|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
NHÂN QỦA, LUÂN HỒI, NGHIỆP BÁO
-
& TỔ ẤM VIỆT
NAM
- --o0o--
-
-
Trong kho tàng Cổ Tích Việt
Nam
kể truyện Tấm Cám được Bụt hiện xuống cứu người lành: "Tấm, Cám
là hai chị em cùng cha khác mẹ. Tấm là con bà vợ cả; còn Cám,
con bà vợ lẻ. Bố của chúng không may mất sớm. Sau đó mẹ Tấm cũng
mất. Nó ở với Cám và dì ghẻ là mẹ của Cám. Bà dì ghẻ ác độc hành
hạ Tấm đủ điều oan khuất. Tấm đã bao phen chìm nổi luân hồi, khi
là hình thái trái thị, khi là hình thái chim vàng anh... Bụt
thấy thương tâm hiện ra cứu độ cho Tấm bé bỏng hiền lành. Ở hiền
gặp lành, sau Tấm hưởng phúc được hoàng tử cưới làm vợ."
-
Hẳn ta chưa quên tích Truyện Mai An Tiêm buôn bán với người
ngoại quốc. Truyện Cây Nêu và Tấm Áo Cà Sa, Truyện Trầu Cau với
sự luân hồi thác sinh thành cây, đá v.v... Tất cả đều nói lên sự
liên lạc văn hóa Ấn - Việt. Ðược biết: dưới thời Sĩ Nhiếp cai
trị nước ta từ năm 182 đến năm 226, thì văn hóa Trung Hoa, hay
nói khác là Nho giáo và Lão giáo, lúc ấy đã chính thức công khai
truyền bá ở Giao Châu; hệ thống giáo lý của hai đạo này không có
các tích kể trên, qua các truyền thuyết đời Hùng Vương. Với
những mẩu truyện trên, ta thấy: người Việt đã tiếp nhận giáo lý
Nhân Quả, Luân Hồi và Nghiệp Báo của đạo Phật một cách hết sức
tự nhiên, không do dự, như tiếp nhận sự phát minh của chính mình
vậy.
-
... Kể từ đời Hùng Vương mở nước, đóng đô ở đất Phong Châu,
người Việt đã sớm ý thức: chỉ có sự thuần nhất mới có thể tồn
tại để phát triển và tiến hóa. Dù rằng buổi ban đầu sự sinh hoạt
của xã hội Văn Lang hãy còn theo lề lối bộ lạc, nhưng sự thuần
nhất trong ý chí đoàn kết đã được thể hiện một cách trọn vẹn để
vượt thẳng các ttrở ngại và duy trì cho sự tồn tục của giống
nòi.
-
Thật vậy, vì ý thức Tự Chủ của dân tộc Việt trải qua hơn một
ngàn năm bị người Hán thống trị đất nước, từng làm đau khổ giống
nòi ta, nên người Việt đã sớm thức tỉnh nhận rõ dã tâm thôn tính
của họ nên đã cương quyết tử thủ, ôm chặt lấy những gì thuộc
truyền thống của tổ tiên, để bảo trì nếp sống, phong hóa, ngôn
ngữ sáng, bén, lối y phục, cách ăn ở, xử thế; tâm hồn thì bao
dung rộng mở... điển hình như việc sử dụng chữ Nho mà người Việt
đọc khác người Hoa, và đã sáng chế ra một thứ chữ riêng, thứ chữ
Nôm. Chữ Nôm là một lối chữ mượn ở chữ Nho rồi ghép thêm một chữ
làm thanh phù mà tạo thành, đọc theo tiếng mẹ đẻ (tiếng Việt).
Ðó là óc sáng tạo đặc thù của người Việt đối kháng lại với mọi
áp lực nguy hiểm của người phương Bắc, chỉ muốn đồng hóa dân tộc
ta.
-
Với lối sống đặc thù của người Việt khác với lối sống của người
Hán... Người Việt suy nghĩ, nói năng và hành động nhất nhất đều
y cứ vào đại tiền đề: lấy "Tổ ấm" làm căn bản chung, nên không
bao giờ người Việt chấp nhận có sự tương tranh vì ý hệ hoặc mưu
cầu danh lợi cho riêng cá nhân hay một tập thể nào, rồi gây bè
kết đảng hòng tiêu diệt lẫn nhau. Những ai đi ngược lại truyền
thống ấy đều coi là nghịch lý, nhất định bị đồng bào chối bỏ,
coi họ như những người dị chủng.
-
Chính quan niệm "Tổ ấm" được coi như linh hồn của Tổ quốc mà
người Việt còn tồn tại đến ngày nay, không bị đồng hóa. Cá nhân
làm việc để phục vụ Tổ ấm vì quan niệm quốc gia là đại Tổ ấm.
Người Việt biết trọng phép nước, nhưng không bao giờ chấp nhận
bất cứ nhân vật hay một tập thể nào coi đó là "khuôn vàng thước
ngọc" lúc nào cũng đúng, cũng hay, cũng giải quyết được hết mọi
vấn đề rắc rối qua mọi không - thời gian và mọi hoàn cảnh khác
nhau. Vì vậy, hễ chỗ nào, nơi nào có người Việt chúng tôi muốn
nói những người Việt chân chính sinh tụ thì chỗ ấy, nơi ấy,
không có vấn đề nhân danh, hoặc nịnh trên nạt dưới, bất hiếu,
bất trung, bất nhân, bất nghĩa... Dòng Bách Việt sống êm đềm,
thương yêu nhau, không gây thù, trả oán, tranh dành xâu xé, chà
đạp lẫn nhau... nhằm đạt cho được cái danh cái lợi hão huyền,
đến nỗi hãm hại nhau; nhưng đôi khi cần chống kẻ ngoại xâm để
bảo toàn cương giới quốc gia thì dù phải hy sinh tính mệnh cũng
không từ nan, một ý chí kiêu hùng của nòi giống Việt.
-
Với những tấm gương sáng mà muôn đời con cháu vua Hùng vẫn tự
hào:
-
* Năm 542; vị khai quốc LÝ NAM ÐẾ (LÝ BÍ) đánh đuổi tên thái thú
Tiêu Tư (nhà Lương) và bè lũ phải bỏ trị sở chạy về nước; lập
nên nước Vạn Xuân, mơở đầu nền Tự Chủ ở nước ta.
-
* Năm 938, NGÔ VƯƠNG QUYỀN đánh ta quân Nam Hán trên sông Bạch
Ðằng, giết thái tử Hoàng Thao tại trận, khiến Hán chủ đành nuốt
hận thu quân về Tàu.
-
* Năm 1077, vị anh hùng dân tộc LÝ THƯỜNG KIỆT đại thắng quân
nhà Tống trên sông Nhự Nguyệt, khiến lão tướng Quách Quỳ phải
phủ phục đầu hàng.
-
* Năm 1258, vua TRẦN THÁI TÔNG và Hưng Ðạo đại vương TRẦN QUỐC
TUẤN chiến thắng quân Mông Cổ ở mặt trận Ðông Bộ Ðầu, giải phóng
thủ đô Thăng Long.
-
* Năm 1285, vua TRÂN NHÂN TÔNG và Quốc công tiết chế chống lĩnh
quân đội kháng chiến chống quân Nguyên TRẦN QUỐC TUẤN, đã đánh
tan giặc Mông Cổ, chém đầu Toa Ðô ở Vạn Kiếp.
-
* Năm 1288, vua TRẦN NHÂN TÔNG và Thượng phụ TRẦN QUỐC TUẤN đại
phá quân Nguyên trên sông Bạch Ðằng, bắt sống các tướng Ô Mã
Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ... khiến tên tổng chỉ huy Thoát Hoan
khiếp đảm phải vộ vã rút quân về nước.
-
* Năm 1427, Bình Ðịnh vương LÊ LỢI và mưu sĩ NGUYỄN TRÃI, sau
mười năm kháng chiến chống giặc Minh và đã toàn thắng, nối lại
nền tự chủ của nước nhà.
-
* Năm 1789, Bắc Bình vương NGUYỄN HUỆ, chiến thắng quân Thanh ở
trận Ðống Ða (gần Hà Nội ngày nay) khiến cho bại tướng Tôn Sĩ
Nghị phải "vứt bỏ tất cả sắc thư, ấn tín để lo thoát thân," sau
bảy ngày đêm mới đến được trại Nam Quan.
-
... Vì danh dự của Tổ ấm mà người Việt không bao giờ hành động
một cách cẩu. Và quan niệm hạnh phúc là do Tổ ấm để lại cho con
cháu muôn đời về sau:
-
"Người trồng cây bách người chơi
-
Ta trồng cây đức để đời mai sau."
-
Do đó mà trong nhiều đời con cháu phải hương đăng thờ tự trân
trọng giữ gìn cái "Chí lớn" của tổ tiên:
-
"Cây xanh thì lá cũng xanh
-
Cha mẹ hiền lành để đức cho con."
-
Vì quan niệm Tổ ấm mà người Việt lúc nào cũng tỉnh táo, bình
tĩnh, và cương quyết trong mọi hành động trong ý niệm "âm phù
dương trợ," lúc nào cũng coi như có ông bà, tổ tiên theo dõi,
chỉ dẫn, vì nghĩ rằng: "Sự tử như sự sinh" coi khi chết cũng như
lúc còn sống, không khác.
-
Ðạo đức cương yếu của người Việt chính là quan niệm "phúc đức Tổ
ấm" vậy (1).
-
Thuyết "Tam cương Ngũ thường" của Nho giáo chỉ chiếm một chỗ rất
nhỏ trong diệu lý "phúc đức Tổ ấm" mà thôi. Thật vậy, người Việt
trước khi hành động bất cứ một việc gì, còn phải đắn đo xem có
đụng chạm đến Tổ ấm và hại đến ai không đã. Quan niệm đạo đức
này đã liên kết được toàn dân trong một sự thuần nhất, không cần
phải "dân tứ tước ngũ" (2) gây bè kết đảng rồi khinh khi nhau,
làm suy yếu tiềm năng quốc gia. Ðấy là ta chưa nói đến hậu quả
thảm khốc chạy theo hình thức chủ nghĩa, duy lạc hưởng thụ, kỳ
thị đẳng cấp... thiếu hẳn căn bản để sống một cuộc sống cho ra
sống, nghĩa là sống tốt đẹp hơn (3).
-
Nói tóm lại, các cá nhân đều coi mình như là một thành phần cộng
đồng của Tổ ấm. Phúc đức xuất phát tự Tổ ấm rồi lại về Tổ ấm. Tổ
ấm (nhỏ) là gia đình và (lớn) là quốc gia, đều được tôn trọng.
Cảnh thái bình, hạnh phúc, giải thoát là những mục tiêu thiết
thực đã được người Việt xưa cũng như nay chấp nhận và thực hiện
sự lao tâm khổ tứ của người Việt cốt để củng cố cho thân mệnh,
tuệ mệnh, của cá nhân cũng như của Tổ ấm, là nhằm đạt tới Giác
Ngộ Giải thoát, chứ không mang tâm ích kỷ để thôn tính, tiêu
diệt nhau.
-
Bây giờ ta thử xét qua một vài đặc tính văn hóa dân tộc và văn
hóa Phật giáo, có thể nói: hai nền văn hóa tuy hai mà một tự
bản thân của nó đã có những nét hòa đồng mầu nhiệm một cách kỳ
diệu:
-
VỀ THỰC TẠI CUỘC SỐNG
-
Người Việt sống tôn sùng thờ cúng Tổ tiên, mà Phật giáo cũng
triệt để kính trọng, và còn đặt ra những nghi lễ thích hợp với
nhu cầu dân tộc, như lễ "Nhập Liệm, Qui Lăng," hay lễ Vu Lan Báo
Hiếu v.v... Tục ngữ Việt Nam có câu: "Tháng bảy ngày rằm xá tội
vong nhân..."
-
* Dân tộc Việt
Nam
thường ưa chuộng "nâu, lam" thì hiện nay các tăng sĩ Phật giáo
đều giữ được sắc thái riêng biệt ấy hơn ai hết. Trong bài Trường
Ca Mẹ Việt Nam, phần mở đầu, nhạc sĩ Phạm Duy đã viết:
-
Mẹ Việt Nam
-
không son không phấnẹ Việt Nam
-
chân lấm tay bùn
-
Mẹ Việt Nam
-
không mang nhung gấm
-
Mẹ Việt Nam
-
mang tấm nâu sồng...
-
* Dân tộc ta giàu đức tính tiết kiệm, ít có ham muốn quá đáng,
nên hay "hưởng thụ bình quân," như đời Lê Phân Ðiền chẳng hạn.
Thì trong Phật giáo dạy thực hành "bình đẳng, thiểu dục, vị
tha..."
-
* Tinh thần "tự lực cánh sinh" của dân tộc ta thật phong phú, về
ý hệ, người Việt tự hào đã có bốn ngàn năm văn hiến; và về võ
công thì qua các đời: Ngô, Lý, Trần, Lê, Nguyễn ông cha ta đã
từng chiến thắng oanh liệt các kẻ thù xám lăng dưới các thời:
Hán, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, và như lịch sử đã chứng minh:
dân tộc Việt sống hiên ngang kiêu hùng bất khuất. Xét trong đạo
Phật có thuyết "Ðại hùng, đại lực."
-
VỀ MẶT SÁNG TÁC
-
Trong suốt dọc dài lịch sử (có thể nói) hầu hết những sáng tác
phẩm văn học nghệ thuật do người Việt viết, hoặc phóng tác,
không nhiều thì ít, đều đã chịu sự ảnh hưởng của thuyết nhân
quả, luân hồi, nghiệp báo của Ðạo Phật.
-
Thật vậy, người Việt
Nam,
từ lúc nằm nôi từng đã được nghe các bà mẹ kể cho nghe những câu
ca dao, tục ngữ:
-
"Ở hiền thì lại gặp lành
-
Ở ác gặp dữ tan tành ra tro."
-
(hay tội dành vào thân).
-
"Sống đục sao bằng thác trong.
-
Ba vuông sánh bảy tròn,
-
Ðời cha nhân đức đời con sang giàu."
-
"Làm việc phi pháp sự ác đến ngay."
-
v.v...
-
Cùng trong những mẩu chuyện mang một nội dung tương tự, như: Tấm
Cám, Truyền Kỳ Mạn Lục, Quan Âm Thị Kính, Nhị Ðộ Mai, Phan Trần,
Ðoạn Trường Tân Thanh, v.v...
-
Chẳng hạn, Truyện Tấm Cám, Bụt hiện ra để cứu giúp người lành.
Truyền Kỳ Mạn Lục, với lý nhân quả nghiệp báo được tác giả viện
dẫn bàng bạc trong khắp các truyện dĩ nhiên trong đó tác giả có
đề cập luân lý Khổng Mạnh nhằm giải thích những tình huống éo
le như người có hạnh mà nghèo, kẻ bất nhân lại khá, bằng lối
sống, "đầu thai chuyển kiếp," như truyện Nghiệp Oán Của Ðào Thị,
truyện Gã Trà Ðồng Giáng Sinh...
-
Ta hãy nghe Nguyễn Dữ kể về câu chuyện Giã Trà Ðồng:
-
... "Có hạnh mà nghèo, hoặc bởi tội khiên kiến trước: bất nhân
mà khá, hẳn là phúc thiện đời xưa. Tuy rằng khó biết sâu xa,
nhưng thực không sai tơ tóc. Cho nên không nên lập luận một bề
và xem trời một mặt (xem Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữ bản
dịch Trúc Khê.)
-
Dưới đây là những câu trích trong các truyện Quan Âm Thị Kính.
Nhị Ðộ Mai, Phan Trần. Ðoạn Trường Tân Thanh:
-
"Ðoái trông thế sự nực cười
-
Như đem trò rối mà chơi khác gì."
-
(QATK, câu 335-336)
-
... "Cho nên mến cửa Từ Bi
-
Dám xin nhờ đức Tăng, Ni mở lòng."
-
(QATK, câu 343-344)
-
Truyện Nhị Ðộ Mai:
-
"Trời nào phụ kẻ trung trinh
-
Dầu vương nạn ấy, ắt dành phúc kia
-
Danh thơm muôn kiếp còn ghi
-
Ðể gương trong sạch, tạc bia dưới đời."
-
(Nh. D.M. câu 7-10)
-
Truyện Phan Trần:
-
"Xa xa phảng phất hành lang
-
Ðức Quan Âm đã giáng sinh bao giờ."
-
(Ph. T. câu 391-392)
-
"Sư còn lân mẫn chúng sinh
-
Xin thương đến tấm lòng thành mấy nao."
-
(Ph. T. câu 401-402)
-
Ðoạn Trường Tân Thanh hay Truyện Kiều với những triết lý về
nghiệp báo:
-
"Kiếp này nợ trả chưa xong
-
Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau."
-
(ÐTTT. câu 1019-1020)
-
"Ðã mang lấy nghiệp vào thân
-
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
-
Thiện căn ở tại lòng ta
-
Chữ tâm ca với bằng ba chữ tài..."
-
(ÐTTT, câu 3249-3252)
-
Những truyện ngụ ngôn, có tính cách luân lý và nhân quả thường
quấn quýt lấy nhau. Kéo Cày Trả Nợ, Âm Ðức, Hai Vợ Chồng Con
Chiền Chiện, Ông Sư, Chẽo Cờ và Vẹt, Phù Du và Ðóm Ðóm, v.v...
-
Và còn biết bao nhiêu đặc tính khác của Phật giáo rất phù hợp
với dân tộc tính, dân tộc tình, dân tộc trí, đã làm nảy nở trong
những nếp sống hằng hữu để vươn lên cuộc sống trong sáng, cao
cả, toàn mỹ. Ðó là những nét điển hình để chứng minh rằng văn
hóa Phật giáo và văn hóa dân tộc có những mối duyên gặp gỡ rất
đồng nhất tế nhị. Có thể nói hai nền văn hóa tuy hai mà một.
-
... Không chỉ riêng nước Việt Nam mà đối với bất cứ một nước nào
khi đạo Phật truyền tới cũng đều được các nhóm dân tộc hoan hỷ
long trọng tiếp nhận, không nơi nào và chẳng lúc nào bị ruồng
bỏ, bởi vì đạo Phật là đạo Từ Bi, lấy tình thương làm động lực
phát triển lòng Từ, lấy trí tuệ làm mục tiêu nhắm tới Giác Ngộ
Giải Thoát Con Người.
-
Một triết lý cao đẹp như thế ở xã hội nào, thời gian hay hoàn
cảnh nào mà không thích hợp, vĩnh viễn.
-
Ðược như vậy là vì đạo Phật có một tôn chỉ rất rộng rãi: tôn
trọng những đặc tính của mỗi dân tộc, mà chỉ cần khai thác phần
NHÂN TÍNH để hỗ tương, với mục đích dìu dắt con người đạt tới
đích Chân Thiện Mỹ; và khi đạo Phật đến dân tộc nào cũng vẫn
kính trọng nếp sống cổ truyền, những phong tục sẵn có... Chỉ vì
tinh thần giáo lý Giác Ngộ Giải Thoát Tự Chủ của đạo Phật không
bao giờ trái với sự việc nào, bất cứ ở đâu, hạng người nào, khi
họ biết hướng đến chân lý.
-
ÐẠO PHẬT VÀ DÒNG SỬ VIỆT vẫn mãi mãi sống đẹp và tươi sáng!
-
Nước Việt Nam dù trải trên mười thế kỷ chung đụng với văn hóa
Trung Hoa nhưng khi nguồn văn hóa GIÁC NGỘ GIẢI THOÁT và TỰ CHỦ
của đạo Phật truyền vào Việt Nam thì người Việt đã hân hoan lấy
đó làm ngọn đuốc thắp sáng cho cuộc cách mạng giải phóng giống
nòi khỏi ách thống trị của người phương Bắc, giành lại quyền tự
chủ, độc lập cho Tổ quốc mến yêu.
-
Việt Nam là nơi hội tụ các tăng tài khắp bốn phương, nên tinh
hoa đạo Phật Việt luôn luôn đượm sắc thái đặc biệt, trong những
thời gian hoàn cảnh đặc biệt. Ðạo Phật đối với dân tộc Việt Nam
được coi như thứ vũ khí tinh thần hiệu nghiệm, để vừa đối kháng
với nền văn hóa Trung Hoa, vừa thâu thái những tinh hoa của nền
văn hóa đó rồi dung hóa cả hai nền văn hóa Ấn Hoa hợp với tinh
thần "Lối sống" của người Việt hình thành một nền văn hóa Việt
Nam sống động trong tâm tư mỗi người và trong cuộc sống dân tộc.
Phật giáo đã kích động tinh thần tự chủ của người Việt. Và, từ
đó đưa đến đòi hỏi một nền tự chủ dân tộc. Khi một nền văn hóa
đã có cá tính khác biệt với nền văn hóa của đế quốc thì công
việc đấu tranh giành độc lập chỉ còn là công việc thời gian mà
thôi. Chính vì vậy mà trước kia, trong lịch sử đạo Phật Việt,
các vị thiền sư đã cùng với dân tộc Việt Nam phấn đấu cho một
nền Tự Chủ vẻ vang của dân tộc.
-
Hòa Thượng Thích Ðức Nhuận
-
-
Chú Thích:
-
(1) Cách nay khoảng 30 năm, tôi nhớ, trên những chuyến đò ngược
xuôi, người xẩm mù lòa chuyên đi hát rong và thường mang theo
mình cây đàn nhị, hoặc chiếc trống bỏi, có khi một ống sáo, đi
kèm bên một em bé dẫn đường, tay cầm chậu thau để xin sự "bố
thí" của đồng bào thập phương; anh ta vừa kéo nhị (hoặc đánh
trống, thổi sáo) và nghêu ngao hát những câu (giọng khàn khàn):
-
"Phúc đức Tổ ấm, bà ơi!
-
Làm duyên làm phúc cho tôi với nào."
-
Cùng có khi người ta nói: "Phúc đức tại mẫu, bà ơi", hay "ông
ơi," "anh ơi," "chị ơi," "cô ơi..."
-
Hai chữ "phúc đức" đã là Nguồn Sông tràn trề hy vọng mà lẽ nhân
quả luân hồi tội phúc báo ứng của Ðạo Phật đã gieo vào tiềm thức
sâu thẳm của giống nòi Lạc Việt, để mỗi ngày vun bồi cho cây
"đức" thêm xum xuê, tươi tốt.
-
(2) Trong thơ NGUYỄN CÔNG TRỨ có câu:
-
"Dân hữu tứ, sĩ chi vi tiên
-
Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt."
-
(3) Chúng tôi đề nghị độc giả nên đọc thêm cuốn "Ðạo Phật Với
Con Người" của Hòa Thượng Tâm Châu.
- --o0o--
|
|