ta phải quay về nội tâm, với ý thức tự sinh trưởng và phát triển với tư cách cá nhân. Nếu chúng ta hiểu được như vậy, chúng ta sẽ không còn phản ứng, không kinh hãi và hoảng sợ khi lần đầu tiên nhận thấy chúng ta đang tách rời khỏi người bạn đường.
Đương nhiên, đôi khi sự xa cách làm cho loại tình cảm lo âu tăng lên, đó là dấu hiệu những vấn đề nghiêm trọng trong mối quan hệ bị đe dọa bởi sự tan vỡ có thể xảy ra. Cho nên, việc chấp nhận sự thay đổi là một phần tự nhiên trong phản ứng qua lại của chúng ta với người khác, đóng một vai trò quan trọng trong sự quan hệ. Chúng ta sẽ hiểu ra rằng chính vào lúc chúng ta cảm thấy thất vọng, nhất là mối quan hệ giữa chúng ta và người kia không còn gì để mà lưu luyến thì, sự thay đổi sâu xa xẩy ra.
Giai đoạn chuyển tiếp này có thể trở thành điểm then chốt khi cả hai đều có sự ghi nhận:
- Cuộc đời là vô thường, vì vô thường nên mọi sự mọi vật mong manh trước những biến chuyển của cuộc đời, vì vậy mà trở trân qúy nhau hơn.
Khi mà nhận chân mọi sự, mọi vật mong manh trước những biến chuyển của vô thường, và thấy được giá trị của nhau, cho nên không có thái độ:
- Ở xa thì thương mà ở gần thì thường.
Khi cả hai đều nhận được ở điểm nầy thì tình yêu thực sự bắt đầu chín mùi và thăng hoa. Bởi vì mối quan hệ của chúng ta không còn dựa vào sự đam mê cao độ, mà coi người kia là hiện thân của sự tuyệt hảo, hoặc cảm thấy rất hợp nhau. Nhưng trong khi trao đổi về những điều đó, chúng ta hôm nay ở một vị trí bắt đầu thực sự biết người kia, hiểu người kia là như thế.
Nói tóm lại, là một cá nhân riêng rẽ, ai cũng có thể có những khuyết điểm và nhược điểm, bởi vì chúng ta như bao nhiêu con người khác. Chính ở điểm trọng tâm này mà chúng ta có thể cùng nhau đưa ra lời cam kết trước sự tăng trưởng về hiểu biết của cả hai bên, một hành động của tình yêu thực sự ...
Có lẽ cuộc hôn nhân của anh phật tử mà có lần chúng tôi đã giới thiệu có thể cứu được, bằng cách chấp nhận sự thay đổi tự nhiên trong quan hệ, và thiết lập mối quan hệ mới dựa vào những yếu tố không phải là đam mê và lãng mạn, mà là những yếu tố hiểu và thương. Vì vậy độ hơn một năm sau anh bạn trẻ ấy đến chùa lễ Phật, tôi hỏi:
- Dạo này anh ra sao?
Anh ta reo lên:
- Cảm ơn Thầy, con rất hạnh phúc, vì tháng trước, con và vợ con  đã kết hôn trở lại.
Tôi mừng, nhưng cũng ngạc nhiên hỏi:
- Thực sao?
Anh bạn trẻ trong hân hoan trả lời:
- Vâng, đúng như thế và mọi việc diễn ra rất tuyệt vời. Chúng con tiếp tục gặp nhau vì cùng trông nom con. Dầu sao, lúc đầu cũng khó khăn ... nhưng sau khi ly dị, không biết làm sao áp lực thù hận, ghét nhau không còn nữa. Chúng con không còn ước vọng gì cao sang chỉ có ước vọng duy nhất là cùng nhau sống thương yêu để nuôi con. Và chúng con thấy thực sự thích nhau, và thương yêu nhau. Mọi việc không giống như khi chúng con cưới nhau lần đầu. Chúng con thực sự hạnh phúc, và tình yêu thăng hoa.
--o0o--