|
TẬP SAN DƯỢC SƯ
-
Những Hành Vi Đạo Đức
-
Tâm Như
- ---o0o---
-
-
Nói đến hành vi đạo đức, chắc chắn mỗi con người chúng ta ai cũng
có thể biết và làm được, vì những điều này không cần đòi hỏi khả
năng hay tài nghệ gì đặc biệt hoặc mô tả những gì bí ẩn cả. Đây là
những phương cách sống mà chúng ta thấy trong sự đối đãi với nhau
qua cuộc sống hằng ngày.
-
Còn có gì cao quý hơn ngoài cuộc sống chúng ta đang phải sống hôm
nay, và mỗi một ngày chúng ta sống là tất cả những gì ta thật sự
nắm trong tay! Do đó mỗi ngày chúng ta phải cố gắng thể hiện những
hành vi đạo đức, bằng cách tránh làm những điều ác, và coi nó cũng
như những chất độc có hại cho tâm thức và cơ thể. Chúng ta phải
sớm ý thức những thú vui trần thế là nguy hiểm hơn cả thuốc độc.
Đã là thú vui trần thế thì dầu là thú vui theo hình thức nào đi
nữa cũng đều nguy hiểm, do vậy tuy có thể đem đến cho chúng ta
những cảm giác thoải mái nhất thời, nhưng sau đó cũng nhường chỗ
cho khổ đau, sợ hãi và thất vọng. Bên cạnh những thú vui trần thế
chúng ta còn có thể tìm thấy thú vui của đạo vị mà qua đó chúng ta
có thể thực hiện được những hành vi đạo đức qua các phương cách:
-
- Tụng kinh, niệm Phật, thiều tọa và kinh hành.
-
Có thể nói thú vui thiền tập, tu hành là phương cách đơn giản và
an toàn hơn tất cả các thú vui khác. Làm những điều lành mạnh
không ngơi nghỉ là phương cách nhắc đến việc trau dồi không những
về hành vi đạo đức mà còn về giáo lý của Đức Phật nói chung. Để
thực hiện điều này, tất nhiên chúng ta phải cần tài liệu. Các giáo
thuyết và thuật ngữ căn bản chúng ta đã biết đến, như:
-
- Nhân duyên, nhân quả, nghiệp, giới luật ...
-
Tất cả những khái niệm nầy đủ giúp chúng ta dựa vào đó mà sống một
cuộc sống lành mạnh. Trong sự nỗ lực này, nếu chúng ta có căn bản
của một tôn giáo lương thiện thì tốt, còn không thì chúng ta cũng
không cần phải tuân theo một tư tưởng tôn giáo nào, mà chỉ sống
hài hòa với những gì được thể hiện trong cuộc sống hằng ngày. Bằng
cách sống đó chúng ta có thể áp dụng cho bản thân, đó là loại chân
lý phổ cập và sâu sắc nhất.
-
Nếu lúc nào chúng ta cũng nghĩ đến những vấn đề khó khăn
của bản thân, thì chúng ta khó mà thực hiện được điều nầy. Như vậy
thay vì xem xét chúng một cách riêng rẽ, nhưng chúng ta lại cố
gắng quán sát chúng trong sự tương quan đến tất cả mọi người và
cảnh vật chung quanh thì chúng ta sẽ dễ dàng thực hiện hơn.
-
Để thực hiện những hành vi đạo đức trong cuộc sống, điều trước
tiên là chúng ta phải ghi nhận:
-
- Pháp là chân lý, một sự thật hiển nhiên, và việc làm lành không
gây tác hại cho người khác.
-
Ngoài ra chúng ta còn phải ghi nhận, chúng ta chỉ là một phần tử
nhỏ trong những thành phần của xã hội, vũ trụ vạn hữu. Ý thức được
về thân phận con người của chính mình thì chúng ta sẽ có thể nhìn
mình một cách khách quan hơn, và sẽ dễ dàng thực hiện những hành
vi đạo đức trong cuộc sống một cách dễ dàng hơn. Như vậy, ngày nào
mà chúng ta còn nghĩ rằng những vấn đề chỉ là của riêng mình mà
không có liên quan gì đến người khác, thì chúng sẽ còn tiếp tục
quấy rầy chính ta qua nhiều hình thức khác nhau. Do vậy để cho
cuộc đời càng lúc càng thăng hoa, càng lúc càng an ổn thánh thiện
hơn chúng tôi xin được giới thiệu một số căn bản cụ thể được coi
là những vi của đạo đức:
-
1- Tôn Kính & Khiêm Cung
-
Những giá trị tình cảm gắn liền với sự tôn kính và đức
khiêm cung giữ một vai trò rất quan trọng trong đời sống tâm linh.
Khiêm cung là một đức tính phát sinh một cách tự nhiên. Nó hoàn
toàn khác hẳn với mặc cảm tự ti. Khiêm cung thường bị lầm lẫn với
sự khúm núm, với việc tự đánh giá mình hoặc chấp nhận người khác
đánh giá mình là thấp kém, xấu xí và thua sút người khác. Sự đánh
giá đó dựa trên đẳng cấp và thứ bậc, theo giai cấp xã hội, hoàn
cảnh giàu nghèo hoặc bằng cấp. Sự đánh giá này thật sự không liên
quan gì đến nhân cách con người. Chúng ta phải biết, biểu lộ đức
khiêm cung là cách thể hiện lòng can đảm biết tự hạ mình. Ngược
lại với nó là sự kiêu căng, sự tự tâng bốc. Tự hạ mình trước giáo
pháp, trước người khác, giúp chúng ta uyển chuyển và sẵn sàng đón
nhận sự chỉ giáo người khác đến mực tối đa, đồng thời nó làm giảm
thiểu bản ngã trong chúng ta. Người có lòng vị kỷ càng cao, càng
khó có thể tự hạ mình.Khiêm cung không có nghĩa là tự coi thường
mình mà là tự trọng. Nhân bản chân thật là sự tôn trọng tất cả
nhân loại, tôn trọng bản thân và người khác, biểu lộ qua cung cách
chân thành và khiêm tốn.
-
Điều nầy không những là sự phản ảnh của nhân bản thực
sự, mà đức khiêm cung còn bao gồm sự hiểu biết, có một giá trị cao
đẹp hơn mà chúng ta có thể hướng tới. Khi chúng ta vượt ra khỏi
giới hạn của con người, và thấy được tất cả những sự tầm thường
nhỏ bé của chính mình, thì dù chúng ta vẫn còn bị ràng buộc trong
cái khung nhỏ bé của tầm hiểu biết, nhưng chúng ta cũng đã bắt đầu
nhận được bản chất chân thật của vũ trụ. Nếu chúng ta khiêm tốn
nhìn nhận là có một cái gì cao cả hơn mình, thì chúng ta sẽ có thể
tin tưởng vào điều đó, và tự dâng hiến cùng gắn bó đời mình với lý
tưởng, đồng thời nương vào đó để tu tập. Do đó, khiêm cung và sự
dấn thân do đó luôn luôn đi đôi với nhau. Người tự cho là mình quá
quan trọng và lúc nào cũng nghĩ như thế thì không thể nào hiến
dâng mình cho lý tưởng. Nhưng một khi chúng ta đã thấu hiểu với
tất cả lòng khiêm tốn của mình, là có một cái gì cao cả hơn là các
cảm quan bình thường mắt thấy tai nghe của ta, thì khi đó chúng ta
có thể thật sự hiến mình cho chúng sanh vạn loại.
-
Hành vi đạo đức thường là đi kèm với khiêm cung là lòng
tôn kính. Như chúng ta đã biết, ngày nay con người thật xa lạ với
sự tôn kính. Không những thế mà có người còn nêu vấn đề:
-
- Chúng ta tỏ lòng tôn kính với ai? Ai là người mà chúng ta ngưỡng
mộ?
-
Thường thì là các tài tử điện ảnh, âm nhạc hoặc thần tượng thể
thao là đối tượng của lòng ngưỡng mộ của con người trần thế, nhưng
chắc chắn họ không phải là đối tượng của sự tôn kính mà chúng ta
đang bàn đến ở đây. Chúng ta phải ý thức rằng chỉ có một điều gì
đó vượt lên khỏi sự hiện hữu tầm thường và những kinh nghiệm sống
hàng ngày, mới thực sự khiến ta đem lòng kính ngưỡng và tôn thờ
với tất cả tấm lòng. Chúng ta cần có một sự đồng cảm tâm linh để
tỏ lòng tôn kính đến bậc tối thượng, do vậy người phật tử chúng ta
bày tỏ sự tôn kính ấy bằng cách quỳ lạy trước tượng Phật. Ở đây
không phải là chúng ta lạy cái tượng mà là lạy hình ảnh của Đức
Phật, tượng trưng cho bản tánh Giác Ngộ sẵn có ở trong mỗi con
người.Việc lễ lạy gieo trồng trong ta lòng kính ngưỡng. Cuộc đời
không bao giờ hoàn hảo như mơ ước và nó không bao giờ làm chúng ta
hoàn toàn như ý, nhưng nếu biết là có một cái gì cao cả hơn, chúng
ta có thể sống mãn nguyện.
-
Về việc lễ lạy, đối với người phật tử chúng ta, ngoài
việc tôn kính đức Phật là đấng cha lành của muôn loài, còn là cách
bày tỏ lòng biết ơn đối với bậc Thầy vĩ đại luôn luôn vì chúng
sanh nhân loại.
-
Hầu hết mọi người đều vui mừng biết ơn khi nhận được thứ gì mới,
nhưng con người thường ít biết trân quý những gì mình hiện đang
có. Do đó chúng ta cần nên nhắc nhở mình phải biết trân quý những
gì mình hiện đang có thay vì xem thường chúng. Khi ốm đau, chúng
ta lại nóng lòng mong mỏi hết bịnh nhưng đến khi hết bịnh ta lại
xem thường sức khoẻ. Trong cơn đói, ta hết sức trân quý bất cứ
thức ăn gì chúng ta có thể kiếm được, nhưng đến khi no đủ thì ta
lại sinh ra kén chọn khó khăn. Do vậy là người học đạo, chúng ta
phải luôn luôn nuôi dưỡng lòng trân quý trong bất cứ mọi hoàn
cảnh. Thí dụ:
-
- Thay vì than phiền về tính xấu của người khác, nhưng chúng ta có
thể trân quý những đức tính của họ.
-
Lòng trân quý do đó là một phản ứng tình cảm đầy khiêm tốn, thương
yêu và đạo đức. Đức Phật thường nhắc đến loại tình cảm cao quý vì
nó giúp chúng ta đạt được sự an lạc một cách tự nhiên. Ai cũng
muốn tìm sự an lạc, nhưng lại không biết tìm kiếm thế nào và ở
đâu. Lẽ tự nhiên là họ đổ lỗi cho chế độ xã hội, cho các chính trị
gia gây ra tình trạng bất an của họ. Nhưng sự bình an là một phẩm
chất của tâm mà ai cũng có thể tự mình đạt được qua nỗ lực cá nhân
và chỉ có thể thấy ở những người biết tự tại.
-
Nếu biết hài lòng với những người sống chung quanh và
hoàn cảnh của mình, thì chúng ta sẽ ít mong cầu.Mỗi một điều mong
muốn đều đem đến cho chúng ta sự bất như ý gọi là khổ. Càng mong
ước thay đổi hoàn cảnh của mình, chúng ta càng dễ bị thất vọng.
Cho nên nếu chúng ta biết nhìn lại cuộc đời mình, chúng ta sẽ thấy
được sự thật hiển nhiên:
-
- Chúng ta không bao giờ toại nguyện với những gì cuộc đời ban cho
ta.
-
Vì tất cả những điều mong muốn đều ở ngoài tầm kiểm soát của chúng
ta, khiến chúng ta phải trông cậy vào người khác hoặc hoàn cảnh
bên ngoài để được toại nguyện. Kết quả là không thể có một giải
pháp thích đáng nào. Nếu muốn có sự thay đổi thật sự, chúng ta
phải tự chuyển hóa bản thân.Một khi ta đã thật sự thay đổi, mọi sự
sẽ hoàn toàn khác hẳn.
-
Đức tánh khiêm cung là một trong những hành vì đạo đức
giúp chúng ta có đời sống tự tại, đồng thời có khả năng đưa chúng
ta đến Giác Ngộ và chúng ta có thể cảm thấy điều này qua sự thực
tập giáo pháp giải thoát trong đời sống hằng ngày. Qua đó chúng ta
dần dần nhận thức được là chúng ta chỉ có thể tự tại khi đã hết
mong cầu.An lạc chỉ hiển lộ khi chúng ta không còn nhu cầu thay
đổi bản thân hay bắt người khác phải thay đổi. Khi chúng ta nhận
biết rằng tất cả mọi thứ trên đời không bao giờ hoàn hảo, và cái
mà chúng ta muốn thay đổi là ở ngay trong chính tâm của mình.
Chúng ta không cần phải bất mãn với những thất bại của mình, trái
lại chúng ta hãy vui sướng vì đã tìm được một con đường dẫn đến
đời sống tâm linh.
-
Cho nên sự khiêm cung và tâm tự tại là những đặc điểm
của đời sống tâm linh đem lại niềm an lạc cho cuộc đời ta. Chính
trong kinh Đại Phước Đức, Đức Phật đã nói về những tình cảm và cảm
xúc tích cực như thế được phát sinh khi chúng ta sống chung đụng
với người khác. Cho nên, là người phật tử chúng ta phải biết trân
quý những đức tánh cao thượng đó và nhất là khi nghe được chân lý
đúng thời điểm, thì nên sẵn sàng tiếp nhận Pháp để hành trì cho
nghiêm mật.
-
Có những người được có duyên nghe Pháp, nhưng lại chưa sẵn sàng
tiếp nhận nó, nhưng điều này không có nghĩa là họ không bao giờ
sẵn sàng. Trái lại, khi họ sẵn sàng tiếp nhận Pháp, chưa chắc họ
đã có đủ cơ duyên để được nghe. Ghi nhận điều nầy và chúng ta phải
nên nhận xét:
-
- Chúng ta không chắc sẽ có cơ duyên được nghe Pháp trong tương
lai, do vậy chúng ta lại càng phải nỗ lực tối đa để biến giây phút
hiện tại thành thời điểm thuận tiện bằng cách mở rộng lòng mình để
đón Pháp, và thực hành thật chu đáo những gì ta đã có thể học được
ở Pháp trong hiện tại.
-
2- Giữ Lòng Kiên Nhẫn
-
Muốn giữ được lòng kiên nhẫn, chúng ta phải học hạnh lắng nghe
không phiền giận khi bị người chỉ trích. Hầu hết mọi người chúng
ta, có lúc thì kiên nhẫn, lúc thì nóng nẩy. Ở trạng thái cực đoan
nào đó, tính nóng nẩy phản ảnh lòng mong muốn mọi việc đều phải
như ý chúng ta. Nhưng thực sự thì ít khi nào mọi sự, mọi việc đều
chìu theo ý của chúng ta, từ đó mà phát sinh tính nóng nẩy, đẩy ta
vào tâm trạng bất an đau đớn.
-
Lòng kiên nhẫn sở dĩ được coi là một trong những hành vi
đạo đức bởi vì nó bao hàm một sự hiểu biết, hiểu biết là mọi vật
đều vô thường, một sự ý thức rằng tất cả những gì chúng ta cảm
nhận đều đang thay đổi. Cho dù đó là các cảm thọ hay tình cảm của
chúng ta, cảm nhận của chúng ta ngay trong lúc này, về hôm nay hay
về cả cuộc đời mình. Chúng ta không thể nắm giữ được mãi mãi một
cái gì, vì mọi vật đều sẽ hoại diệt. Chính vì chúng ta luôn cố
gắng nắm giữ của cải vật chất, cho nên lúc nào chúng ta cũng thấy
thất vọng. Đức Phật dạy là do vì chấp ngã, cho nên hầu hết chúng
ta đều không muốn nghĩ đến điều này.
-
Giữa những bằng chứng hiển nhiên của vô thường, chúng ta
vẫn không ngừng cố gắng biến chúng thành thường hằng, và những thứ
vô thường khi mất đi đem lại cho ta đau khổ, trong khi đó chúng ta
lại cho là niềm vui. Chúng ta phải biết, bản chất tạm bợ của mỗi
tư tưởng, mỗi cảm giác, mỗi cử động của cơ thể được hiện hữu theo
dõi từng phút giây. Nhưng tất cả rồi sẽ hoại diệt, không có gì là
bất biến. Có nhiều phương tiện để lưu trữ các sự kiện như:
-
- Sách vở, phim ảnh và ký ức.
-
Nhưng nếu chúng ta nghĩ rằng mình có thể bám víu không để mất
người thân, tình cảm, kỷ niệm hay các sự kiện, thì cuối cùng chúng
ta cũng chỉ ôm lấy hư không. Ngược lại, nếu hiểu được là không có
gì trường cửu, chúng ta sẽ chiêm nghiệm được lòng kiên nhẫn như là
một kết quả tất yếu với một cảm giác nhẹ nhõm và an bình.Như thế
chúng ta sẽ không còn cảm thấy bận tâm nữa.
-
Tất cả chúng ta đều biết, là cần có tinh tấn để duy trì
việc tu học của mình, nhưng chúng ta cũng cần đến lòng kiên nhẫn
nữa. Không có kiên nhẫn, việc tu học của ta không có kết quả. Rất
ít người có thể tu học một cách nghiêm túc vì thiếu kiên nhẫn.
Chúng ta không những phải tự nỗ lực mà còn phải kiên nhẫn với
chính mình, lần này đến lần khác, ngày này qua ngày khác.
-
Nếu có thể kiên nhẫn hơn với bản thân, thì chúng ta sẽ
dễ dàng kiên nhẫn với người khác, nhất là khi mọi việc không như ý
chúng ta muốn. Nếu không, chúng ta sẽ có thái độ cứng nhắc, nhọc
nhằn, ngoan cố với bản thân và với người khác. Vì thế lòng kiên
nhẫn và từ ái đi đôi với nhau, và vun trồng lòng kiên nhẫn là một
hành vi đạo đức.
-
Tiềm năng lớn nhất của con người nằm ở khả năng học hỏi. Chúng ta
có thể đạt bất cứ mục tiêu nào khi chúng ta chú tâm và nỗ lực làm
việc ấy.Nói như thế không có nghĩa là mọi sự sẽ xảy ra như ý chúng
ta, và nếu nghĩ như vậy thì ta sẽ thất vọng càng nhiều.Tuy nhiên,
nếu thực tập được tính kiên nhẫn, chúng ta sẽ dần dà làm được điều
ấy. Bất cứ ai nếu tinh tấn tu tập cũng có thể đi theo con đường mà
Đức Phật đã vạch ra cho tất cả mọi người, và đạt đến thành quả.
Tục ngữ có câu:
-
- Muốn là được.
-
Vì chúng ta thường đạt được những điều mình thực sự muốn, cho nên
chúng ta cần thận trọng để chỉ mong muốn những điều thiện và vừa
phải mà thôi.Nhưng nếu muốn như thế thì không thể thiếu đức tánh
kiên nhẫn.
-
3- Chấp Nhận Phê Bình
-
Hành vi đạo đức kế tiếp là lắng nghe không phiền giận khi bị người
phê bình. Chấp nhận lời phê bình của người khác là một việc không
dễ đối với nhiều người. Không giận dữ hay bực bội, hoặc chỉ trích
lại người, hiển nhiên đều là nhờ rất nhiều vào lòng kiên nhẫn,
nhưng nó cũng liên quan đến lòng tự tin. Trong khi những người mặc
cảm tự ti, chỉ cần một lời phê bình nhỏ cũng làm cho họ mặc cảm,
khiến họ nổi giận hoặc ít nhất là buồn bực khó chịu.
-
Phần lớn chúng ta không thấy khuyết điểm của chính mình,
cho nên khó mà tự sửa những điều sai lầm. Vì vậy khi được các
người bạn tốt chỉ bảo, thì chúng ta phảo coi đây là một điều may
mắn. Để thực hiện được điều nầy, chúng ta phải tự biết mình và học
cách cư xử hòa nhã, như thế sẽ dễ dàng hơn khi chúng ta được người
khác nhắc nhở những sai lầm, nhưng ta phải sẵn sàng đón nhận sự
nhắc nhở đó. Ngược lại, khi muốn nhắc nhở người khác, chúng ta
cũng phải cảm nhận là họ có sẵn lòng nghe lời phê bình xây dựng
hay không, nếu họ không sẵn lòng nghe, chúng ta không nên cố ép.
Điều quan trọng là chúng ta có thể chấp nhận được cả hai trường
hợp, đóng góp ý kiến xây dựng khi thấy có ích lợi, mà cũng vui vẻ
kiềm chế sự phê bình khi bất lợi.Sự toàn hảo chỉ có được đối với
những bậc toàn thiện, toàn mỹ, nhưng trong cõi nhân sinh thì hiển
nhiên là không ai hoàn toàn, cho nên những lời phê bình xây dựng
luôn cần thiết, nhưng phải biết đúng lúc, đúng chỗ và đúng người.
Lẽ dĩ nhiên là đôi khi sự phê bình có thể không đúng. Nếu gặp
trường hợp nầy, thì chúng ta không cần để ý và cũng không nên bực
mình vì những sự phên bình không đúng. Chúng ta còn phải cảm ơn
người đã bỏ công nói cho chúng ta nghe những điều họ nghĩ.
-
4- Pháp Đàm:
-
Muốn có những giây phút thảnh thơi an nhàn thì pháp đàm không thể
thiếu. Mà muốn thực hiện pháp đàm là chúng ta cần có những người
bạn đạo cùng chung chí hướng. Bỡi vì, những điều bàn bạc là thức
ăn nuôi dưỡng tâm chúng ta.Thức ăn càng bổ dưỡng, tâm càng được
ích lợi, vì thế pháp đàm chính là món ăn tinh thần. Cho nên nói về
chân lý không phải chỉ là thận trọng để những lời nói của chúng ta
luôn luôn đúng với sự thật, mà nó còn đòi hỏi ta phải bàn luận về
những đề tài cao xa hơn là những chuyện phù phiếm thường ngày, để
chúng ta thấu hiểu hơn về con người, về bản thân của chúng ta. Đó
là những vấn đề liên quan đến sự thật vũ trụ, chân lý phổ quát mà
ai cũng có thể thấy. Chân lý ở đây chúng ta không nên bị nhầm lẫn
với sự kiện khoa học, thí dụ như:
-
- Vũ trụ xoay vần ra sao, tại sao có thời tiết bốn mùa.
-
Về kiến thức khoa học lẽ tất nhiên cần thiết cho sự tìm tòi học
hỏi trong công cuộc phục vụ nhân sinh, nhưng không giúp con người
trở nên nhân ái và giải thoát như là chân lý về tâm linh mà Pháp
của đạo giải thoát đã cho chúng ta. Cho nên bàn luận về Phật Pháp
quả thật là một hành vi đạo đức đáng ca ngợi. Dĩ nhiên, không có
nghĩa là chúng ta không bao giờ nên nói những câu chuyện đời
thường, mà chỉ vì chúng ta phải nhận thức được rằng chúng chỉ là
những nhu cầu tầm thường, và không lầm những điều nầy với những gì
tạo nên đời sống thật sự của chúng ta. Cho nên một khi đã gặp
thiện tri thức và bàn luận về chân lý của pháp giải thoát là chúng
ta đã bắt đầu cuộc hành trình tâm linh, để theo đuổi chân lý. Chỉ
có chân lý giải thoát mới có thể chỉ cho ta con đường dẫn đến sự
tận diệt mọi khổ đau. Mặc dầu những sự thật đó dành sẵn cho tất cả
mọi người, nhưng ít ai sẵn sàng tin theo sự thật đó.
-
Tất cả mọi người đều muốn được hạnh phúc, an bình và thảnh thơi
trong tâm, nhưng lại không có ai muốn buông bỏ cái ngã của
mình.Trong khi đó chúng ta chỉ có thể chấm dứt khổ đau khi buông
bỏ tự ngã, và vì hầu hết mọi người chưa làm được điều này, nên hòa
bình và hạnh phúc vĩnh viễn không thể hiện được ở trên cõi đời
nầy. Do vậy, gần gũi thiện tri thức và bàn luận về chân lý giúp ta
tìm được an lạc, và chân an lạc chỉ có ở ngay trong tâm, và nó bắt
đầu từ tâm chúng ta và tỏa rộng ra ngoài.
-
Trong cuộc sống thế tục, thật sự không thể có an lạc, luôn có
những điều không hoàn toàn đúng, và cần được thay đổi hay sắp xếp
lại.Trái lại, trong cuộc sống tâm linh, tâm ta chấp nhận mọi sự
như những gì đã và đang có. Nếu chúng ta chấp nhận chân lý này và
hành xử theo nó, là chúng ta sẽ được hưởng quả của hạnh phúc tốt
đẹp
-
5- Thanh Tịnh Hoá Tâm:
-
Muốn cho tâm thanh tịnh chỉ có con đường duy nhất là buông xả bản
ngã thì tâm tự thanh tịnh. Cho nên khi tu tập, chúng ta phải cố
gắng buông xả bản ngã bằng cách thanh tịnh hóa tâm, tức là gieo
trồng những tình cảm tốt, thanh tịnh hóa trí năng, gạn lọc và đào
sâu suy tư của mình. Không được gọi là hành vi đạo đức khi tâm
không thanh tịnh, hoặc khi không có sự buông bỏ ngã chấp.
-
Từ kinh nghiệm bản thân, chúng ta ai cũng đều biết là mình đã khổ
sở và phiền muộn ra sao khi có ý nghĩ và cảm giác không lành mạnh.
Nó làm chúng ta cũng như người khác khổ đau. Nhưng điều đáng tiếc
là chúng ta lại không sẵn sàng chấp nhận là sự thay đổi phải bắt
đầu từ con người chúng ta. Hầu hết chúng ta đều cho rằng chính
hoàn cảnh chung quanh khiến chúng ta khổ đau, như thế chỉ cần thay
đổi hoàn cảnh theo ý muốn thì chúng ta mới bớt đau khổ. Đó là cách
suy nghĩ của hầu hết mọi người, cho nên chúng ta chỉ muốn thay đổi
bất cứ điều gì ngoại trừ bản thân. Nhưng thực tế, một số hoàn cảnh
có thể được thay đổi cho tốt hơn đôi chút, nhưng chủ yếu chính là
phải thay đổi tư tưởng, tình cảm nơi bản thân của chính chúng ta
mới mong có được an lạc. Muốn thế, chúng ta phải không ngừng thực
tập chánh niệm, hành trì chánh niệm trong lúc tu tập cũng như duy
trì chánh niệm trong đời sống hàng ngày. Chúng ta cần phải quán
sát bản thân thường xuyên để không bỏ lỡ cơ hội thanh tịnh hóa tâm
của chúng ta, vì suy cho cùng, không ai có thể làm việc này cho
chúng ta ngoài trừ chúng ta.
-
Thanh tịnh hóa tâm cũng là một hành vi đạo đức thực tiển
nhất, lẽ tất nhiên không liên quan gì đến lối sống, cách ăn mặc
sang trọng hay không sang trọng mà là về phẩm chất của cuộc đời,
cách chúng ta đang sống cuộc đời của mình.Và thanh tịnh hóa là một
tiến trình lâu dài, và bắt đầu có hiệu lực từ giây phút chúng ta
bắt đầu thực tập điều này. Ai cũng có những khó khăn, cho nên
không bao giờ sự việc xảy ra như dự tính của chúng ta, nhưng không
vì thế mà ta phải chán nản và buồn bực.Trái lại, ta nên vui mừng
vì đã nhận biết được điều gì đang xảy ra trong chúng ta. Do vậy,
nếu tiếp tục thay thế những tư tưởng và tình cảm bất thiện bằng
những điều thiện, thì chúng ta sẽ nhận ra việc buông bỏ ngã chấp
là giải pháp duy nhất để thoát ra khỏi thân phận đau khổ của con
người. Trí tuệ của người hướng dẫn có thể giúp chúng ta chút
ít,nhưng đó chỉ là ngón tay chỉ đường, không phải là kinh nghiệm
cá nhân, và chỉ có cách thanh tịnh hóa ta mới có thể biến trí tuệ
đó thành kinh nghiệm của chính mình.
-
Càng tiến xa hơn trên quá trình này, chúng ta càng có
cái nhìn rõ hơn về bản thân và càng thấy rõ hơn là tất cả những
loạn động trong ta đều do có cái ngã, cái cảm giác nhất định phải
sở hữu một cái gì đó. Cái ngã này tự coi mình là quan trọng, và
muốn ai cũng phải để ý đến mình. Khi tự quán sát và chuyển đổi tự
thân, chúng ta sẽ thấy rõ ràng hơn bao giờ hết. Cho nên cách duy
nhất để thanh tịnh hóa tâm là phải đem bản ngã ra phân tích một
cách thật tỉ mỉ.
-
Sự thực hành để hoàn chỉnh hành vi đạo đức khởi sinh,
khi chúng ta nhìn xuyên qua được tấm màn ảo tưởng này.Đó là một
khám phá hết sức tuyệt vời, cho nên Đức Phật gọi đó là Giác Ngộ.
Vì thế, nếu đã có được chút khái niệm gì về nó, là chúng ta đã có
một khởi đầu tốt đẹp. Nhận biết được ảo tưởng này trong chúng ta,
có nghĩa là chúng ta đã khám phá được sự sai lầm trong cách chúng
ta nhìn mọi việc. Sự sai lầm này đã bén rễ lâu đời trong tâm,
nhưng nếu chúng ta có thể diệt trừ được nó, và không tự xem mình
như một cá thể riêng biệt tuyệt đối thì mọi khổ đau sẽ chấm dứt.
Tuy nhiên sự diệt trừ ngã tưởng không phải là một điều dễ dàng, và
chúng ta chỉ có thể thực hiện được khi ý thức rằng không có cách
nào khác để chế ngự khổ đau, ngoài trừ tiêu diệt tự ngã. Do vậy,
ngày nào chúng ta còn đi theo bản ngã trong việc truy tìm hạnh
phúc, thì dù chúng ta có tu tập để tâm được bình an, thay vì xem
đó là một phương tiện để phát triển tuệ giác, hoặc tham gia đời
sống xã hội vui vẻ, hay sống ẩn dật, hay các sinh hoạt nào khác,
thì chúng ta cũng sẽ không thể nào nắm bắt được ảo tưởng ấy. Chỉ
khi nào tâm chúng ta biết nói:
-
- Không có tôi, không có cái của tôi, không có gì cả ...
-
Chỉ khi nào chúng ta luôn tinh tấn, khiêm cung và ý thức cảnh đời
vô thường, thì lúc đó chúng ta đã đi đúng đường. Khi chúng ta có
thể từ bỏ, buông xả ngã chấp, dù chỉ là trong giây lát, chúng ta
cũng sẽ chứng nghiệm được ngay trong lúc đó có niềm an lạc và thư
thái vô biên, giống như tất cả các gánh nặng trên vai ta đã rơi
xuống. Điều này không phải một sớm một chiều mà đạt được, mà nó
khởi sinh trên con đường thanh tịnh hóa, cùng lúc chúng ta phải
luôn cố gắng để nhận ra rằng khổ đau chính là nghiệp quả của ngã
tưởng.
-
6- Đức Vững Chãi:
-
Tám ngọn gió trong cuộc đời thường làm bận tâm chúng ta
là:
-
- Được và mất,
-
- Vinh và nhục,
-
- Khen và chê,
-
- Sướng và khổ.
-
Tất cả chúng ta đều đã nếm trải qua chúng lúc này hay lúc khác,
nhưng chúng ta quen chấp nhận bốn thứ dễ chịu:
-
- Được,
-
- Vinh,
-
- Khen,
-
- Sướng
-
Và tránh né bốn thứ khó chịu:
-
- Mất,
-
- Nhục,
-
- Chê,
-
- Khổ
-
Cho nên chúng ta chẳng bao giờ được an lạc. Chúng ta luôn tìm
những cái có vẻ thoải mái và tránh né những điều trái nghịch, và
vì ai cũng như thế nên thế giới không bao giờ có an lạc. An lạc
chỉ đến khi chúng ta không còn bị quyến rũ bởi bốn thứ dễ chịu và
trốn tránh bốn thứ khó chịu. Chỉ khi nào ta đã chấp nhận là những
đối nghịch đó nẩy sinh ra nhau, khi đó ta mới có thể sống một cuộc
sống quân bình.
-
Chúng ta phải hiểu rằng bốn thứ dễ chịu được, vinh,
khen, sướng trong đời sống của chúng ta cũng vô thường như những
thứ gì khác. Bất cứ những gì chúng ta có, dù đó là tiền bạc, tình
yêu, người thân, một dịp vui .., tất cả đều vô thường. Nó đã đến
với ta, thì rồi nó cũng sẽ đi. Để chấp nhận được điều này đòi hỏi
không chỉ một sự hiểu biết sâu sắc về vô thường mà còn phải hoàn
toàn buông xả. Thí dụ:
-
- Nếu chúng ta đau khổ khi bị mất mát và vui sướng khi được một
cái gì ..,
-
Chạy theo cảm
giác như thế là chúng ta chưa hiểu được điều này. Chúng ta phải
luôn đối diện với vô thường, chấp nhận nó. Nhận thức là thời gian
chúng ta sống trên đời rất ngắn ngủi và chúng ta lại nhỏ bé so với
vũ trụ vạn hữu.Nếu khác chăng nữa là do ở sự quyết tâm của ta
trong việc thanh tịnh hóa tâm, chánh niệm trong đi, đứng nằm,
ngồi, có một tấm lòng thương yêu và sẵn lòng giúp đỡ người khác.
Điều này giúp chúng ta đối diện với tám ngọn gió nghiệt ngã trong
cuộc đời với cái nhìn buông xả, để chúng không chi phối chúng ta
nữa.
-
Một
trái tim vững chãi như thế, dù cho có gặp tám ngọn gió bão tố
trong cuộc đời, chúng ta cũng có thể chấp nhận với tâm buông xả
như nhau, không yêu thích mà cũng không ghét bỏ. Đây là một tiến
bộ quan trọng, cũng là một bước khó khăn, vì thế chúng ta không
nên kỳ vọng là mình sẽ làm được ngay như thế, song ít nhất hãy cố
gắng thực tập. Qua sự nhận biết
tính chất của tất cả những hoài vọng hay ghét bỏ, đến và đi, có đó
rồi mất đó là chúng ta đang thực tập hạnh buông xả. Buông xả là
một trong bảy yếu tố đưa đến Giác Ngộ và chúng ta không nên nhầm
lẫn nó với thái độ dửng dưng. Buông xả là một tuệ giác sâu sắc với
một trái tim vững chãi tràn đầy thương yêu. Dửng dưng là thái độ
lạnh nhạt, không muốn can dự vào bất cứ một chuyện gì hết, kết quả
là làm cho cuộc đời càng thêm khó sống. Buông xả là tình cảm cao
đẹp nhất trong tất cả những tình cảm, và đòi hỏi lòng can đảm. Cần
có lòng can đảm để làm một con người, để có thể chấp nhận mọi thứ,
và không bị lóa mắt vì các hào nhoáng bên ngoài của cuộc đời.
-
Cuộc đời có một đặc điểm lạ thường là nó rất dễ dàng đưa
chúng ta đi vào nẻo xấu. Dưới ánh nắng của mặt trời, thế giới bên
ngoài dường như rất đẹp. Giống như chúng ta có thể ngắm một cầu
vồng tuyệt đẹp, nhưng nó lại không mang cho ta những gì ta thật sự
muốn, mà nó chỉ có những màu sắc bắt mắt, nhưng không ai có thể
chiếm hữu được nó. Cuộc đời cũng thế. Nó có không biết bao vẻ hào
nhoáng làm chúng ta say mê nhưng đó là những thứ mà chẳng ai có
thể thực sự sở hữu.Do đó, công việc chính của chúng ta là thanh
tịnh hóa tâm, là nhận ra sự huyễn ảo của cái ngã và tất cả những
nguy hiểm của tám ngọn gió trong cuộc đời:
-
- Được mất, vinh nhục, khen chê, sướng khổ.
-
Một tâm vững chãi, không sầu khổ, trong sạch và an trụ
là tâm đã Giác Ngộ. Những ai đạt được như vậy là kẻ chiến thắng, ở
mọi lúc mọi nơi. Họ tìm thấy hạnh phúc ở khắp cùng các chốn, và
đây chính thực là người biết sống hạnh phúc.
-
Thực tập những hành vi được coi là đạo đức nhằm chỉ cho
chúng ta con đường tìm ra chân hạnh phúc. Khi đã nói là chân hạnh
phúc thì tất nhiên không phải là thứ hạnh phúc tạm bợ, mà là một
thứ hạnh phúc sẽ còn mãi không ai có thể cướp đoạt. Những ai là
người có được chân hạnh phúc thì những người ấy luôn là kẻ chiến
thắng, cho dù ở thế giới nầy hay ở cảnh giới nào đi nữa cũng hưởng
được phước báu tối thượng.
-
Việc chúng ta có đến được trạng thái hạnh phúc này hay
không hoàn toàn tùy thuộc vào chúng ta. Nếu chúng ta còn coi trọng
cuộc sống thế tục, và cho rằng chúng ta có nhiều việc quan trọng
phải làm, chắc chắn là ta sẽ không có đủ thời gian dành cho chính
mình một cuộc sống tâm linh. Chúng tôi xin lưu ý, việc gác bỏ
chuyện đời không có nghĩa là chúng ta quay lưng với cuộc đời, mà
nó chỉ có nghĩa là chúng ta không còn vướng mắc. Nếu đã thực sự
chọn con đường này, thì chúng ta cần phải phân tích những vướng
mắc của mình bằng cách viết chúng xuống, sau đó xét xem chúng ta
bám víu vào những gì nhiều nhất:
-
- Có thể là người thân, của cải, hoài niệm, tuổi trẻ hay sắc đẹp
..
-
Khi đã liệt kê ra rồi, chúng ta xem xét coi tự thân có thể buông
bỏ được điều gì không, hay là sự bám víu quá sâu dày, quá mãnh
liệt khiến ta không thể tách rời.
-
Nói tóm lại, khi nào chúng ta còn bám víu vào cuộc sống, khi nào
mà chúng ta còn ham muốn của cải vật chất, còn muốn sở hữu mọi
thứ, thì chúng ta còn bị xiềng xích trói chặt. Lúc đó chúng ta rõ
ràng nằm trong gọng kềm của những bám víu của mình, và mạnh mẽ
nhất là sự bám víu vào cái ngã. Sự bám víu của chúng ta rõ ràng đã
tạo ra không biết bao tình cảm tiêu cực và những thứ khó khăn cho
chính ta, cho nên bất cứ phương pháp tu tập nào giúp chúng ta hiểu
rõ hơn về chính chúng ta chắc chắn sẽ hết sức lợi lạc trên con
đường đi đến giác ngộ.
-
Nhưng dầu sao đi nữa, và cho dù tu tập theo phương pháp
nào cũng được, chúng ta cũng cần phải chuyển hướng sự suy nghĩ của
mình ra khỏi những sinh hoạt có tính cách lập đi lập lại những tệ
hại của cuộc sống, và hướng chúng ta đến những việc làm có giá trị
chân thiện mỹ. Căn bản của quá trình buông bỏ ngã chấp và tự thanh
tịnh hóa tâm chúng ta có thể dùng cac phương pháp:
-
- Tụng kinh, niệm phật, thiền tọa kinh hành ...
-
Những phương pháp nầy, dù rằng tự nó không đầy đủ, nhưng vẫn tuyệt
đối cần thiết trong đời sống tâm linh của chúng ta, vì tất cả
những phương pháp nầy đều có khuynh hướng tu hành kiến tạo hành vi
đạo đức, đồng thời cũng góp phần đem an lạc đến cho nội tâm và
luôn theo chúng ta trên con đường tiến đến sự giải thoát tối
thượng.
--o0o--
|
|