|
TẬP SAN DƯỢC SƯ
-
Tịnh Độ Nhân Gian
-
Nhất Quán
- ---o0o---
-
-
Ðức Phật thường dạy tâm địa hay lấy đất ví cho tâm. Như chúng ta
đã biết, chúng ta có thể gieo trồng trên đất nhiều cây cỏ, hoa màu
hay cỏ dại đều từ đất mà sanh. Vì tâm con người giống như mặt đất,
cho nên từ tâm con người có thể sanh ra các pháp lành hay phiền
não nhiễm ô.
-
Như vậy với trình độ hiểu biết và khả năng của chúng ta có thể
khai thát biến đổi vùng đất hoang dã thành đồng bằng phì nhiêu.
Hay nói cách khác, bằng trí tuệ sáng suốt chúng ta có thể thanh
lọc những tánh xấu ác, gai chông ra khỏi mảnh đất tâm của chúng ta
và gieo trồng các pháp lành, khi tâm trong sáng sẽ thành cảnh giới
thanh tịnh tốt đẹp tự nhiên. Ý thức được như thế, khi chúng ta
chưa có khả năng tự tịnh hóa tâm mình, nhưng nếu có duyên lành,
gặp được những bậc đức hạnh và nương theo tâm thanh tịnh của các
Ngài, thì lòng chúng ta cũng được bình ổn. Nhờ tâm đứng yên lại,
trí mới theo đó bừng sáng và dùng trí nầy quan sát pháp thấy được
thật tướng các pháp. Như vậy trí sanh thì Tịnh Độ tự hiện, phiền
não sanh thì Ta Bà hiện. Tùy tâm hay tùy nhận thức mà thế giới
quan cũng sẽ thay đổi theo.
-
Chính vì tâm có khả năng sanh khởi các loại hình thế giới mà Ðức
Phật đưa ra pháp tu kiến tạo Tịnh Ðộ. Nếu đúng như pháp mà tu hành
thì kết quả sẽ hiện ra tương tự như theo ý chúng ta mong mỏi,
quyết tâm tu học chắc chắn phải thành công. Pháp tu đầu tiên Phật
dạy là phương pháp diệt khổ để có Niết Bàn. Khi làm theo đúng mô
hình Ðức Phật đề ra, thì chúng ta đương nhiên đạt quả A La hán,
tạo dựng được loại hình thứ nhất trong thế giới thánh là Niết Bàn
của Thanh Văn. Trong 10 loại thế giới phàm thánh, thấp nhất là
cảnh giới Ðịa Ngục và cao nhất là thế giới Phật. Cảnh giới Phật là
một mô hình thế giới lý tưởng chúng ta tu hành đều cố gắng đạt
đến. Tuy nhiên trong thế giới chư Phật, và nhất là Tây Phương Cực
Lạc của Đức Phật A Di Đà, Ðức Phật cũng đã vẽ ra cho chúng ta bốn
loại thế giới thanh tịnh, hay bốn Tịnh Ðộ khác nhau qua bốn bộ
Kinh, đó là:
-
- Kinh A Di Ðà
-
- Kinh Duy Ma
-
- Kinh Hoa Nghiêm
-
- Kinh Pháp Hoa
-
Và:
-
- Thường Tịch Quang Tịnh Độ
-
- Phàm Thánh Đồng Cư Độ
-
- Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh Độ
-
- Phương Tiện Thánh Cư Độ
-
Từng chặn đường tu hành, thì tư cách và khả năng người
nghe pháp thăng tiến đổi mới, cũng như tùy thời, tùy chỗ Ðức Phật
thuyết pháp khác nhau mà hình thành cảnh Tịnh Ðộ hay cảnh giới an
lành cũng không giống nhau. Tu chứng thâm nhập được các tịnh độ
của chư Phật thì chúng ta sẽ bước vào Tịnh Ðộ sau cùng do chính
chúng ta tạo dựng. Từ đó chúng ta có thể nhận chân được rằng, tuy
cùng một Tịnh Ðộ nhưng đức Phật nương theo trình độ tu chứng khác
nhau của chúng ta mà diễn tả cảnh giới Tịnh Ðộ dưới những dạng sai
khác. Khởi đầu, chúng ta có mẫu Tịnh Ðộ là thế giới Tây Phương Cực
Lạc của Ðức Phật A Di Ðà, Đông Phương của đức Dược Sư, Đâu Xuất
Viện của Đức Di Lặc .... Là người phật tử, hướng đi lúc nào cũng
hướng đến các cảnh tịnh độ của chư Phật, tuy nhiên trước khi nói
và thực hành về Tịnh Ðộ của chư Phật, thì chúng ta phải biết Tịnh
Độ của Bồ Tát, bởi vì phải có Tịnh Độ Bồ Tát thì mới tạo thành
Tịnh Ðộ của chư Phật được. Mà nói Tịnh Độ của Bồ Tát, trong phạm
vi bài viết nầy chúng tôi muốn nhấn mạnh đến Bồ Tát Nhân Gian, và
chỉ có Bồ Tát trong nhân gian mới kiến tạo được Tịnh Độ Nhân
Gian.
-
Theo quan điểm nầy, một tiêu biểu cụ thể cho chúng ta tu học,
trước hết chúng ta phải liên tưởng đến Kinh Duy Ma. Tại pháp hội
trong vườn Yêm La trong thành Tỳ Da Ly, Ðức Phật đã dạy cho các
phật tử tại gia, nhất là các bạn trẻ về những kinh nghiệm tu hành
vô số kiếp trước của Ngài, và đồng thời cũng để ngầm giáo hóa cho
8000 Tỳ Kheo trong pháp hội phải nên biết xây dựng, phát triển
cuộc sống với đại chúng, và từ bỏ tư tưởng yếm thế của Thanh Văn.
Đó là lý do tại sao trong Kinh Duy Ma mở đầu với Phẩm Phật Quốc,
đức Phật nói lên nhận thức về Tịnh Ðộ bao gồm những lời dạy trong
các Kinh Ðiển Nguyên Thủy và Ðại Thừa để xây dựng Niết Bàn hay thế
giới an lành vĩnh cửu. Tuy nhiên loại Tịnh Ðộ trong Kinh Duy Ma
khởi đầu bằng Trí Bát Nhã, quán chiếu soi rọi vào xã hội để thấy
và nói đúng với sự thật, cho nên đức Phật mới đưa ra mô hình Tịnh
Ðộ rất hiện thực. Ðối với những người giàu sang trong thành Tỳ Da
Ly lúc bấy giờ, tất cả đều là những người trí thức, tích cực hoạt
động có đời sống cao trong xã hội, vì thế những người nầy không
thể chấp nhận một mẫu Tịnh Ðộ Tây Phương cách đây mười muôn ức thế
giới, và do người khác xây dựng sẳn và chúng ta chỉ có việc đến
hưởng. Vì thế, để thuận theo bối cảnh của thành phố sinh hoạt,
phát đạt cũng như tâm niệm hăng say phát triển xã hội của các phật
tử tại gia, đức Phật đã vẽ ra một mẫu Tịnh Ðộ của Bồ Tát, loại
tịnh độ nầy do chính bàn tay và khối óc của Bồ Tát xây dựng nên,
nghĩa là một mẫu thế giới lý tưởng phải được thực hiện ngay trong
cõi đời nầy, một Tịnh Ðộ ở ngay một thế giới xa xăm nào khác chỉ
là không tưởng. Tuy nhiên, muốn hình thành Tịnh Ðộ Bồ Tát hay một
thế giới Phật, chúng ta phải xây dựng căn bản trên con người, từ
bỏ con người chúng ta cũng không thể nào có thế giới Phật. Ðức
Phật bằng huệ nhãn quan sát chúng sanh, Ngài dạy rằng con người
thế nào, thì cảnh giới cũng tùy theo đó mà hiện ra.
-
Như vậy chúng ta phải xây dựng con người chúng ta như thế nào để
thành Phật, nếu cứ xây dựng con người của các cảnh giới địa ngục
mà muốn có thế giới Phật chỉ là việc làm vô ích. Trên bước đường
tu tùy theo tư cách, vị trí của chúng ta đến chặng đường nào, thì
thế giới giải thoát mở ra đến đó. Do vậy, từ bước khởi đầu tu của
Thanh Văn hay con người phàm phu chúng ta, ai cũng phải trải qua
bốn trạm chuyển đổi tầm nhìn, và bốn lần thay đổi sự hiểu biết
trong tâm thức, hay đó là thế giới niết bàn của Tu Ðà Hoàn, Tư Ðà
Hàm, A Na Hàm, A La Hán. Bốn quả vị đó trong các tiến trình tu
học:
-
1- Tu Ðà Hoàn
-
Trong hàng Thánh, tức là bậc đã chứng đắc được đạo quả giác ngộ
của Phật giáo, có bốn quả vị thuộc hàng Tiểu Thừa mà Tu Đà Hoàn là
quả vị tu chứng đầu tiên.
-
Tu Đà Hoàn hay còn gọi là Dự Lưu, tức là chỉ cho người mới tu đắc
và bắt đầu nhập vào quả Thánh, nhưng vì còn các trần sa nghiệp tức
là loại nghiệp quả vi tế của nhiều đời nên chưa giải thoát trọn
vẹn được.
-
Ngoài ra, còn có các tên gọi khác cũng để chỉ quả vị Tu Đà Hoàn
như: Nhập Lưu hay Nghịch Lưu, tức là từ chỗ phàm phu chứng vào
được bậc Thánh, vì đi ngược lại với dòng lưu chuyển của sanh tử để
chứng Thánh. Mới nhập vào dòng Thánh cho nên chúng ta còn phải gia
công tu tập các pháp lành để được tiến xa hơn lên ở các quả vị
khác trong hàng Thánh.Õ
-
Tu Đà Hoàn tu theo pháp Tứ Đế và quán pháp Nhân Duyên, đã đoạn
sạch được kiến hoặc, tức là cái thấy biết do sự cố chấp mà thành.
Từ phàm phu, muốn chứng nhập vào dòng Thánh, quả Dự Lưu, phải trải
qua 3 a tăng kỳ kiếp hay còn gọi là vô số kiếp mới thành tựu viên
mãn. Với khoảng thời như vậy, đối với con người phàm phu cho nên
chúng ta cứ nghĩ số kiếp như thế là lâu, nhưng các bậc đã chứng
quả Thánh, thì thời gian đó chỉ là khoảng cách như lúc khảy móng
tay mà thôi.
-
2- Tu Ðà Hàm
-
Là quả vị thứ hai trong Tứ Quả. Tư Đà Hàm, người Trung Hoa dịch
nghĩa là Nhất Lai, tức là còn thọ sanh lại làm người một lần nữa
để tu hành, những nghiệp lực của tư hoặc trong cõi dục còn lại một
phần nên chưa hoàn toàn ra khỏi cảnh giới trần ai được. Do vướng
mắc ba phẩm tư hoặc sau cùng chưa đoạn sạch, cho nên quả tu chưa
trọn vẹn, cho nên phải tấn tu thêm một lần nữa. Quả vị của Tiểu
Thừa hay bốn quả Thánh của Thanh Văn, thì Tư Đà Hàm là bước thứ
nhì trên đoạn đường tu giải thoát của bốn thánh quả.
-
3- A Na Hàm
-
Quả vị thứ ba trên đường tu của hàng Thanh Văn là A Na Hàm. A Na
Hàm, người Trung Hoa dịch là Bất Lai, tức là không thọ sanh trở
lại nơi cõi đời nầy nữa, vì đã dứt sạch tất cả Tư Hoặc ở cõi dục.
Chúng ta muốn đi nốt đoạn đường tu niệm phải đạt tới quả A La Hán
sau cùng mới thành công viên mãn. Người tu đã chứng tới quả A Na
Hàm thuộc hàng Tiểu Thừa Phật Giáo, cũng có nghĩa là không còn bị
chi phối bởi dòng sanh tử luân hồi của cõi dục nữa. Cũng cần nói
rõ về nghĩa của chữ Tư Hoặc là cái mê lầm về sự, do mê muội nơi sự
vật mà ra. Những nhu cầu đó chẳng hạn như ba nhu cầu tối thiểu
trong đời sống là:
-
- Cơm ăn, áo mặc, và nhà ở.
-
Ba sự việc nầy tuy là đơn giản nhưng nó làm cho chúng ta tham
trước. Ý niệm nẩy sinh cùng trong một thân nầy, cho nên nó còn có
tên là mê lầm về câu sanh. Muốn tận diệt sự mê lầm đó, cần phải
gắng chí tu trì để từ từ dứt bỏ những điều mê lầm căn bản đó gọi
là tư hoặc. Đến quả vị A Na Hàm là quả vị đã trừ bỏ hẳn những mê
lầm căn bản đó từ thô đến tế, để dũng mãnh đứng vào hàng Thánh mà
không sợ bị chi phối bởi nghiệp lực nữa.
-
4- A La Hán
-
Giai đoạn sau cùng để đạt được mục đích tối hậu của quả Thanh Văn
thuộc Tiểu Thừa Phật giáo là A La Hán. A La Hán người Trung Hoa
dịch là vô sanh hay Ứng Cúng, tức là không còn thọ sanh làm người
trong cõi dục nữa, mà là bậc đã giác ngộ sáng suốt xứng đáng thọ
nhận của Trời và Người cúng dường. Do vậy nếu chúng ta làm một sự
so sánh, thì quả vị của hàng Thanh Văn không có khác với Bồ Tát.
Chỗ cứu cánh của Thanh Văn là tu giải thoát lấy mình, trong khi đó
Bồ Tát không những tự độ cho chính bản thân, mà còn cứu độ cho
nhiều người khác đồng tu và đồng chứng quả. Từ lý tưởng nầy cho
nên khi những vị đạt đến quả A La Hán, họ không trở lại trần gian
nữa. Tuy nhiên lý tưởng của Bồ Tát là mang hạnh nguyện từ bi, và
lăn xã trong đời, gần gũi chúng sanh để cứu giúp cho chúng sanh,
cho nên họ phải hiện thân trở lại cõi đời. Như vậy nếu có khác thì
chỉ khác ở chỗ lý tưởng mà thôi.
-
Chúng ta tu hành cần lưu tâm ở điều nầy, thông thường chúng ta
sống với trạng thái vui buồn, nhưng dù vui hay buồn đều do ngoại
duyên tác động vào tâm hồn mà tạo nên. Nói cách khác cuộc sống của
mọi người hoàn toàn bị các pháp sanh diệt xoay vần chi phối. Nhận
chân được điều đó, chúng ta tu hành việc trước nhất phải bắt đầu
giảm bớt những thế lực ảnh hưởng của tác động bên ngoài. Đồng thời
tùy theo mức hạn chế phần tác động đến đâu, thì tâm chúng ta sẽ
tạm bình yên đến đó. Khi bớt tiếp xúc cuộc đời, thì tâm hồn chúng
ta sẽ lắng yên, và lúc đó chúng ta sẽ thấy được trong vui có buồn,
và trong buồn có vui, nó chỉ là các pháp sanh diệt. Biết nó sanh
diệt nên chúng ta không quan tâm, trạng thái vui buồn trần thế
cũng theo đó chấm dứt, lúc đó chúng ta sẽ đạt đến trạng thái ly
sanh. Một khi chúng ta rời bỏ vui buồn sanh diệt, thì chúng ta mới
tìm được nguồn vui vô sanh của đạo, một niềm vui kỳ diệu luân
chuyển trong tâm, không tùy thuộc hoàn cảnh bên ngoài, trạng thái
nầy gọi là hỷ lạc.
-
Tu đến một lúc nào đó chúng ta sẽ được ly sanh hỷ lạc, không còn
bị thế gian tác động. Lúc bấy giờ chúng ta phát hiện được con
người thực của chính mình không phải là bảy đại ngũ uẩn, mà nó là
hỷ lạc, là một cái gì đó có thể tiếp xúc được với hàng tứ thánh.
Cánh cửa của Tứ Thánh đã mở cho chúng ta, do vậy mà tuy là thế
giới phàm phu có đó, nhưng không còn tác động nữa, và người chung
quanh không còn khả năng mang tin vui buồn đến cho chúng ta nữa.
-
Quả thật như vậy, điều nầy đã được ghi chép trong thánh điển A
Hàm, mà qua đó chúng ta thấy:
-
- Vào thời đức Phật còn tại thế, có một vị đại thí chủ đến cúng
dường Đức Phật và thánh chúng, trong lúc đang cúng, người nhà đến
báo tin chồng bà và hai con của bà bị giết chết. Bà nghe tin nầy
vẫn bình tĩnh tiếp tục công việc cúng dường. Động thái nầy, nếu
đứng ở góc độ tình cảm thế gian mà suy xét, thì ai cũng cho rằng
bà nầy quá nhẫn tâm, vì khi nghe đến cái chết của chồng con mà
không mảy may rung động. Tuy nhiên nhìn ở dưới lăng kính của người
đã thực sự thâm nhập thế giới vô sanh hỷ lạc, cuộc đời không còn
khả năng tác động cho hàng Dự Lưu đã bước vào dòng thánh. Do vậy ở
đây tâm hồn vị đại thí chủ nầy tương ưng với đức Phật như thế nào
thì chúng ta không biết, nhưng chắc chắn thế giới hỷ lạc của bà
cảm nhận được phải một sức thu hút rất mạnh, vì thế mà nó có khả
năng cắt đứt sợi dây liên hệ vui buồn của thế gian.
-
Ngày nay, chúng ta là phật tử, quyết tâm theo Phật tu hành, thì
ngày đêm cần phải khắc phục những ảnh hưởng của ngoại duyên, nhờ
chánh quán vui buồn vinh nhục, mà chúng ta không thiết đến nó và
bước vào an trú trong thế giới lầu các bao la của chư Phật. Ngược
lại nếu không quyết tâm tu, cứ chạy rong bên ngoài, thì dù trải
qua trăm kiếp ngàn đời cũng không thể nào hưởng được pháp hỷ lạc.
-
Kế đến trạng thái thứ hai của người chứng quả Tu Ðà Hoàn tức là
tâm đã vượt hơn cuộc đời, cao thượng hơn thế gian, đời không thể
nào tác hại được. Do vậy mà chúng ta vân du giáo hóa khắp vạn nẻo
đường đời mà không lằn tên mũi đạn nào, không có chướng ngại nào
của thế gian có khả năng làm tổn thương tâm hồn. Từ tâm thanh tịnh
lắng yên ở sơ quả, chúng ta luôn tiếp nhận Phật Pháp vào lòng,
sống với lời Phật dạy, với tạng sâu kín của Như Lai và nhận được
pháp thiền duyệt thực và pháp hỷ thực. An trú trong chánh pháp,
chúng ta sẽ không còn bị nóng lạnh, đói khát chi phối, nhưng nhục
thân vẫn còn ăn uống để duy trì thân tứ đại. Chính từ trong thế
giới hiện thực nầy mà ly sanh hỷ lạc, xả niệm thanh tịnh, đó là
Tịnh Ðộ Nhân Gian. Đến đây chúng ta mới thấy Đức Phật xây dựng cho
chư vị Thanh Văn an trú trong tinh độ nhân gian trên bước đường
giải thoát, tìm được sự bình an cho tâm hồn ngay trên cõi đời nầy
là điều chính yếu của Thanh Văn. Đó là những bước căn bản để cho
chúng ta sống trong Tịnh Ðộ nhỏ đầu tiên, nếu chúng ta không thực
hiện nổI, thì còn mong gì đạt được những quả vị khác. Do vậy, nếu
trong cuộc đời tu, chúng ta không nương được bóng mát an lành của
bất cứ Tịnh Ðộ nào mà Phật đã hướng dẫn, trong khi đó chỉ sống
hoàn toàn với trần thế, thì tất nhiên ngàn đời vẫn đứng ngoài cửa
Tịnh Ðộ.
-
Như có lần chúng tôi nói, là người phật tử, hướng đi lúc nào cũng
hướng đến các cảnh tịnh độ của chư Phật, tuy nhiên trước khi nói
và thực hành về Tịnh Ðộ của chư Phật, thì chúng ta phải biết Tịnh
Độ của Bồ Tát. Phải có Tịnh Độ Bồ Tát thì mới tạo tịnh Ðộ của chư
Phật được. Tịnh Độ của Bồ Tát, trong phạm vi bài pháp nầy là muốn
nói đến Bồ Tát Nhân Gian. Đức Phật vì thương chúng sanh nên đã đưa
ra một số mẫu Tịnh Ðộ của Bồ Tát khác Tịnh Ðộ Phật. Thế giới Phật
hoàn toàn an lành, thế giới Bồ Tát là thế giới giáo hóa chúng
sanh, cho nên chúng sanh như thế nào thì Bồ Tát cũng nương theo đó
để giáo hóa. Có ba loại Tịnh Độ Nhân Gian đó là:
-
- Trực Tâm Tịnh Độ
-
- Thâm Tâm tịnh Độ
-
- Bồ Đề Tâm Tịnh Độ
-
1- Trực Tâm Tịnh Độ
-
Khởi điểm đức Phật dạy Bồ Tát xây dựng thế giới an lành bằng trực
tâm. Nếu chúng ta tu tâm ngay thật, không quanh co, luyện tâm cho
đến mức ngay thẳng, đúng đắn hoàn toàn thì Tịnh độ của Bồ Tát hiện
ra. Với tâm tánh chánh trực, chúng ta biết sống thành thật với
lòng mình và với những người chung quanh. Sở dĩ mà trong cõi Ta Bà
đau khổ, là chỉ vì lòng chúng sanh không ngay thẳng, thường lừa
dối lẫn nhau cho đến phá sản tinh thần, không còn ai tin nhau
được. Vì vậy muốn xây dựng người khác, chúng ta phải xây dựng
chính mình trước. Sống đúng với sự thật không gian dối, thì tâm an
lành sẽ tự hiện ra. Bối cảnh tâm linh có trước nghĩa là lòng chúng
ta luôn bình an thể hiện ra việc làm, và cuộc sống hoàn toàn chân
thật, chắc chắn chúng ta không còn gì để lo âu tính toán. Ngược
lại những âm mưu dối trá, càng được che đậy kỷ lưỡng bao nhiều,
thì nó càng sống dậy mãnh liệt trong tâm, khiến chúng ta không thể
nào thanh tịnh được và tất nhiên thế giới an lành cũng vượt khỏi
tầm tay chúng ta. Do vậy, nếu trang nghiêm bằng tâm chân thật,
không dua dối thì chúng ta nên lắng nghe những lời chỉ trích của
người khác mà tự sửa mình. Hay nói khác là chúng ta nên coi người
khác là tấm gương để chúng ta soi. Khi mà chúng ta lấy người làm
tấm gương để soi và tinh tấn cải thiện suy tư và hành động chúng
ta tốt đẹp bao nhiêu, thì bản tánh giác ngộ của chúng ta trong
sáng thêm bấy nhiêu.
-
Trực tâm nầy sẽ hướng dẫn việc làm chúng ta đứng đắn ngay thật, từ
đó chúng ta sẽ tạo niềm tin tưởng cho những người chung quanh, lúc
bấy giờ người khác sẽ đến với chúng ta bằng chân tình. Sống chung
quanh với những người bạn ngay thẳng, chuyện rắc rối không thể xẩy
ra. Do đó chúng ta cần nên nhớ rằng tâm chúng ta như thế nào, thì
sẽ kết thành chúng nhân theo chúng ta như vậy. Người ác xấu không
thể sống chung với người lành, tự nhiên có những mâu thuẩn kỳ lạ
đẩy họ cách xa nhau. Chúng ta thành thật với mình trước và người
chung quanh sẽ thành thật theo. Từ đó thế giới an lành tin yêu sẽ
mở ra cho chính chúng ta và mọi người, chính trong những giờ phút
đó, một bình an của Tịnh Ðộ nhỏ bé trong lòng thế giới Ta Bà bao
la xuất hiện để chúng ta yên ổn tu hành. Từ Trực Tâm thấy chúng ta
và người đúng như thật, dám sống theo sự thật là nền tảng của
người phật tử tiến tu đạo hạnh, còn ngược lại những ai sống cuộc
sống dối trá, thì đời đời vẫn là chúng sanh, và lẽ tất nhiên không
thể nào bước chân đến Trực Tâm Tịnh Độ.
-
2- Thâm Tâm Tịnh Độ
-
Khi thâm tâm đã yên ổn trong trong thế giới thành thật rồi, chúng
ta nhìn ra bên ngoài thấy người khổ đau đói rét khởi tâm niệm giúp
đỡ, bắt đầu mở rộng thế giới an lành cho người khác, chan hòa tình
thương cho mọi người, nghĩa là từ Tịnh Ðộ Trực Tâm tiến lên đến
Tịnh Ðộ Thâm Tâm, đức Phật dạy thâm tâm là Tịnh Ðộ của Bồ Tát,
nhất là Bồ Tát Nhân Gian. Thâm tâm hay đại bi tâm là thế giới tình
thương hình thành sau thế giới của thành thật. Thâm tâm nầy chính
là bổn hoài của đức Phật khi Ngài hiện thân trên cuộc đời nầy.
-
Ðức Phật trãi rộng tình thương đối với mọi người, cho nên Ngài đã
nhận được những cảm tình vô hạn của kiếp người hướng về Ngài, và
coi Ngài là đấng cha lành muôn thuở. Bước theo dấu chân của đức
Phật, chúng ta thực hành để đầu tiên hoa tình thương nở ra trong
tâm chúng ta, và tạo thành một sự thao thức quyết ý cứu vớt tất cả
chúng sanh. Tình thương nầy được thể hiện bằng những hành động,
việc làm cụ thể nhằm nâng cao đời sống người khác ngang bằng với
chúng ta, truyền trao kiến thức cho người khác hiểu như chúng ta,
và mang cho người khác hạnh phúc an lạc như chúng ta. Tình thương
chân thật của chúng ta đối với người khác tác động cho con người
và được đáp lại mối thiện cảm sâu xa, từ đó tạo thành thế giới
thương yêu an lành đó là Tịnh Ðộ của Bồ Tát Nhân Gian. Bồ Tát Nhân
Gian muốn tu hành được thành tựu viên mãn, phải có Tịnh Ðộ của
mình, an trú trong Tịnh Ðộ làm công việc giáo hóa chúng sanh mới
không bị rớt vào đau khổ, có như thế thì cho dù là ở trong trần
lao nhưng những Bồ Tát vẫn có Tịnh Ðộ riêng để sống. Sống với lòng
từ bi, với tình thương chắc chắn chúng ta sẽ tạo được cảnh giới an
vui hòa hợp.
-
Ông Cấp Cô Ðộc hay Trưởng Giả Thiện Ðức trong Kinh Duy Ma tiêu
biểu cho mẫu người có lòng từ bi cao độ. Ông trãi lòng từ bi nuôi
dưỡng tất cả những người nghèo khổ côi cút trong thành Tỳ Da Ly,
cho nên những người có tâm lượng thương người rộng lớn như ông
mang của cải đến chung cùng, hợp tác với ông trong công tác từ
thiện, và những người được ông giúp đỡ xây dựng hết lòng làm việc
để mong đền đáp tình thương đã chan hòa với họ.
-
3- Tâm Bồ Đề Tịnh Độ
-
Một khi đã tạo thành thế giới tình thương rồi, chúng ta phải có
Tịnh Ðộ thứ Ba là Bồ Ðề Tâm Tịnh Độ. Bồ Ðề Tâm là trí giác, là khả
năng nhận thức sáng suốt để hành động đúng đắn có lợi cho mình và
cho người, cho nên Bồ Ðề Tâm rất quan trọng. Bởi vì chỗ nào có Bồ
Ðề Tâm thì chỗ đó có tình thương và ngay thật. Một khi tình thương
phát xuất từ Tâm Bồ Ðề là loại tình thương chân thật, nếu không có
tâm Bồ Ðề hướng dẫn thì chúng ta sẽ bị rơi vào loại tình thương
giả dối hay có giới hạn, vì thương trong tham dục thương để rồi
đau khổ thì không nên thương làm chi.
-
Người tu khởi tâm từ giúp đỡ người đời bằng trí giác, thì trên
bước chân hành đạo của chúng ta mới nở hoa và không bị vấp ngã.
Chúng ta phải có cái nhìn chính xác, tùy theo căn tánh hành nghiệp
mà dìu dắt chúng sanh cùng nhau tiến bước trên con đường Vô Thượng
Chánh Ðẳng Giác. Một khi thực hành thành tựu đến giai đoạn nầy,
con người sẽ tin tưởng đến với chúng ta và đem cả tài sản và thân
mạng giao cho chúng ta. Do vậy nếu mà chúng ta không thành tựu,
không sáng suốt, lẽ tất nhiên không biết cách xử dụng, không biết
hướng dẫn thì thật là khổ tâm. Vì thế mà sự nghiệp càng lớn, thì
đòi hỏi người lãnh đạo càng phải sáng suốt. Chúng ta sống một mình
muốn làm gì cũng đựợc, nhưng đã là người lãnh đạo quần chúng, thì
chúng ta phải làm thế nào cho con người phát triển an vui hạnh
phúc, cho nên vấn đề yêu cầu trí thức trở thành quan trọng. Chúng
ta có thương người và ngay thẳng đến đâu chăng nữa nhưng không đủ
sáng suốt cũng thất bại, làm cho người đau khổ. Cho nên người đời
thường nói:
-
- Ôn cố tri tân
-
Do vậy mà chúng ta cũng nên nhìn lại Thành Tỳ Da Ly, sở dĩ mà
phát triển giàu mạnh, là nhờ còn người khéo kết hợp những người
tri thức và điều động những tầng lớp khác cùng chung xây dựng Bồ
Tát Đạo, tu Bồ Ðề Tâm, và những người cùng có chí hướng thượng sẽ
đến với Bồ Tát Nhân Gian để tìm cầu phát triển trí tuệ. Khi Bồ Ðề
tâm tăng trưởng hay trí giác phát triển, thì chúng ta sẽ biết rõ
được nguyên tố cấu tạo nên con người và thế giới con người, từ đó
chúng ta có thể vận dụng những công thức nầy để thăng hoa đời sống
cho cuộc đời và xã hội. Từ những yếu tố quan trọng nầy, chúng ta
có thể nói:
-
- Nơi nào có Bồ Ðề Tâm hay có trí tuệ, nơi đó phát triển có đời
sống cao là mẫu Tịnh Ðộ của Bồ Tát Nhân Gian, hay đó chính là cảnh
Tịnh Độ Nhân Gian.
-
Như vậy nếu chúng ta muốn xây dựng Tịnh Ðộ giống Phật Thích Ca Mâu
Ni, thì chúng ta phải xây dựng ba cõi Tịnh Ðộ căn bản của Bồ Tát
trên nhân gian nghĩa là xây dựng xã hội của lòng ngay thật, của
tình thương, của hiểu biết sống chung với nhau bằng hiểu biết,
tình thương, ngay thật sẽ dễ dàng hài hòa an vui. Vì thế Phật dạy
ba tâm:
-
- Trực Tâm,
-
- Thâm Thâm.
-
- Bồ Ðề Tâm
-
Kết thành tịnh độ Nhân Gian của Bồ Tát Nhân Gian và chính Ngài
cũng đã xử dụng ba tâm nầy để hình thành một Tam Bảo trên thế nhân
gian ngay từ thời thuyết pháp đầu tiên tại Vườn Lộc Uyển. Thật vậy
Bồ Ðề Tâm là tâm sáng suốt hay trí tuệ mà đức Phật là người tiêu
biểu. Bằng tâm sáng suốt đức Phật thấy rõ tâm trạng, và nhu cầu
từng người, cho nên Ngài mới có thể thỏa mãn, và giải quyết được
tất cả mọi khó khăn, và điều động để mọi việc đều được thành tựu
tốt đẹp và hình thành nên Tịnh Ðộ ngay ở Lộc Uyển, nhưng Thanh Văn
theo Phật không thấy được thế giới an lành đang bao phủ, mà chỉ
thấy cùng sống chung đi khất thực với Phật.
-
Trang nghiêm bằng tâm sáng suốt rồi đức Phật mở rộng thế giới tình
thương cho mọi người. Truyền trao Bồ Ðề Tâm cho họ hay nói khác
giúp con người nhận thức đúng như thật để làm lợi ích cho đời nên
pháp nói ra là thậm thâm. Và những người đệ tử theo Phật an trú
trong pháp sống ngay thật dịu hòa với nhau. Như vậy mô hình Tam
Bảo lập giáo khai tông ở Lộc Uyển, chính là thế giới an lành, hay
Tịnh Độ Nhân Gian đầu tiên mà đức Phật đã xây dựng.
-
Thành tựu ba tâm nầy, đức Phật dạy chúng ta phải tiếp tục phát
triển Tịnh Ðộ Nhân Gian bằng cách kết hợp ba tâm với sáu pháp Ba
La Mật, bởi vì nếu không đặt căn bản trên ba tâm mà tu sáu pháp Ba
La Mật thì tất nhiên không thành pháp của Bồ Tát, do vậy mà ba tâm
và sáu pháp Ba La Mật không được tách rời. Tuy nhiên việc vận dụng
ba tâm và sáu pháp Ba La Mật là vấn đề không đơn giản. Như chúng
ta đã biết, ba tâm và sáu pháp Ba La Mật để riêng rất dễ, nhưng
kết hợp ba tâm và sáu pháp Ba La Mật để ứng dụng từng chỗ khác
nhau thì rất là khó, bởi vì nó đòi hỏi chúng ta phải biết cách
tổng hợp để đi đến sáng tạo riêng của chúng ta mới tu đạo Bồ Tát
được.
-
Ví như đồng một lúc địch tấn công bốn phía chúng ta đều đỡ được.
Không kết hợp mà tu ba tâm Sáu Pháp Ba La Mật rời rạc sẽ không kết
quả. Ví dụ như Bố Thí chung không được phải kết hợp bố thí với ba
tâm. Bởi vì chúng ta bố thí trên căn bản tình thương, thì phẩm vật
lớn hay nhỏ, nhiều hay ít không quan trọng, nhưng quan trọng ở
lòng chúng ta rộng hay hẹp. Nếu chúng ta có thực đại bi tâm thì
muối cũng thành ngọt. Tuy nhiên bố thí trên căn bản đại bi nhưng
thiếu bồ đề tâm, hay tri giác sẽ dễ bị người lợi dụng lòng tốt của
chúng ta. Vì vậy xử dụng tiền của bố thí cũng phải kết hợp với Tâm
Bồ Ðề hay trí khôn chỉ đạo mới được, nếu không bố thí tràn lan thì
cho dù là của kho cũng cho không đủ. Nghĩa là chúng ta phải thấy
đúng đối tượng và đúng yêu cầu mới cho, mới giúp. Thực hành theo
giáo pháp của Ðức Phật là thân miệng ý, lời nói hành động đều đặt
trên sự chỉ đạo của trí tuệ.
-
Quả thật, Ðức Phật Ngài đã xử dụng trí tuệ rọi vào cuộc sống chính
xác, để thấy rõ yêu cầu thế nào và đáp ứng nhằm mục tiêu phát
triển mọi người lên, không phải giúp đỡ để cho họ trở thành người
ăn hại. Vì thế thâm tâm kết hợp ngược lại Bồ Ðề Tâm xem coi có
đáng cho không, và cho người đó để họ làm gì đó mới là vấn đề quan
trọng. Chẳng hạn như chúng ta cho người ăn bát cơm, trong niệm tâm
lúc đó họ no dạ, nhưng niệm thứ nhì sau đó họ đói thì sẽ ra sao.
Hay nói khác Bồ Tát dùng Bồ Ðề Tâm, xoáy sâu vào nghiệp của người
được bố thí để giải quyết vấn đề nghiệp mới là chính, do vậy chúng
ta không giải quyết được nghiệp mà cứ cho ăn là chuyện vô ích,
giống như Kinh Pháp Hoa dạy nuôi một người cho đầy đủ đến 80 tuổi
thành La Hán cũng không bằng một người nghe một chữ kinh của Pháp
Hoa thoát kiếp sanh tử luân hồi.
-
Chúng ta không dùng bốn tâm để xóa nghiệp người khác mà bố thí làm
cho lòng tham và nghiệp của người tăng trưởng thêm, làm cho con
người càng sung sướng càng tham lam. Cho nên càng giúp đở con
người càng tham, đến độ chúng ta không có khả năng che chở được,
bấy giờ họ sẽ quay ngược lại chống chúng ta. Như vậy chúng ta đã
tạo điều kiện cho họ chống lại chúng ta mà cứ lầm tưởng là chúng
ta dìu dắt họ, khác gì chúng ta vào đời phá hại chúng sanh, không
phải giúp đỡ chúng sanh, mà là dìu dắt nhau đi xuống địa ngục.
-
Ðức Phật dùng trí giác để bố thí, cho nên người theo Phật nghe
pháp lần xoá nghiệp của họ, cuộc sống vui lên họ tự phát triển dù
đức Phật không cho mà đó thực là cho rất nhiều của cải châu báu.
Ðiển hình như bà ăn mày cắt tóc mua dầu, cúng Phật thoát được kiếp
ăn mày và trở thành Vương Phi vì đúng như pháp cúng dường. Trên
thực tế bà ăn mày đã cúng đức Phật nhưng mười phương chư Phật nhìn
thấy chính Ðức Phật Thích Ca đã bố thí cho bà ăn mày nhờ đó mà bà
mới chuyển kiếp được như vậy.
-
Nói tóm lại, Tịnh Độ Nhân Gian là loại tịnh độ được xây dựng và
thực hành bởi những Bồ Tát trong nhân gian. Bồ Tát Nhân Gian chính
là chúng ta, là người phật tử biết giáo lý và thực hành giáo lý
giải thoát, trong cách thực hành nầy luôn luôn lúc nào cũng xử
dụng tâm Bồ Ðề và Thâm Tâm thực hành bố thí chưa đủ, mà phải vận
dụng thêm trực tâm là lòng ngay thẳng, bình đẳng tuyệt đối. Không
có trực Tâm hay Như Lai Tâm, và bình đẳng tâm thì chúng ta tu suốt
đời cũng không thành Phật. Vì vậy mà Tịnh Danh Bồ Tát nói với Bồ
Tát Văn Thù rằng:
-
- Ngài coi đức Phật Vô Nan Thắng và bà ăn mày đồng nhau không
khác, tuy có cho người nầy, không cho người kia, nhưng trên bình
đẳng tâm không có phân biệt.
-
Mắt thường không thấy bình đẳng, nhưng dưới mắt đức Phật, qua đó
cho chúng ta thấy Duy Ma bình đẳng. Ðối với các vị Quốc Vương Bà
La Môn, thương gia và tất cả những người khác, cư sĩ Duy Ma đối xử
khác nhau, làm trăm việc không giống nhau, nhưng tất cả đều hoàn
toàn thực hành pháp bình đẳng.
-
Khi chúng ta biết kết hợp ba tâm vào việc bố thí, tác động hổ
tương cho nhau, người khác thọ được pháp bố thí của chúng ta, thì
họ cũng tự phát triển ba tâm hay nói khác hơn là lấy tâm chúng ta
để vào tâm người khác, tác động cho người khác phát triển như tâm
chúng ta là chúng ta đã hành bố thí của Bồ Tát. Như vậy, nếu có
lúc ông trưởng giả Cấp Cô Ðộc đã thể hiện được pháp bố thí trên
dạng ba tâm, và những người nghèo đói do ông nuôi dưỡng giúp đỡ
cũng đều phát triển ba tâm, và trở thành những người tài giỏi thay
thế ông quản lý sự nghiệp trong quá khứ, thì ngày nay trên cõi đời
nầy, là người phật tử tu học đạo giải thoát, chúng ta cũng có thể
làm được như vậy. Và tất cả mọi người ai cũng làm được như vậy,
thì chúng ta đã trao cho mọi người trên cuộc đời nầy một nội dung
Tịnh Độ Nhân Gian đầy hoa thơm cỏ lạ.
--o0o--
|
|