|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Vũ Trụ
Quan
-
Quan Niệm Của Tôn Giáo
-
-
Đạo Học
-
-
Triết học
-
-
Khoa học và của đạo Phật.
-
Từ
khai thiên lập địa cho đến ngày nay, khi trí thức con người đã
triễn khai, nhân đứng trước vũ trụ rộng lớn, nào trăng sáng, núi
cao, biẻn rộng , sông dài ,mây bay ,gió cuốn ,hoa nở ,chim
ca..Tất cả hiện tượng ấy đã là những thắc mắc của con người muôn
thuở.
-
-
Vũ trụ là gì?
-
-
Con người do đâu mà có?
-
Những câu hỏi ấy luôn luôn ám ảnh tâm thức ta nó bắt ta phải suy
nghĩ , và đã có biết bao tư tưởng gia,đạo sĩ,triết nhân ,đông
cũng như tây ,đã để ra rất nhiều thì giờ ,tâm lực ,viết nên
những bộ sách vĩ đại ,nhằm giải đáp những thắc mắc củacon người
.Nhưng ..tất cả chỉ là những mớ lýthuyết còn đọng lại trên trang
giấy. Vì , triết lýtức là đặt vấn đề để rồi truy vấn nhũng dự
kiện của vấn đề ;hơn là giải quyết vấn đề , nếu không muốn nói
là không tưởng (!)
-
Vậy ,muốn nghiên cứu khái quát về vấn đề quan trọng -vấn đề tìm
hiểu vũ trụ và con người -trước hết ta nên du hành qua các địa
hạt tôn giáo ,đạo học ,triết học,khoa học,và nhất là đạo Phật
,để khách quan tìm hiểu ,nhận định và so sánh những điểm dị đồng
…rồi nhờ đó ,ta có thể nắm vững vấn đề và giải quyết vấn đề một
cách chính xác hơn .
-
Trong các lãnh vực Tôn Giáo, đạo học, triết học , khoa học,…lẽ
tất nhiên, mỗi bên có những lối đáp khác nhau .Điều cần là ta
nhìn ,hiểu nnó với tâm trạng của kẻ lủ hành đang trên đường kiếm
tìm chân ly sự thật cuộc đời này.
-
* Tôn Giáo
-
Trên thế giới có rất nhiều tôn giáo. Nhưng, ở đây chỉ bàn sơ
luợc mấy đạo giáo ,đại diện cho mỗi khuynh hướng khác nhau
.Trước hết ,ta tìm hiểu về Đa thần giáo ,bởi vì tôn giáo này
cũng có tính cách liên hệ mật thiết trong việc suy tìm một vũ
trụ quan sinh động .
-
Đa Thần Giáo (Polythéisme)
-
Từ
sơ sử thời đại, khi con người đã biết sống quâquần
với nhau trong một khung cảnh bình thản ,chất phác và hồn nhiên
,nghĩa là con người còn sống trong trạng thái man rợ "ăn lông ỏ
lổ";nhân đứng trước cảnh hùng vĩ của trời đất ,nào trăng sáng,
gío reo ,sấm chớp ,mưa táp bảo bùng …thì sinh ra khiếp sợ ,vì tự
cảm thấy mình bé nhỏ , so với vũ trụ bao la !…Tư tưởng tín
ngưỡng thần linh bắt nguồn
-
có
từ đấy. Con người
trong thời phôi thay ấy, đầu ớc họ hảy còn trống rông
sự nhận thức rất thô sơ; chưa biết phải tìm phương thức nào để
chống lại với thiên nhiên ,với thú dữ …Do đó,họ đành chìịu
khuất phục .Bất cứ cái gì thuộc về nhiên giới cũng mang một ý
nghĩa thần lình sáng tạo và chi phối cả .Núi ,Sông ,Cây ,Cỏ
,Đất,Nước đều có thần linh cai quản .Họ đã thờ thần Sông ,,thần
Núi,thần Thổ địaSự thờ cúng không ngoài việc cầu phúc tiêu tai
;nếu chẳng may có sự rủi ro xảy đến ,,họ tín đã có thần linh che
chở ,độ trì .Tục lệ này hiện nay vẫn còn thịnh hành ở khắp dân
gian .Ngoài ra ,những ngày tết trung thu (15-8AD tết Đoan Ngũ
(hay Đoan Ngọ ),5-5Al và các ngày sóc,Vọng, hối, Huyền ,cũng
được người ta duy trì một cách thản nhiên. Các tệ đoan khác ,như
xin quẻ ,xem bói ,đốt vàng mẵvv..cũng đều chịu ảnh hưởng của tín
ngưỡng Đa thần giáo cả .Đấy phải chăng là do thành kiến xưa còn
rớt lại ,hay tại tim óc người ta hãy còn đúc đặc bởi một tệ đoan
ám ảnh .Những người theo lối tín ngưỡng này,phần đông là dân tộc
thiểu số, miền rừng núi .
-
Thấy sao tin vậy. Đấy là trạng thái tâm lý của lớp người hãy
còn mang nặng đầu óc tín ngưỡng thần thoại dị đoan. Nhưng ,khi
trí óc con người đã nẩy nở ,thì quan niệm về thần linh cũng được
xét lại ,theo một chiều hướng mới .Dưới đây ta hãy sơ lược xét
về quan niệm ấy .
-
Nhất thần giáo (monothéisme)
-
Trình độ trí thức con người lúc này đã cách biệt hẳn trước nên
sự tín ngưỡng cũng xoay chiều .Họ giảm lòng tin đối với các vị
thần ,để đặt niềm tin vào một vị Thượng Đế xa vời ,do óc tưởng
tượng của con người sáng tạo ra.
-
A. Cơ Đốc Giáo (Christianisme)
-
Đạo này được thành lập đến nay đã gần XX thế kỷ ,sau khi Jésus
ra đời ,và do sự cải cách một tôn giáo cổ Do Thái .
-
Chiếu theo "Cựu Ườc và Tân Ước",người ta tìm thấy ở giáo lý của
giáo hội Cơ Đốc :"Thuở sơ khai ,khi vũ trụ còn là một khoảng
không mênh mông mờ mịt !…nhờ có trí tuệ ,tài năng và quyền phép
(sẵn có ) của Chúa Trời ;trong bảy ngày đêm Ngài đã tạo thành
bầu trời ,các vì tinh tú ,trái đất ,núi ,sông ,cây cỏ,người và
vật ;mà lần đầu tiên con người có mặt trên trái đất là ông Adam
và bà Eva ,kết cục hai người lấy nhau .Sau vì phạm trái cấm ,nên
bị chúa phạt ,từ đấy về sau con cháu đời đời bị buộc vào "tội tổ
tông".*Những người theo Cơ Đốc giáo đều tin tưởng ở ba ngôi :
-
Đức Chúa Cha :Thượng Đế(Diêu);
-
Chúa Con (Jésus);
-
Chúa Thánh Thần (Saint Esprit)
-
Và
,theo họ nhận định thì,"Thiên Chúa là đấng Tự hữu ".Nghĩa la
,không có ai sanh ra Chúa cả .Vì ,Chúa là đấng thiêng liêng vô
hình vô ảnh ,phép tắc vô cùng !Nếu ai biết thờ phục Chúa vâng
lời Chúa ,làm những điều nhân đức …đương nhiên được Chúa nhìn
nhận ban phúc lành cho ,và được Chúa nhìn nhận ban phúc lành cho
,và được Chúa đưa lên thiên đường ;vĩnh viễn không bao giờ không
bao giờ phải sa đọa địa ngục ".Như trên ,cho ta thấy ,lập luận
của Cơ Đốc giáo về nguyên lại vũ trụ này là do bàn tay Thiên
Chúa tạo dựng mà có …
-
B. Bà La Môn Giáo (Brahmanisme)
-
Tôn giáo này thoát thai từ một tôn giáo tối cổ của AᮠĐộ
là Rig Véda,có cách đây khoảng bốn nghìn năm ,do người Aryen chủ
lập .
-
Căn cứ trong thánh thư Védas*thì sự tín ngưỡng duy nhất của tôn
giáo này là thờ thần BRAHMA=Phạm Thiên (linh hồn của vũ trụ ),vị
thần hằng có đời đời .Brahma là căn thể của vũ trụ,hết thảy vạn
tật đều do Brahma sáng tạo .Vì Brahma là vô thủy vô chung .Đấy
là quan niệm lúc ban sơ ,nhưng qua nhiều cải cách ,và hiện nay
,thánh thư mỗi ngày một tạo dựng thêm ,do đó ý niệm của con
người (ngày nay)về một "đấng tối cao"không còn giống như trước
nữa .Trong bộ Tế Nghi Thư (Brahma na)cho rằng ,đấng Chủ Tể sáng
tạo vũ trụ thế giới này là thần PRAJPATI.Và xét trên nguyên lý
thì Prajapati với Brahma là một thể ,đồng nhất tính .
-
Triết lý hình nhi thượng của thuyết "Prajapati"trong Thánh thư
Brahmana,cho ta thấy :Prajapati từ chổ vô hình biến thành hữu
hình .Hay nói khác ,từ trừu tượng trở thành hiện thực ,nghĩa là
từ cái Có (trong cái không nó có một động tính;rồi từ cái động
tính ấy nảy sinh hiện thực là thời gian và vạn vật )Nhưng trong
bộ A?hĩa Thư (Upanishad)lại thường đề cập đến thần ATMAN,vì
Atman là hiện thể của thần tối cao Brahma.Atmanlà hơi thở là
sinh khí có bàng bạc trong không gian và cả trong vật thể nữa
.Con người là một tiểu linh tính nằm trong cái đại linh tính của
Brahma .Thuyết lý này đã đưa Brahma lại gần với con người ,đưa
ngay vào trong con người ,tức là đặt con người bình đẳng đấng
Brahma .*Những tín đồtôn giáo này đều tin rằng :vũ trụ lúc ban
sơ -xin nhấn mạnh :lúc ban sơ -là do một vị (tức đã nhân cách
hóa :Personnification )sáng tạo ra .Về phương diện tu dưỡng thì
thánh thư dạy con người phải xả thánh Thiện ,để sau khi chết
(sẽ) được thần đón về thiên cung ,hưởng cuộc đời hạnh phúc ,sống
trong cảnh huy hoàng lộng lẩy ;bằng ngược lại ,nếu bình sinh
không chịu tu phúc ,không tin theo lời dạy của vị giáo chủ thì
vẫn phải đày xuống hỏa ngục ,chịu muôn nghìn thống khổ ,và vĩnh
kiếp khó mà thoát ra!… ,?bsp;
-
Giáo chủ đạo Hồi làMohamet(570-632),lúc thiếu thời ông sống cuộc
đời bình thường như mọi người khác ,chưa có dấu hiệu nào tỏ ralà
người xuất chúng , hơn đời ;sau trở nên một đại điền chủ nhờ
cuộc kết hôn với một người góa phụ …
-
đã
bỏ ra mười lăm năm để tìm một con đường cải cách tôn giáo và xã
hội cho dân Arabe.Năm 630Tlkể như đánh dấu năm đầu của kỷ nguyên
Hồi giáo .Kinh Coran coi như một thánh kinh thiên chúa thu nhỏ
,trong đó gần như y nguyên những tên Thánh ,tên Đất .Kèm theo
phần phụ lục lời dạy của đấng Tiên Tri Mohanet (cũng gọi là
Muhamad)được dùng ở các quốc gia Hồi giáo như bộ luật hành
chính, giảng luân lý vv… gồm 11 chương (surate).
-
Hồi giáo là một tổng hợp Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo .Chính
Mohanetcũng không giấu điều này ,và yự xưng mình là đấng tiên
tri và gọi các giáo chủ khác (như Jésus) cũng chỉ là đấng tiên
tri như mình thôi.
-
Hồi giáo thịnh hành ở Trung Á ,Tây Á,Bắc Phi ,Thỗ Nhĩ Kỳ và miền
Tây bắc Trung Hoa (Mahométisme Islamisme), HVTĐ.
-
Hơn 300 năm sau ,Sa hoàng Piotr muốn thành lập cho nước Nga một
tôn giáo ,liền tổng hợp một lần nữa Hồi giáo và Thiên Chúa giáo
,tự xưng là Chính thống giáo -Orthodoxie -để tránh phải mang cái
tên có tính cách kỳ thị như Protestant:kẻ chối bỏ (Tin Lành
)Evanggéliques hay Judaime Phảnthệ giáo (Do Thái giáo).Ong cho
rằng mình đã chọn giữa hai thái cực :một đằng được lấy nhiều nợ
mà kiêng có rượu (Hồi giáo)và đằng kia có nhiều rượu mà không có
đàn bà (Thiên Chúa giáo).
-
Trong 5 điều răn của đạo Islam (tên mới tự xưng của tín đồ đạo
Hồi ở VN )thì có hai điều giống như đạo Phật : 1 .Cấm uống rượu
,triệt để hơn PG.2.Bố thí ,không cần phải hô hào ,huy đông mà đó
là một "luật ".Đối với tất cả tín đồ ,có phương tiện sinh sống
dư giả ,thì đến mỗi cuối năm phải trích ít nhất một phẩm năm
(1/5)số lợi tức trong năm đem ra phân phát cho người nghèo khó
nhất của cộng đồng mình cư trú .Trong một trăm năm ,Islam đã
truyền bá đạo bằng bạo lực. Mohamet thua trận và chết năm 632.
-
Người Thiên Chúa giáo và Hồi giáo đã nuôi một mối hận thù khôn
nguôi ,khi mà tám đội viễn chinh Thập tự quân :Croisade liên
tiếp đánh chiếm các nước Arabe từ thế kỷ XI tới thế kỷ XIII,rồi
các nước Á Châu đi xâm lược thuộc địa Arabe ở thế kỷ XIX.
-
Nói tóm lại,từ ngành ngôn ngữ học người ta biết rằng tiếng
Sanskrit là nguồn gốc của các ngôn ngữ Á Châu để rút ra kết luận
người Aryen ,một bộ tộc thời cổ mà địa bàn sinh sống là phần lớn
nước Ấn Độ, dưới chân rặng Caucase và rặng Hymalaya,là tổ của
giống dân da trắngngày nay.
-
Tiếng Do Thái, tiếng Arabe thuộc họ A鮠A굠-Inđoeuropéenne
cùng phả hệ Inđo européenne Sanskrit.
-
Đạo Bà La Môn :
Ăn
chay, thường cúng tế.
-
Đạo Do Thái: năng cúng tế,ăn chay,kiêng sát sinh ,không được làm
nghề bán thịt, nghề đồ tể.
-
Do
Thái giáo Thái là tổ phụ Moise,Abraham,tổ của Jésus.Theo thứ tự
niên đại ,Bà La Môn giáo,Do Thái giáo ,Thiên Chúa giáo ,Hồi
giáo,Chính Thống giáo ,Anh Quốc giáo,(Anlicean),Tin Lành đều thờ
chung một Thượng Đế (hay chúa Trời) nhưng danh xưng có khác:Bà
La Môn :Brahma;Do Thái giáo :Jehovah;Thiên Chúa giáo:Dieu ;Hồi
giáo:Allah;Anh Quốc giáo;God.
-
Nhận xét chung của một số nhà Thần Học Arabe và Tây phương :giáo
lý gần như giống nhau ,chưng tỏ Đấng Cứu Thếchỉ có Một (đạo nào
cũng thế )Và cũng của các nhà thần học ở cuối thế Kỷ XX :Tất cả
các Tôn giáo lớn rồi ra sẽ như những mạch suối cùng chảy vào một
biển lớn ;chỉ một tôn giáo nào đó có đạo đức làm chuẩn mực
,nghĩa là bao hàm những điểm chính của tất cả các "đạo "và giáo
lý mang nội dung tư tưởng triết học hợp với con người thời đại
hơn (Phật giáo)
-
Đứng về phương diện luân lý ,tâm lý để nhận xét ,thì các tôn
giáo trên đây vẫn có sự lợi ích trong việc khuyên người ,dạy
người làm lành tránh dữ ,những ảnh hưởng tốt cho xã hội hiện tại
và mai sau .Tuy nhiên ,đối với Bản Thể Luận,thuyết thần tạo
-thần sinh ra vũ trụ ,vạn vật đương còn mơ hồ và huyền bí lắm.!
-
Đạo Học
-
Đạo Khổng (Confucianisme)
-
Những đạo học có danh tiếng ở Á Đông ,truyền bá đi các nước lân
cận ,trước hết, ta phải kể đến đạo Khổng .Đức Khổng phu tử ,vị
hiền triết Trung Hoa ,sinh năm 551- 47 9 TTL,thời xuân thu
.Chiến Quốc ,dưới triều đại nhà Chu .Ngài đã từng nhiều tháng
năm luân lạc …mà không một nơi nào trọng dụng ,sau đành quay về
nước Lỗ dạy học và soạn sách ,học trò theo học có đến 3000người
.Trong việc soạn thảo sách ,Ngài lấy "Quan Thư cổ xưa để chỉnh
đốn lại làm bộ kinh Thư,lấy thi ca các đời trước đặt lại thành
kinh Thi ,san định kinh Le,kinh Nhạc và làm kinh Xuân Thu là
lịch sử nước Lổ"Người ta bảo Khổng tử chỉ là người "thuật nhi
bất tác"Chính ngày cũng thừa nhận điều đó .
-
Đạo Khổng thành lập không phải do Ngài -mà phầ lớn .Ngài chỉ là
người thu nhập những gì tinh tuynhất của Tiên Nho ;rồi cải cách
những tư tưởng ấy làm thành một triết lý ,luân lý thực dụng cho
xã hội nhân sinh .Khởi điểm của đạo Khổng là vấn đề quyết định
sự tương quan giữa thực tại với tư tưởng để hòa đồng cái tiểu
ngã người đời vào cái đại ngã của vũ trụ -lý tưởng thái hóa
.Trước hết, Khổng Tử nhìn vũ trụ là một "Thể vô cùng"tức là
trong mỗi vật hửu hạn đều có nằm sẳn cái thái cực vô hạn (lý
thái cực ),nó bàng bạc chu lưu khắp cả …(Dịch hửu thái cực ,thị
sinh lưỡng nghi ;lưỡng nghi sinh tứ tượng ;tứ tượng sinh bát
quái, biến hóa vô cùng ."
-
-
Lý thái cực (Impersonnel) mà cổ nhân đã bàn trong kinh Dịch ,gồm
64quẻ, 384 hào,do trí quan sát,kinh nghiệm tìm ra từ đời Phục Hy
.Thần Nông để thuyết mình sự tương quan giữa vũ trụ và vạn vật
trong trường thiên diễn vô cùng phức tạp …song qui định lại ,gồm
có ngũ hành "tương sinh ,tương khắc ,tuần tự sinh thành ra "Bốn
tượng" **, Tâm quẻ:
-
-
Càn : Trời.
-
-
Khảm : Nước, mặt trăng.
-
-
Cấn : Núi đá.
-
-
Chấn : Sấm.
-
-
Tốn : Gió ,mưa.
-
-
Ly : Lửa,mặt trời.
-
-
Khôn : Đất.
-
-
Đoài: kim khí và do sự phối hợp của A⭬
Dương, (lưỡng nguyên ) làm thành tượng hình bằng những nét gạch
liền và đứt (tổng hợp ).mỗi quẻ tượng hình cho một trạng thái
tương quan nối liền giữa Trời ,Đất,Người.
-
"Dịch", nghĩa là động, biến dịch, vì khởi thủy có sự vật là có
động .Động ,là lẽ Sống của vũ trụ .với luận lý này ,đạo Nhokhông
có ý mong chiến thắng tạo hóa mà chỉ cốt dịch hóa nó,theo luật
tiến hóa chung =Ngô đạo nhất quan chi"(luận ngữ)
-
Trong những kinh sách Nho gia tuy có nói đến chữ "thiên ",song
không hẳn có nghĩa chỉ Ông Trời=Thiên đạo chi vị tính ,xuất tinh
chi vị đạo "Nghĩa là ,"cái khuynh hướng tiềm tàng trong trời đất
gọi là Tính,noi theo cái tính ấy mà hành động thì gọi là Đạo
",Nhân tính với thiên tính là một .Thiên đạo là luật điều khiển
sự tiến hóa của xã hội và con người…
-
Đạo Khổng xây nền móng trênmột nhân sinh quanbắt đầu bằng chử
"Thành "Sống trong một xã hội loạn ly ,bất công ,muốn cải tạo nó
tất phải có một đường lối (chính trị)hợp thời ,nên Khổng Tử đã
đặt ra "Tam Cương ",Ngũ Thường"** để ổn định tình thế .
-
Ở
sách Lể Ký có ghi lời đức Khổng Tử so sánh trạng thái xã hội
Trung Hoa gồm: -"một xã hội đại đồng" (Tam hoàng: Phục Hy ,Thần
Nông Hoàng Đế) và -"một xã hội tiểu khang" (ngũ đế Vũ ,Thang,Văn
Vũ ,Thánh Vương ,Chu Công).Ngài ra đời mang hoài bão cải hóa
những đảo điên của thời đại "Xuân Thu"loạn lạc. Đứng về phương
diện luân lý ,đạo Khổng khuyên con người :Tu thân,tề gia,trị
quốc,bình thiên hạ ,vì thân có tu ,gia mới tề ,quốc mới trị
,thiên hạ mới thái bình ,Đó là những yếu lý nhằm ổn định cuộc
sống xã hội con người muôn thuở.
-
Đạo Lão (Taoisme)
-
Người sáng lập Đạo là đức Lão Tử (LạTzu),tên Đam ,sinh năm 604
TTL.Trong thời niên thiếu ,Lão Tử chưa viết sách để truyền bá tư
tưởng của mình ;mãi về sau ,Ngài mới viết cuốn Đạo Đức Kinh (gồm
81 chương có hơn ngàn lời )*,Học thuyết Lão Tử rõ ràng pha mầu
sắc yếm thế -lý tưởng Đạo Lão là lý tưởng siêu nhiên -nhìn cuộc
đời như một cuộc bất đắc dĩ (…)Đối với uyên nguyên của sự vật
chỉ (được)coi như một khối "tinh vân"mà Lão Tủ mệnh danh là "Đạo
"(Bản thể),nó vô hình ,vô hạn ,ở ngoài không -thời gian ,muôn
nghìn hiện tượng cũng do "Đạo "biến hóa ra.Bất ky vật gì trong
trời đất điều có cái Đạo ấy ở trong và cùng với Đạo là một thể
=Hửu vật hổn thành ,tiên thiên địa sanh "(25).
-
Nếu có phải gọi vật tiên thiên ấy là" Đạo ",đó chỉ sự miễn cưỡng
mà thôi. Theo Lão Tử thì ,"vật tiên thiên "sinh ra vũ trụ vạn
vật chỉ là một vật không tên = Ngô bất tri kỳ danh,tự chi viết
"Đạo "(25)
-
Đạo Lão nhìn sự vật trong cởi đời chỉ như là tuồng ảo hóa ,không
khác giòng nước chảy từ nội giới ra ngoại giới ,hết lớp này đến
lớp kia "liên miên bất tuyệt !".Có đấy rồi không đấy .Về phương
diện tu dưỡng, đạo Lão khởi lập một thuyết gọi là "Vô Vi",tức là
hành vi của vô ngã ,của thân thể ,căn bản tính .Cái hành vi ấy
gọi là Đức;có ý khuyên người ta trở về với đạo đức ,với trạng
thái thuở ban sơ cho tâm hồn được vắng lặng trong sạch ,nghĩa là
tách biệt giữa ngã và vô ngã ,để sống cuộc sống thanh cao ,có ý
nghĩa hơn .Trên con đường tìm sự thật ,đạo Lão đã hướng dẩn ta
đến cái Đệp và cái Thực ,đó là đạo đức và chân lý .
-
* Triết Học
-
Ở
thời kỳ sơ khai ,những tư tưởng lạ đã sớm lởn vởn trong đầu óc
người ta ,với bao cảnh tượng kỳ bí của thiên nhiên ,muôn vật đổi
dời ;tất cả hiện tượng phôi bày ra ấy ,chẳng biết có tự bao giờ
.
-
-
"Tâm" ư !"Vật "ư ! hay "Thiên nhiên" ư !
-
-
Nguồn gốc của vũ trụ là gi?
-
Đấy là những vấn đề đã làm chảy rất nhiều mực của các bậc hiền
triết xưa cũng như nay !
-
Ngay từ thượng cổ thời đại ,các triết gia đã lần lượt xuất hiện
và đã lập ra những hệ thống tư tưởng triết học không giống nhau
;đã một thời làm mưa làm gió tại các lục địa Trung Hoa - Ấn Độ,
Cận Đông và Địa Trung Hải. Khoảng bốn nghìn năm về trước ,ở Đông
phương ,nhất là Ấn Độ, quan niệnm về triết học đã có. Lịch sử
triết học Ấn Độ, trước thời đức Phật ,nguồn tư tưởng triết lý đã
có hàm chứa trong các thánh thư Védas.Về sau càng được khai
triển thêm qua các bộ thánh thư Brahmana,Aranyaka,Upanishad….Bộ
Brahmana(Tế Nghi Thư) gồm những bài thánh ca tán dương công đức
và sự nghiệp vĩ đại của thần chúa tể
-
Brahma(nguyên lý sáng tạo vũ trụ), và ghi những truyện về thần
thoại cùng chú giải các điển tích cao đẹp các bài thánh ca. Bộ
Aranyaka(Sấm Lâm Thư)là ghi chép những triết lý huyền nhiệm và
các phép bí truyền của đạo …Bộ Upanishad(Áo Nghĩa Thư),nhằm giải
thích những thánh ngữ và yếu chỉ của đạo. Upanishad còn có tên
là thánh thư Vedanta,tức thâu tóm những đoạn văn chính yếu
trong hai bộ Tế Nghi Thư và Sấm Lâm Thư .Bộ Vedanta được liệt
vào loại "thánh thư mặc khải ".
-
Những thuyết lý về vũ trụ vạn vật của các hệ phái sau này mỗi
ngày càng đi xa với bản chất nguyên thủy của nó .chẳng hạn
,trước kia người ta thừa nhận Brahma là nguồn gốc của vũ trụ
,thì nay lại cho vũ trụ hình thành là do các yếu tố Đất, Nước ,
Gió, Lửa, Không khí…Phái khác nói :do các Tính Có -Đại Linh Tính
"phát sanh ra vật chất ,ra tính cách,ra nghiệp lực ,…rồi các
tính ấy kết hợp tạo thành muôn vật ,lần lần vượt lên chỗ trừu
tượng ;có những phái xướng ra Không Gian Luận ,Thời Gian Luận
,Phương Hướng Luận ….bao nhiêu tư tưởng trào ra ,làm hổn loạn
một thời!
-
Kế
đó là đạo Phật ra đời, đã tổng hợp các luồng tư tưởng Aᮍ
Độ ,tạo thành một triết lý sống(philosophie de la vie),lấy Con
Người (Nhân Bản)làm mực thước để giải quyết mọi cấn đề về cả nội
giới lẫn sự kiện khách quan thế giới bên ngoài .Con người là tất
cả .Vì,có con người cho nên mọi vấn đề -tức khuôn mẫu sống ở đời
-mới cần phải đặt ra .Con người là một tiểu vũ trụ nằm trong cái
đại vũ trụ .Thế giới này càng mở rộng chừng nào là do tầm hiểu
biết của con người ,mà có.Và do vậy rõ ràng đạo Phật là một
triết học siêu triết học .Vào khoảng đầu kỷ nguyên Tây Lịch ,nền
triết học Đông phương ,bắt nguồn từ tư tưởng đạo Phật ,đã thấm
nhập vào đại lục địa Trung Hoa ,để cùng với các trào tư tưởng
Khổng -Lão …tạo thành một nền triết học đại đồng phồn thịnh
,không chỉ dành riêng cho Ấn Độ -Trung Hoa*còn cho cả Á Đông và
toàn thể thế giới nửa .
-
Nhìn về phía trời Tây, triết học được bắt rể từ Hy Lạp, chuyển
dịch qua Đại Tây Dương và cho ta thấy ,hai nguyên tắc chính để
cắt nghĩa hiện tượng vũ trụ ,tức vấn đề nhận thức và hành động
.Sự hiểu biết của con người là do trí tuệ :rồi từ trí tuệ dẩn
đến hành động (thực nghiệm).Nhưng,hàng động như thế nào đấy lại
là một việc khác (xin sẽ bàn ở phần khoa học )
-
Những triết gia Tây phương đầu tiên ,ta phải kể đến
PYTHAGORE,một nhà toán học kiêm triết học ở thế kỷ VI -TTL ,là
người đã sáng tạo ra danh từ Triết học "Philosophie "Từ thế kỷ
thứ VÌI đến thế kỷ thứ IV-TTLlà thời kỳ phôi thaicủa nền triết
học Tây phương ,những triết gia sau đây đã cùng nhau đi tìm
nguyên nhân tối sơ của vũ trụ ;với THALÈS (640 -547) bảo là
"nước",nhưng HÉRACLITE (576-480) lại nói là "Lửa"còn ANAXIMÈNE
(48 0-TTL)thì cho là "không khí",phái triết học Tự Nhiên Luận
thiên về việc quan sát ,giải thích vũ trụ hiện tượng như
PYTHAGORE(580-500),lấy những con số để hình dung vũ trụ
.ZÉNON(IV-TTL)nhìn nhận khởi thủy vũ trụ là do Những Gì Im Lìm
"Tĩnh"nhgĩa là không chuyển động ,không biến đổi ;những con số
,những sự hoạt động đều chỉ là *những bề ngoài không có trong
thực tại *.
-
EMPÉDOCLE(IV -TTL)thì thì công nhận trong vũ trụ cả thảy có 6
yếu tố :trong đó có chất :nước,lửa,đất,khí trời và 2 lý trừu
tượng là tình yêu và ghen ghét. LEUCIPPE và DÉMOCRITE(hai triết
nhân này sinh đồng thời TTL V thế kỷ )với thuyết Nguyên Tử Luân
,cho rằng vũ trụ là do những hạt nhỏ (nguyên tử)kết cấu thành…
-
Như trên ,cho ta thấy ,mỗi phái luận giải khác nhau ,tựu trung
chân lý chưa có một "thuyết"tương quan !Cái không khí hoài nghi
đến cực độ đã bao trùm khắp cả…Lúc ấy nhà hiền triết SOCRATE
(470-339 TTL)đứng ra cách mạng tư tưởng đương thời ,đưa triết
học Hy Lạp trở về con đường "nội tỉnh"=connais toi toi
meme".Nghĩa là ,"đưa triết học con đường thuần trí thức trở về
con đường hành động ,con đường chân lý ,đạo đức ,lấy Người làm
đối tượng nghiên cứu …"Tiếp nối sự nghiệp vĩ đại của SOCRATE,có
PLATON( 428-3 47 TTL)và ARISTOTE(3 8 4-322 TTL),tuy mỗi người
mỗi khuynh hứớng ,nhưng vẫn dung hợp với nhau trên cùng mụch
đích chung ,đó là :đi tìm cái Chân và Thiện ,tạo cho triết học
Hy Lạp một thời long thịnh .
-
Vào thời trung cỗ ,triết học Tây phương như bị chìm ngập trong
những kinh điển học qui ,lấy tư tưởng Sáng Thế làm tâm điểm
,thời kỳ của "đức Tin"và tình cảm ru ngủ!…Nhưng qua thời cận đại
DESCARTES(1596-1656)đã nêu cao lý trí để phản động lại tình cảm
ru ngủ thời xưa.O⮧
đã dùng "phương pháp luận "để chứng minh cho "sự vật nào"mà quan
niệm rõ ràng ,đều là chân lý ,O⮧
coi vũ trụ là một dây nhân quả vô cùng tận .Qua,DESCARTES,người
ta đều nhận thấy "Tâm",Vật song hành ".là khởi điểm cho hai phái
thuần lý do HÉGEL(1770-1831)và HAMELIN(1856-1907)dẫn đạo ,và
phái thực nghiệm do Auguste COMTE(1798-1857)và
SPENER(1820-1903)…
-
Tới đây thì triết học đã đánh dấu một lối rẽ rõ rệt :*Vấn đề Duy
Tâm và Duy Vật; Chủ Quan với Khách Quan v.v..
-
Phái Duy Tâm cực đoan ,có BERKELY(1685-1753),Emmauel
KANT(1724-1804), HÉGEL (1770-1831)…Nhà triết học Đức(Kant)là một
trong những người thuộc phái quyết đoán tin tưởng vũ trụ cần
phải có sự hiện diện của Trời ,mọi vật mới an bài .Rồi suy diễn
:tin có Trời ,ta có thể hy vọng hưởng một cuộc đời bất diệt đầy
hạnh phúc -Vì ,Trời làchủ động chứ không thể là thụ động .Còn
,HÉGEL lại cho rằng "Tất cả những gì thực tại đều Duy Lý =Tout
ce qui réel est rationnel".Những phái Duy Vật cực tả, như
DÉMOCRITE(VTTL), FEUERBACH(1775-1833),MOLESCHOTT(1820-1897),
Karl MARX(1818-18830 và ENGELS(1820-1897), với một phong trào
tích cực phản siêu hình ,theo phái này thì ,sự hiện hửu của Trời
trong vũ trụ là điều không bao giờ có được. Những yếu điểm của
chủ nghĩa Duy Vật là đưa vật chất lên hàng vạn năng,.Đấy là
nguyên nhân khởi thủy của mọi vậ⮠động
vũ trụvà xã hội .Về phương diện nhận thức khách quan ,phái này
dùng Biện Chứng pháp (gọi là biện chứng pháp duy vật )làm công
cụ khám phá của loài người ;đồng thời khích động phong trào giai
cấp đấu tranh làm luật tắc vận hành của lịch sử .Do đó ,thuyết
duy Vật chủ nghĩa thường lấy sự tranh đấu làm mụch đích cho mọi
lẽ sống .*
-
Trên đây mới chỉ trình bày những nét đại cương của nền triết học
Tây phương cũng đã hé mở cho ta thấy sự phân định thành những hệ
thống Duy Tâm ,Duy Vật …Nhưng từ thế kỷ XIX-XX.thì triết học
thực nghiệm ,chỉ còn lại siêu hình biện chứng pháp,luận lý.v.v..
-
Vấn đề tìm hiểu vũ trụ và con người ,qua các Tôn giáo ,đạo học
,triết học,.như đã trình bày .đấy chỉ mới là những tia sáng .Rút
lại ,vấn đề đạt ra vẫn y nguyên là một vấn đề nan giải .
-
*
Tìm ở Tôn giáo -Tôn giáo bị thần thánh hóa.
-
*
Tìm ở Đạo học -Đạo học giải thích với những lý tưởng siêu hình
,khó hiểu!
-
*
Tìm ở Triết học -Triết học có những hệ phái ,và mỗi hệ phái giải
thích một khác; hơn nữa ,triết học đang trong vòng tìm kiếm ,suy
luật nên dể bị ràng buộc trong những phạm trù học qui ,càng khó
hiểu hơn .
-
Là
những kẻ đi tìm đường ,càng đi sâu vào khu rừng Tôn giáo ,triết
học ta càng lạc lối thêm !Vẫn biết ,không phải hễ đi tìm đường
là tới đích ,phải lượng sức mình ,và phải có sự tuyển trạch của
lý trí ,nếu không …(thưa bạn )-hãy coi chừng !
-
Trí xét đoán là mực thước cho tất cả ."Phải làm như con ong hút
mật ,đừng làm theo con bướm giỡn hoa ",Ta không thể ỷ lại hay
nhắm mắt tin theo bất cứ cái gì,ngoài sự nhận thức khách quan
,phù hợp với lẽ phải ,tạo thành hạnh phúc cho mình và cho mọi
người chung quanh .
-
Giờ đây,chúng ta hãy du hành qua địa hạt Khoa học và đạo Phật để
thử tìm ở đấy lối thoát ,một sự trả lời cho những nghi vấn kia .
-
* KHOA HỌC
-
Lịch sử tiến hóa nhân loại ,từ thế kỷ XVÌI,khoa học coi như toàn
thắng về mọi phương diện ;ngoài những phát minh kỷ thuật, khoa
học cũng đã len lỏi sang hệ tư tưởng để giải thích vũ trụ ,bằng
những phương pháp mầu nhiệm chắc chắn hơn ,hoàn hảo hơn .Khởi
nguyên tinh thần khoa học tiến bộ không phải trong dây lát hay
một ngày tự giác ngộ nên .Một vài đặc tính của tư tưởng khoa học
đã nẩy mẩm từ những thời kỳ xa xôi .Nói đến khoa học ,người
tiên phong tiêu biểu cho khoa học thực nghiệm là Francis
BACON(1561-1626) ,ông đưa ra những nhận thức mới về sự vật là
nhận thức bằng cách xác định lý do ,qua"Tam Biểu Luân":1..biểu
có mặt (table de présence),trong biểu có mặt ,ta ghi những hiện
tượng nào luôn luôn có mặt với nhau ; 2..biểu vắng mặt (table d
absence),trong biểu vắng mặt ,ta ghi những hiện tượng nào bao
giờ cũng vắng mặt một lúc ; 3..biểu thứ tự (table de
degré),trong biểu thứ tự ,ta ghi những hiện tượng nào cũng biến
đổi một lúc .Đồng thời với Bacon ,bên phía trời Tây ,còn có
DESCARTES (1596-1650)là người đã khai sáng cho một trào lưu tư
tưởng mới-Tư tưởng Khoa học -;sau nhiều năm suy tưởng ,ông đã
lập được bốn qui tắc căn bản cho phương pháp khoa học ngày nay
.Bốn qui tắc đó là : 1…Trước hết phải chứng minh một sự vật nào
đó ,sau mới nhận nó là sự thật . 2…Hãy chia sự vật ra từng phần
đơn giản ,càng nhiều càng hay ,để dể dàng cho sự quan sát,giải
quyết . 3…Sau khi đã xem xét ,nghiên cứu từng vật đơn giản ,phải
thu thập lại cho thứ tự để tìm hiểu những sự vật khó hiểu hơn
vốn tự nó không biểu thị (Qui tắc này cũng gọi là qui tắc tổng
hợp ).4 .…. Cuối cùng ,kiểm điểm lại và tổng hợp những sự việc
mà mình đã nhận định ,để khỏi bỏ sót một vật gì .Qua 4 qui .tắc
trên ,vai trò của Descartes nổi bật hẳn lên như một vần sao sáng
của bầu trời khoa học cận đại mà ngày nay người ta phải nhìn
nhận ông như một cái mốc ,đánh dấu bước rẽ của nhân loại ,không
chỉ về phương diện nhận thức mà cả về phương diện hành động nửa
.Sau,Auguste COMTE(1798-1857),đã dựa vào thực tại ,để xướng
thuyết "Thực Nghiệm Chủ Nghĩa"*.Và qua những biến đổi ,kinh
nghiệm từng giai đoạn ,trí óc con người mỗi ngày thêm mở mang
,đã giúp rất nhiều cho sự khám phá những kỳ bí của thiên nhiên
,NEWTON(1642-1727)chỉ nhìn quả táo rơi mà khám phá ra luật Vũ
Trụ Hấp Dẫn Lực,biết được :sự vận hành của hành tinh và sao chổi
chung quanh mặt trời ,xoay tròn của địa trục ,sự lên xuống của
nước thủy triều …Còn MALUS(1775-18120 ) đã tìm ra "sự phân cực
ánh sáng ",và De VERRIER(1811-1877)thì tìm ra sao Neptune tức
Hải Vương Tinh .Và trước đó nhiều thế kỷ , ARCHMÈDE(287-212
TTL)đã phát minh ra nguyên lý tỷ trọng của các vật thể
.Christophe COLOMB (1451-1506)và Fernand de
MAGELLAN(1480-1521)*là những người đã cương quyết đi vòng quanh
thế giới để tìm hình thể trái đất .VOLTA(1775-1827)và
GALVANI(1737-1798)nghiên cứu các hiện tượng thuộc về điện
tử,tìm ra hai luồng điện dương cực và âm cực .FRANKLIN (174
4-1829),DARWIN(1809-1882)chủ trương sinh Vật Biến Hóa ,nghĩa là
mọi vật chuyển biến đổi dời .LAVOISIER(1743 -179),nhà hóa học
đầu tiên đã tuyên bố ;"Trong vũ trụ không có gì tự tạo ,không có
gì tự tiêu diệt ",Phù hợp với định lý này ,Albert
EINSTEIN(1879-1955)đưa ra thuyết "Tương Đối"đã chứng minh :"Vật
chất là khí lực tụ lại cực điểm ,mà khí lực là vật chất tan
loãngra cực điểm ",Vật chất và khí lực theo Einstein,chỉ là hai
trạng thái cũa một thực tại (deux aspects d une réalité)…
-
Những nhà bác học trên đều đã xây dựng cho lầu đài khoa học mỗi
ngày thêm vững chắc .Với vũ trụ ,dưới con mắt nhận xét của khoa
học ,đã thừa nhận :Trong vũ trụ không phải chỉ riêng thế giới
chúng ta ở,mà rất nhiều thế giới ,mỗi thế giới là một bộ phận
tinh hệ của vũ trụ .Mỗi tinh hệ gồm có nhiều hành tinh ,vệ tinh
quay chung quanh ;mà mặt trời là trung tâm ,gọi là Thái Dương Hệ
(système solaire).Quay chung quanh mặt trời có 9 hành tinh :Thủy
Tinh (Mercure)Kim Tinh (Vénus). *Địa Cầu (Terre), Hỏa
Tinh(Mars), Mộc Tinh (Jupiter), ThổTinh(Saturne), Thiên Vương
Tinh (Uranus), Hải Vương Tinh (Neptune) và hành tinh thứ 9, ở
cách xa mặt trời nhất đó là hành tinh Pluton. Trong khoảng không
trung có hằng hà sa số hành tinh hệ lớn nhỏ, gồm cả thế giới gọi
chung là vũ trụ .
-
Tới đây ,ta đã có một khái niệm trong sự quan sát ,tìm hiểu
thiên nhiên. Nhưng ,điều thắc mắc vẫn là cái nguyên nhân tối sơ
của vũ trụ vạn hữu ? -.-Theo khoa học giới giải thích :"ở thời
kỳ hổn mang ,trong vũ trụ chỉ có toàn thuần tinh (Ether).Sau với
những nguyên nhân không rõ ,thuần tinh ấy kết thành những phần
nhỏ rải rác ,nhờ sức vận động và sức hấp dẫn ,các phần tử nhỏ
kết lại thành cồi *và cồi "nguyên tử" trước còn rời rạc ,sau kết
thành vân tinh và căn nguyên của mọi Thái Dương Hệ .Đó là thời
kỳ cấu tạo mặt trời và các hành tinh ,nhiệt độ của các vì sao ở
thời kỳ này rất lớn -Với sự phóng tản không ngừng ,nhiệt độ của
các vì sao giảm bớt tạo nên thế quân bình khiến cho sự sống có
thể phát khởi ,ấy là thời kỳ đầu tiên có những sinh vật **địa
cầu có thể ở được .Nhưng trong thời kỳ các nguyên tử vẫn không
ngưng phóng tản ấy cùng với sự giảm tốc độ ,các nguyên tử mất
dần thế vững ;bắt dầu một thời kỳ ly tán .Thế vững chắc của các
nguyên tố nội nguyên tử càng giãm đi thì sự ly tán càng nhanh
.Rồi đến một thời kỳ quá suy ,các nguyên tử lại trở về thế thuần
tinh như trước .Như vậy ,ta có thể biết :địa cầu cấu tạo bởi
nguyên tử thuần tinh rải rác .Nguyên tử ấy tự súc tích lấy năng
lực .Mà vật chất là một hình thái phát tán thành nhiều thế khác
nhau ,như hơi nóng ,ánh sáng ,điện khí .v.v.. "lịch sử vũ trụ có
thể chia ra hai thời kỳ :Thời kỳ Ngưng Kết Năng Lực Thành Vật
Chất ,và thời kỳ Phát Tán Năng Lực ấy ".
-
Tiền bán thế kỷ XVÌI,một câu chuyện lịch sử ,thuộc phạm vi khoa
học và Tôn giáo, đã xảy ra như sau :
-
*-
Trời _GALILÉE(1564-1642) ,noi gương COPERNIC(1473-1543) ,ông đã
đưa ra nhận xét :"Trời chỉ là khoảng không gian bao la vô cùng
tận ,trùm cả mặt trời ,trái đất và nhiều hành tinh …"Thế là chỗ
nào cũng có trời ….Mà nói thế tức đã phản lại tinh thần tôn giáo
;ông còn khẳng định :"Không có thần nào sáng tạo ra vũ trụ vạn
vật cả ".Trước kia tôn giáo thần quyền thường bảo "Trời
tròn,đất vuông và đứng yên một chổ ;ở dưới là địa ngục ,ở trên
là trời ".Ngày nay khoa học nhìn nhận ;mặt trời là trung điểm
của vũ trụ .
-
--
Ai đúng, ai sai ?Đến nay ta mới rõ sự thật ,thì ra oan cho
Galilée vì muốn (Tự Do Tín Ngưỡng )vì muốn giác ngộ chổ mê lầm
của tôn giáo thần quyền mà suýtbị ghép tội tử hình -Việc này xãy
ra dưới thời giáo hoàng Urbain VÌÌI(1633)do tòa án La Mã Xứ,vì
ông đã dám viết cuốn "Dialogues sur les grands systèmes du
monde"mang một nội dung trái với Thánh kinh -Sau đó ,buộc lòng
ông phải tuyên bố trước công chúng :"Trái đất không quay".Mà
"Trời"là gì?-câu hỏi ấy đã làm không biết bao nhiêu người phải
băn khoăn ,thắc mắc…
-
**Đất,-Về trái đất ,tôn giáo xưa thường nói :Mặt đất hình phẳng
".Khoa học hiện đại xác tín :Trái đất tròn =la terre est ronde
"*Theo LAPLACE(1749-1827) thì,nguyên thuỷ của trái đất là một
khối lửa (une masse de feu)do mặt trời văng ra, rồi nguội dần
…chỗ nào lồi là núi ,đồi ,chỗ nào lõm là sông ngòi ,hồ ao hay
biển, cũng có chổ bằng phẳng như sa mạc hay bình nguyên .
-
Và
theo ,LUCRÈCE (509 TTL),ông đã có những giả tưởng rất hửu lý
:"Địa cầu hiện ta đang sinh sống không phải duy nhất trong thiên
nhiên ,chúng ta phải tin rằng ở những miền kháccủa không gian,
cũng có nhựng địa cầu khác, những sinh vật khác ,những giố?
người khác …
-
Dựa vào thực tại, khoa học ngày nay đã phát minh những cái mới
la ,chế ra được cả phi thuyền liên hành tinh thể thám hiểm
nguyệt cầu, làm sụp đổ hẳn một hệ thống tư tưởng thần quyền xưa
cũ,đặt con người trước trách nhiệm của chính mình. Tuy nhiên,
trên đường tìm chân lý ,khoa học chưa phải là vạn năng ,giải
quyết được hết mọi khúc mắc của con người và cuộc đời này
.Vì,"Khoa học chỉ bàn đến những điều tổng quát =I I n y a que de
science du général"
-
Qua những trang trên, ta đã hiểu sự cắt nghĩa "Vũ trụ vạn hữu
"của các Tôn giáo, Đại học, Triết học, Khoa học xưa và nay. Giờ
đây, chúng ta thử dạo bước vào địa hạt. Đạo Phật và bản đồ đã
sẵn có trên hai nghìn năm trăm năm nay - để thử tìm ở đấy một
tia sáng ,làm chỉ chuẩn cho sự tìm hiểu về Vũ trụ và về con
người.
-
Và
kìa-Con Đường Sáng đã hiện ra…
-
Vấn Đề nhận thức
-
Đứng trên quan niệm nhận thức ,đạo Phật không hoàn toàn thuần
túy là một triết học. Vì,đạo Phật là tất cả ,hay nói khác ,đạo
Phật là triết học siêu triết học .Đạo Phật cũng có những lối
nhận thức sự vật ,bằng nhân giới trực quan ,rất chính xác .Thật
vậy ,trước khi nghiên cứu vấn đề gì ta cũng nên đặt thành câu
hỏi :Tại sao?rồi sau đó quyết tìm câu trả lời những nghi vấn mà
mình đã đặt ra .Những vấn đề nào khi ta đã nhận xét được thấu
đáo ,nó biểu hiện ra một cách phân minh ;và những ý tưởng để
diễn tả sự vật cũng "đến"một cách dể dàng ;thì đó là một Sự Thật
mà ta phải thừa nhận ".Tất cả hiện tượng trong vũ trụ chỉ là
những con số cộng cộng các yếu tố (nhân duyên )mà có.Đứng về
phương diện không gian mà luận thì ,vạn hữu là "Vô Ngã
=anattà".nó không có cái thật bề ngang ;do cộng các điều kiện
nhân duyên lại mà thành .Còn đứng về phương diện thời gian mà
xét ,vạn hữu là "Vô thường =anicca".nó không có cái thật bề dọc
;do cộng các trạng thái sinh -diệt lại mà có .Chứng minh cho lập
luận trên đây ,ta lấy một vật thể làm đối tượng để nghiên cứu
,tìm hiểu sự vật .Cây viết hiện có trước mắt tôi là do hiệp thể
của nhiều chất liệu ,như:gỗ+sơn+mực và ý niệm của người thợ tạo
ra cây viết tròn hoặc lục lăng ,với,"thiết ý"là để dùng vào viết
hay vẽ …,bởi có "hiện tượng "cây viết mà chứng minh được chung
quanh cây viết là không gian :vô ngã .Rồi từ khi có hiện tượng
cây viết cho đến cây viết bị hủy hoại ,nghĩa là từ sinh -diệt
này qua sinh -diệt khác ,gọi là thời gian :vô thường .
-
Tất cả sự vật hiện hữu trong vũ trụ đều bao gồm trong một
chữ"Pháp=Dharmas
-
**
Nói theo từ ngữ Phật Học ,Pháp cũng gọi là "Nhất Thiết Pháp",tức
chỉ cho Vạn Sự Vạn Vật và là Lẽ Sống ,Cách Sống ,Khuôn Mẫu Sống
của muôn loài vạn vật trong cỏi đời này .Cái lẽ sống ấy cùng với
trời ,đất,muôn vật nhịp nhàng chung sống trong một Nguồn Sống Vô
Tận (tức Hiện Tượng -Bản Lai Diện Mục là như thế đó ;pháp nhĩ
như thị là vathàbhùta).Với sự thật trên đây ,đã giúp ta khám phá
ra hiện tượng vũ trụ vạn hữu gồm có hai mặt đối đãi :"Một Là Tấ
Cả ",toàn thể vũ trụ tạo thành một vật (nhất tức nhất thiết
);"Tất Cả Là một ",một vật ảnh hưởng đến toàn thể (nhất thiết
tức nhất )*
-
Để
nhận thức sự việc không bị lệch lạc ,sai lầm ,đạo Phật đề ra ba
phương pháp ,cùng gọi là :Tam Lượng (ba phương pháp tỷ giảo
,nhận thức sự vật đúng như thật). Hình thái nhận thức thứ nhất
là Hiện Lượng ,những sự vật hiện hành do ngũ giác và tri giác ta
trực tiếp nhận thức một cách thâu đáo ,nếu ta có quan niệm rõ
rệt về một vật ấy .Tỉ dụ :phải nghe tiếng nó ,phải ngửi mùi nó
,v.v…Trước khi có cảm giác rồi ,mới có tri giác ,không có tri
giác thì không có quan niệm ,nghĩa là chưa thành hiện lượng
.Hình thái nhận thức thứ hai là Tỷ Lượng ,sự suy luận ,đối chiếu
bằng những phương pháp tỷ giảo ,lấy cá thể hiểu toàn thể làmđối
tượng so sánh ,và chứng minh cho sự tìm hiểu sự thật ,như dựa
vào pháp Tam Chi Luận trong Nhân Minh học *để tỷ lượng trong
việc xét đoán vũ trụ vạn hữu .Hình thái nhận thức thứ ba là
Thánh giáo Lượng ,căn cứ vào giáo lý Như thật do đức Phật dạy để
mở mang trí tuệ (Prajnã),suy xét sự vật ,phân định lẽ chính tà
,thực hư .đó là những yếu lý căn bản cho mọi phưương pháp nhận
thức .Ta có thể y cứ vào đấy làm tiêu chuẩn để tỷ giảo ,phán
đoán ,tìm hiểu chân lý .A?#7909;ng phương pháp Tam Lượng trong
công cuộc tìm hiểu sự thật ,cho ta thấy :"Đạo Lý Duyên Khởi
=paticcamuppàda"của đạo Phật là cắt nghĩa trọn vẹn cái lý do vũ
trụ vạn hữu thường hằng ,luôn luôn sinh động (vô thường)nhưng
không thực thể (vô ngã).Căn cứ vào Nhân Minh học (tức phương
pháp Luận Lý học ),ta tập luận :
-
--Tôn -Tất cả hiện tượng trong vũ trụ đều biến chuyển ,vô
thường.
--Nhân -Vì các nhân duyên yếu tố giả hợp tạo thành .
-
--Dụ -Như cái nhà ,do các vật liệu "giả hợp 'tạo thành rồi phải
mục nát ,hư hỏng
-
Và, so với phép Tam Đoạn Luận (Syllogisme)trong triết học Tây
phương :
--Đại Tiền Đề -Những vật gì do yếu tố nhân duyên giả hợp tạo
thành ,đều bị hủy diệt ,
-
Tiểu tiền Đề -Như cái nhà ,do các vật liệu "giả hợp "tạo thành
,tất phải mục nát ,hư hỏng .
-
--Kết Luận -Vậy các hiện tượng trong vũ trụ phải biến chuyển ,vô
thường.
-
Tới đây ,xin tạm mượn câu chuyện "đàm thoại "giữa đức vua
MILINDA và thánh giả NAGASENA được ghi lại trong cuốn Di Lan
Đà Vấn Đạo = Milindapanha"để chưng minh cho lý giải trên là sự
thật .
-
--Thưa thánh giả ,tên thực ngày là gì ?-đức vua hỏi .
-
--Tâu hoàng thượng ,bạn đồng đạo thường gọi tôi là
NÀGÀSENA,nhưng đấy chỉ là một cách để phân biệt một tiếng gọi
,một lối nói cho tiện ,hay nói khác ,chỉ là một cái danh chứ
thực ra ,không có người Nàgàsena;thảng hoặc có kẻ đem đồ dâng
cúng tỳ khưu (Bhikkh:tức chỉ thánh giả Nàgàsena)những thứ cần
dùng ,như thức ăn ,áo mặc,đồ ngũ ,thuốc men …thì lấy ai để nhân
lãnh ?-Và ai ăn dùng những vật ấy ?-Ai bảo toàn luân thường đạo
lý ?
-
--Ai ngồi tham thiền ?-Ai hành đạo ?Ai đắc quả?-Ai nhập niết
bàn?Ai là kẻ sát sinh ?Ai trộm cắp?-Ai tà dâm?-Ai phạm ngũ giới
? Nếu thế thì không có thiện ,không có ác,không ai kàm thiện
cũng không ai làm ác ;những việc làm dù tốt hay xấu ,cũng chẳng
có quả báo?Thưa tháng giả ,vậy thì không ai đánh giết ;tỳ khưu
và tỳ khưu ni ơi !các người không có ai là thầy ,không ai là
người giảng dạy ,không ai là người truyền đạo pháp ,nếu thánh
giả nói rằng :Nầy các huynh,hoàng thượng gọi ta là Nagasena thì
Nagasena là ai? "thưa Thánh giả ,xin ngài giảng cho .Hay là tóc
trên đầu ngài là Nagasena?
-
---Hay là lông ,móng ,da,thịt,gân,xương,tủy,cật ,tim,gan,lá
lách,phổi ,ruột ,cuống ruột,đồ ăn chưa tiêu hóa ,đồ ăn đã tiêu
thành phân ,đờm,rũi,mồ hôi,mỡ,nước mắt,nước miếng,nước tiểu.v.v…
-
---Không.
---Hình sắc kia có phải là Nagasena chăng?
-
---Không…
---Sự nhận biết vui buồn ,sướng khổ,sự suy tưởng phải trái ;sự
toan tính hành động ,trong lòng,có phải là Nagasena?
-
---Không.
---Thế không có chi là Nagasena cả,vậy Nagasena là gì?
-
---Không là gì hết ,thưa hoàng thượng.
-
---Có lẽ nào Nagasena chỉ là một tiếng không thôi sao,trầm e
thánh giả nói dối .
Bấy giờ,thánh giả (luôn thể)trông thấy cái xe ,liền hỏi đức vua
MILINDA:
---Tâu hoàng thượng,chứ ngài tới đây đi bộ hay đi xe?
-
---Đi xe ,thưa thánh giả .
-
---Hoàng thượng bảo đi xe ,vậy tôi xin hỏi :Xe là gì?Có phải cây
gọng là xe không?
-
---Không.
---Phải bánh xe là không?
-
---Không.
---Phải ổ máy của xe là xe không?
-
---Không.
--…?
---….
-
Hõi mãi như thế ,không có cái gì đức vua Milinda có thể chỉ được
là xe.Thánh giả Nagasena liền kết luận : Cái xe của hòa
thượngchỉ là một dấu hiệu ,một tiếng gọi ;tôi e hòa thượng nói
dối khi nói đi xe đến đây…
-
Ở
đời,hễ cái gì có hình tướng ,đều biến đổi ,không thật .-Phàm cái
gì có hình tướng đều là giả dối ,có sinh phải có diệt "-Kinh Kim
Cương .
-
Cuộc đàm thoại trên đây đãchứng minh cho sự thật của Đạo
Lý?#234;n Khởi ,Vô Thường ,Vô Ngã trong đạo Phật .Một sự thật
không ai có thể chối cải.Thật vậy ,tất cả sự vật hiện hữu trong
thế gian này ,hoặc đang băng hoại ,hay sẽ thai sinh ,là do sự
kết hợp "vô thường"cùa một số tinh thể đơn thuần qua nhiều giai
đoạn ,và cứ thế tiếp tục mãi …"Đạo Lý Duyên Khỡi"cho ta thấy
:Sự vật không phải chỉ là những cá thể cố định ,đơn điệu ,độc
lập ;mà là những" phần tử "hòa hợp trong một khối chung của
"toàn thể".Những phần tử ấy có một xã hội tính ,tức tính "Nhân
Duyên Sinh".Với tính Nhân Duyên Sinh ,đạo Phật đánh dấu sự
tương quan mật thiết giữa hết thảy …Vì biết rằng ,hết thày sự
vật trong vũ trụ ,hoặc trực tiếp ,hoặc gián tiếp ,ảnh hưởng lẵn
nhau mà tạo thành . **Vũ Trụ Luận.
-
Trong Vũ Trụ Luận (Cosmogonie) gồm hai phần : Hình Nhi Thượng :
Métaphysique,nghiên cứu Bản Thế Chân Như (Tathatà hay
paràmartha). Như Lai Tạng (Tathatagarbha);Hình Nhi Hạ
:Physique,phần triết lýthực tiễn ;những việc con người ,vũ trụ .
-
1.Thế Giới Vô Biên ,Chúng Sinh Vô Hạn Lượng .Nhưng Tất Cả…,Đều
Do Nghiệp Biến Hiện.
-
Trong vũ trụ có rất nhiều thái dương hệ ,mỗi thái dương hệ là
một thế giới ,hợp nghìn thế giới thành một Tiểu thiên thế giới
,hợp nghìn tiểu thiên thế giới thành một Trung thiên thế giới
,và hợp nghìn trung thiên thế giới thành Đại thiên thế giới .
-
Mỗi thế giới có những Y Báo,Chính Báo khác nhau ,nhưng không
ngoài "Nhgiệp Cảm Duyên Khởi ".
-
Nói đến "NGHIỆP" (Karma) tức nói đến sự sinh động biến hóa của
vạn hữu (tous les êtres). Nhưng Nghiệp là gì? Và Vũ Trụ do
Nhân duyên nào mà có? Nghiệp là Vô Minh (Avidyà)duyên khởi và tự
nó tác động, chứ không bị chi phối bởi một sức huyền nhiệm nào
cả.Mà Nghiệp thì hoàn toàn động.Bởi có động mà vũ trụ vạn hữu
mới tiến hóa ,sinh tồn-động ,hay nói Nghiệp cũng thế -xin hiểu
theo nghĩa rộng -khi khởi thủy có thế giới ,có các loài sinh vật
là có động .Động là biến hóa cần phải có để duy trì trật tự
trong vũ trụ và là Lẽ Sống của mỗi hành tinh hệ ,gồm nhiều thế
giới gọi chung là vũ trụ .
-
"...Cứ tiến mãi qua 33 từng trời: 56 cảnh giới Bồ Tát;vũ trụ tùy
mỗi từng mà rộng lớn gấp bội .Mỗi Phật sát là một cõi ohật ,và
mỗi cõi gồm có Tam thiên đại thiên thế giới 3 000 000 000.*Từ
cõi đức phật Cakyamuni vượt qua mười ức vạn cõi Phật khác ,còn
có một cõi do đức Phật A Di Đà (Amitabha buđha)làm giáo chủ .Mỗi
cõi Phật sát đối với không gian ,chỉ là một hạt bụi nhỏ khác
.Các Phật sát đầy dẩy hư không .Thật là bao la!**
-
Chỉ mới đứng về mặt tương đối cuộc đời mà luận ,ta cũng đã thấy
:Vũ trụ rộng lớn ,có muôn hình ,muôn vẽ ,nào
trăng,sao,trời,đất,núi,sông,cây cỏ,người và vật .v.v…Tuy nhiên
,sự nhận thức của con người (do ngũ quan và ý thức tạo thành
)khác với sự nhật thức của các loài động vật "nhìn "và "hiểu
"những cảnh vật ấy (cộng nghiệp trong biệt nghiệp ).Nghĩa là
,tùy mỗi Nghiệp lành hay dữ của chúng sinh mà sự cảm ứng khác
nhau .Con người thuộc trong những loài động vật.Nhưng đời sống
con người khác đời sống của loài muôn thú .Mỗi loài có một "tính
sống"riêng biệt ,như cá thì bơi lội dưới nước ,chim bay bổng
trên không ,hổ báo thì sống ở trên cạn (mặt đất)và trong những
miền rừng rú ;hoàn cảnh khác nhau ,nên sự sống cũng khác nhau
.Theo quan niệm đạo Phật thì ,vũ trụ (tự nó=chose en soi)đã biến
chuyển bao lần ,và còn biến chuyển mãi mãi.Đó chẳng qua là do
"Nghiệp thiện "hay "Nghiệp ác"từ vơ thủy kiếp đã tạo ;mà "y
báo"(chỉ cho tất cả sự tướng hiện hữu ,dù lớn hay nhỏ ,lớn như
thái dương hệ ,sơn ,hà ,đại địa ,thành quách lâu dài …,nhỏ ,như
hạt bụi ,vi trần ..)"chính báọ"(bồm hết thảy sinh vật ,trong đó
có con người và vạn hữu ,gọi chung là chúng sinh )làm nhân
-nguyên nhân chủ yếu -,làm duyên -nguyên nhân phụ thuộc -để phát
sinh hiện tượng giới ,Tất cả y báo ,chính báo cũng lại do Nghiệp
cấu tạo mà thành .Nói theo Đạo Ly Duyên Khởi *thì sự vật luôn
luôn biến hóa vô cùng tận ;đó không phải Vật Này sinh ra Vật Kia
mà là Vật Này làm nhân ,làm duyên sinh khởi ra Vật Kia .Hay nói
cách khác :
-
"Cái Này có thì Cái Kia có;
-
Cái Này sinh thì Cái Kia sinh,
-
Cái Này không thì Cái Kia không .
-
Cái này diệu thì Cái Kia diệt *(*)
-
Majjhimani Nikaya ÌÌ-63-
-
Cũng như nói ;Quá sinh ra cây ,cây nở hoa ,hoa kết thành quả .
-
Sự
"Có,Không""Còn Mất "chỉ là sự thay đổi hình dạng mà thôi .Thực
ra "Nó"không mất đi đâu cả (**)Ta hãy lấy một dự kiện để chứng
minh cho Sự Thật kia :
-
Nước H2O,khi nước sôi bốc thành hơi ,hơi động lại vẫn
là nước .Đó là một hình thức ,chỉ là sự đối thể của một chất
liệu .Chúng ta nói :cái chết làm tiêu diệt một sinh vật mà không
nói sãn sinh ra một xác chết ;có khác gì ta coi trọng cái hình
thức (giả tướng )hơn chính sự sống ,là phần tâm tưởng tinh anh .
-
Thực ra,đối với Bản Thể (Essence)của sự vật ,nó không bị tiêu
diệt ,mà chỉ thay đổi qua nhiều trạng thái khác nhau ,giữa …sự
sống và sự chết ,và cứ như thế tuần hoàn biến diễn mãi không
thôi .Cho nên ,ta không thể nói Cái nào có trước Cái Nào có sau
. Vũ trụ là một cuộc đại hoạt động vô thủy vô chung (sans
commencement ni fin).Từ nguyên tử nhỏ nhiệm đến các tinh tú xa
xôi ,đều nằm trong cái vòng luân lưu không bao giờ đứt quãng
…,khác nào như những lằn sống ngoài biển cả .Ngược về trứớc ta
ta không tìm thấy có thủy ,ngó lại sau chẳng thấy có chung ,thì
làm sao có thể gọi được là Nguyên Nhân Tối Sơ (?)Mỗi thời đại
hiện ra cùng vạn vật ,rồi lại tan đi mà biến ra thể vô hình ,vô
sắc.Khi hiện ra gọi là Sắc khi biến đi gọi là Không ..*.Do đó,
đạo Phật cắt nghĩa sự biến chuyển của vũ trụ vạn pháp (nghĩa như
chữ vạn vật )bằng hai chữ "Sắc" "Không"
-
2. Sắc Không
-
a. SẮC (Rupam hay Lak sana)
-
Chỉ cho tất cả vật thể trong vũ trụ có hình tướng mà ngũ quan ta
cảm giác thấy, những ý tưởng ,tâm tình đều thuộc phạm vi "sắc"cả
.Cái gì thường còn mãi ,mới gọi là "có", như Bản Thể
(Essence),Chân Tâm (L^être infini), Chân Như
(Réalitéultime)v.v..,những trạng thái luôn luôn sinh diệt ,có
rồi lại không ,như những bọt nước trên mặt sống biển…Đấy không
phải là có mà chỉ là "giả có".
-
b. KHÔNG (Sunyatà):
-
Không, là trạng thái không hình sắc ,âm thanh,không thể dùng
giác quan mà tiếp xúc hay suy tưởng .Nhưng nó lại có sức linh
hoạt như những luồng quang tuyến ,tuy vô hình song có một năng
lực biến chuyển một giây có thể chạy chu vi địa cầu tám lần
.Nhgĩa là ,"Chân Không Diệu Hữu ",*Cái "Không"này là hoàn toàn
không ,vĩnh viễn không (Chân Không)chứ không phải không trống
rỗng ,không có gì (ngoan không -Vide)..Để hiểu Chân Không một
cách giản dị ,ta hãy lấy một ống chứa đầy không khí bằng thủy
tinh rồi cho hút hết không khí -có chứa đựng trong ống thủy tinh
ấy -ra ngoài ,thì trong đó ta tạm thấy "Chân Không ",như những
luồng quang tuyến ,dù có hiện ra hay biến đi ,nhưng nó vẫn là nó
.Nó chỉ đổi thể mà thôi (changement d état).Trong kinh Bnhã
(Prajnà paramita) chép :"Sắc tức thị không ,không tức thị sắc
,sắc bất dị không ,không bất dị sắc …thị chư pháp không tướng
,bất sinh bất diệt ,bất cấu bất tịnh ,bất tăng bất giảm ..
-
Các bậc tu hành ,khi đã chứng được "bát nhã trí "(prajnà),nhìn
thấy các pháp đều là không .Một trong những vị thiền sư đắc đạo
của nước ta ,ngài Từ Đạo Hạnh,triều đại nhà Lý ,đã cảm thông
được lẽ "có""không "hiện ra trong vũ trụ vô biên ,biểu thị qua
những vần thư tuyệt diệu dưới đây :
-
"Có thì có tự mảy may
-
"Không thì cả thế gian này cũng không.
-
"Thử xem bóng nguyệt giòng sông.
-
"Ai hay không có, có không là gì?"
-
Tùy Theo nhân duyên mà hiện ra nhu là có sinh .Cho nên gọi là
tạm CO. Bởi không có tự tinh ,nên gọi là KHÔNG=Tòng duyên sinh
cố ,danh chi vi hữu .Vô tự tính cố ,danh chi vi vô -Kinh Đại Bát
Niết Bàn-
-
Sự
đổi thể giống như nước đổi ra hơi ,hơi lại về nước ;như những
luồng quang tuyến tuy bị tắt là do tại vì bóng hỏng và máy hư
(tùy duyên bất biến ). Nhưng điện tính thì không bao giờ mất
hẳn (bất biến tùy duyên ).nó vẫn có đầ?#7851;幠trong
khắp cả hư không giới (nghĩa chữ "sắc bất dị không ")nhung khi
đủ yếu tố nhân duyên ,như dây ,bóng …ta bật đèn là thấy có ánh
sáng ngay(trước không ,bây giờ có ánh sáng ) (nghĩa chữ "Không
bất thị sắc ".Do đó,cho ta thấy ,vật chất chỉ như là những làn
sóng nhấp nhô ngoài biển cả .Mà tinh thần cũng vchỉ là những
luồng ý niệm được tiếp nối từ quá khứ đến hiện tại và vị lai
.dưới con mắt Phật học ,ta nhìn vũ trụ vạn hữu không ngoài hai
định đề "Sắc",Không ",và nó còn phải liên quan mật thiết tiếp
nối nhau theo luật nhân duyên nhân quả ,và luôn luôn biến chuyển
mà muôn vật được sinh sôi nảy nở ,nhịp sống mới đều hòa ;nếu vũ
trụ bất động ,vạn vật sẽ tự diệt .
-
Ở
đây ,ta có thể tượng trưng vũ trụ như một hình tròn ,theo sự
biến chuyển như sau:
-
Không Sắc
-
Vẫn biết vạn hữu (tous les êtres)do nhân duyên cấu tạo nên
;nhưng cái gì là tượng trưng cho vũ trụ vô biên ấy ?-Đạo Phật
với thuyết "Bản Thể Thật Tại Luận".
-
3-Bản Thể Thật Tại Luận
-
Hay Câu "Nhất Thiết Duy Tâm Đạo"
-
Trong kinh Hoa Nghiêm (Avatamsakasutra) chép:"Vạn
hữu trong vũ trụ đều do Tâm (Bản Thể) biểu hiện ="Nhất Thiết Duy
Tâm Tạo".Chữ Tâm ở đây không có nghĩa chỉ cõi lòng vui buồn
,ganh ghét hay cái trí hiểu biết của con người .cũng không phải
như chữ Tâm theo định nghĩa hạn hẹp của triết học là :Tinh thần
chủ quan sinh ra vũ trụ khách quan .Lại càng không nên hiểu theo
triết lý của Hégel ;Tâm là ý niệm hoặc ý tưởng tuyệt đối .Phần
nhiều ta không chịu tìm hiểu,chỉ mãi loay hoay trong rừng rậm
danh từ ,không tìm ra được lối thoát,nên rất dễbị lầm lạc .thật
đáng tiếc!Chẳng hạn người ta thấy trong kinh Phật thường hay nói
đến chữ "Tâm",những người nông nổi vội kết luận cho đạo Phật là
"Duy Tâm".
-
Để
hiểu chữ Tâm ,theo đúng quan niệm đạo Phật ,chữ Tâm (ở đâu có
chia ra
"Chân Tâm (Pêtreinfini),và Vọng Tâm (conscience
inconnaissable).Ta nên nhớ :Căn bản của phiền não sinh tử là
VọngTâm .Mà căn bản của Bồ Đề ,niết bàn là Chân Tâm .Nhưng chữ
Tâm -chữ Tâm viết hoa -xin hiểu nghĩa là Bản Thể Của Vũ Tru Vạn
Hữu ,tức Tâm Chân Như hay Thể Tính chân Tâm (les éléments
essentiels de l etre infinị.
-
Cũng xin nói thêm về chữ "Tâm"(Citta),hiểu theo danh từ Phật học
,có nhiều tên khác nhau ;tùy trường hợp ,cũng gọi là Chân Tâm
,Bồ Đề, Niết Bàn,Như Lai Tạng ,AlayaThức hay Pháp Thân ,chân Lý
v.v..
瑩bsp;
-
Thật ra những danh từ trên đức Phật tạm đặt ra để chỉ cái "Bản
Thể Tuyệt Đối"của vũ trụ ,đó cũng chỉ là phương tiện để hướng
dẩn con người đạt được Chân Lý .Trong kinh có câu :Nhân chỉ kiến
nguyệt",nghĩa là nhờ có ngón tay chỉ mà ta biết được mặt trăng
.Mặt trăng ở ngoài ngón tay người chỉ .Ngón tay là ám chỉ cho
lời nói ,lý luận và danh từ ,còn mặt trăng mới đích là chân lý
của Bản thể Vũ Tru .Khoa học ngày nay thì nói đến những Electron
,Atome et Noyau để cắt nghĩa vật tiên thiên đã tạo nên vũ trụ
vạn vật …Đó,chẳng qua cũng chỉ tạm mượn cái tên điện tử ,nguyên
tử hay hạch tử để chỉ cái nguyên chất (có sẳn)trong vũ trụ mà
thôi .Trong Đại Thừa Khởi Tính Luận ,chép:Đứng về phương diện
Bản Thể ,thì tất cả các pháp từ xưa tới nay ,lìa các"tướng" như
lời nói ,chữ nghĩa ,tư tưởng ,tuyệt đối bình đẳng ,không có thay
đổi ,không hư hoại ,cùng chung một Bản Thể Sáng Suốt Của Nhất
Tâm ,nên gọi là Chân Như =Nhất thiết chư pháp ,tòng bản dĩ lai
,ly ngôn tuyết tướng ,ly danh tự tướng ,ly tâm duyên tướng ,tất
cánh bình đẳng ,vô hữu biến dị ,bất khả phá hoại ,duy thị nhất
tâm ,cố danh chân như .
-
Để
hiểu chữ "Tâm"rong đạo Phật một cách sâu rộng hơn ,kinh Lăng
Nghiêm (Suramrama sutra)có ghi lại mẩu chuyện đối thoại giữa
Đức Phật và để tử là Ananda,sau bảy lần gạn hỏi ý nghĩa chữ
"Tâm",đều bị đức Phật bác ,cho là không đúng .Và dưới đây là mẩu
chuyện lý thú đó :
-
1.-Ananda Chấp Tâm ở Nơi Thân -"Tâm không phải trong thân .Nếu
bảo tâm ở trong thân ,trước hết ,ông phải lấy tim, gan ,mật
,phổi,lá lách…,sau mới thấy cảnh vật bên ngoài".Tại sao,ông
không trông thấy ?-lời đức Phật .
-
2.-Ananda Chấp Tâm Ở Ngoài Thân -Đúc Phật:"Tâm ở ngoài thân ,thì
tâm và thân ông không dính dấp nhau .Vì lẽ gì ,mắt ông vừa trông
thấy cảnh vật ,tâm ông liền biết ?Như vậy,thân và tâm đâu có
tách rời nhau .
-
3.-A?a Chấp Tâm Ở trong Con Mắt -Đức Phật :Nếu tâm ở trong con
mắt ;tại sao,tâm ông lại không thấy được mắt ông .Cũng như người
chết ,con mắt còn đó ,tại sao lại trông không thấy gì ?
-
4.-A?a Chấp Trở Lại ,Tâm ở Trong Thân,ông nói:"tôi mắt thấy tối
,mở mắt thấy sáng là tâm thấy cảnh vật bên ngoài .Như vậy ,tâm
ấy đúng ở trong thân tôi".Đúc Phật liền hỏi vặn lại Ananda:"Nếu
ông nói rằng nhắm mắt thấy tối ,vậy cái tối ấy có đối trườc mắt
ông hay không ?"
-
5.- A?a Chấp Tâm Tùy Chổ Hòa Hợp Mà Có .Đức Phật:"O⮧ nói ,tâm
tùy chổ hòa hợp có ;nghĩa là ,tâm ấy không có thực thể (tức
không có)thì lấy gì làm hòa hợp ?Nếu nói,nó từ trong thân hoặc
từ hư kgông hiện ra ,lẽ tất nhiên ,nó phải thấy lục phủ ,ngũ
tạng bên trong và thấy hình thể con người bên ngoài .Còn nói,tâm
ấy có nhiều thể (thành ra có nhiều tâm ),biết cái nào là tâm của
ông ?tùy hòa hợp chổ nào tâm liền ở chổ đó ,là sai".
-
6.- A?a Chấp Tâm Ở Khoảng giữa -Đức Phật dạy :"tâm"và "cảnh"là
hai thể khác nhau ,một bên có tri giác (tâm),một bên không có
tri giác(cảnh ),hai cái đối lập ,riêng biệt nhau ,thì lấy cái gì
gọi được là giữa ?
-
7.- A?a Chấp Cái Không Trược *Là Tâm -Đức Phật ;Hễ cái gì có
hình tướng ,như núi,sông,trái đất thì gọi là "giả có";còn cái gì
không hình tướng ,như lông rùa ,sừng thỏ đều gọi là không ,và đã
không ,thì có gì mà nói là "trược"?…
-
Đến Đây ,Đức Phật giảng rõ thế nào là Thể Tính Chân Tâm để giúp
cho chúng sanh sớm ngộ nhập "Phật tri kiến",nhìn thấy các pháp
là không tướng ,con người và chúng sinh là do nhân duyên cấu tạo
,nên nó "vô ngã',và hết thảy sự vật hiện hữu trên cỏi đời này
đều "vô thường"chuyển biến .Muốn giải thoát những ràng buộc mê
luân khổ đau ,thì con người phải biết "tu tâm,dưỡng tính"để mình
không còn bị làm nô lệ cho cái hình hài giả tạm ,và sống một
cuộc sống có ý nghĩa hơn ,một cuộc sống vĩnh cửu,thanh tịnh ,tự
tại ,như nhất …
-
Vòng tròn tượng trưng cho "Tâm"hay"Bản Thể"của vũ trụ vạn hữu .
-
Đường thẳng và cong biểu tượng
-
Sát na sinh diệt.
-
Vậy,Tâm ấy là thể bản nhiên thanh tịnh (Đại Ngã Thể)*bao trùm
khắp pháp giới -xin hiểu nghĩa như chữ vũ trụ -hư không giới
,bao giờ nó cũng là một thể tồn tại ,không sinh diệt ,không thêm
,không bớt,không sắc tướng ,cũng không hẳn là hư không ;vũ trụ
vạn hữu đã từ vô lượng kiếp luân hồi …
-
Đến đây ta hãy lấy một thí dụ để chứng minh ,như "nước"là Bản
Thể,có tính chất thành Sóng .Mặc dầu là nó tĩnh nhưng vẫn có
tính chất động .Tĩnh và Động là hai tính chất có ở trong
nước.Sóng,chỉ cho Hiện Tượng "tinh thần và vật chất".
-
Nước,chỉ Bản Thể "vô biên ..".Vậy ,có Sóng là có Nước .Cũng như
nói có Hiện Tượng là có Bản Thể .
-
4.-Thể ,Tướng,Dụng
-
a.Thể
-
Bản Thể,chỉ cho vũ trụ bao la- "Tâm Chân Như"Ví như nước mênh
mông trong đó có đầy đủ các yếu tố nhân duyên để "cấu tạo"vạn
hữu ,nếu ta thu hẹp lại thì nó chỉ là một con số không (0),nhưng
trong đó vẫn hàm tàng hai tính chất "Sắc"(vật chất), "Tâm"(tinh
thần).Đạo Phật quan niệm ;Tâm,hay Vật nhị nguyện đồng nhất thể
,nghĩa là ,dù Tâm hayVật đều có ở trong "Bản Thể;không phải
"Tâm"có trước "Vật",như phái Duy Tâm chủ trương "tinh thần có
trước ,vật chất có sau .Hay nói ngược lại , "Vật"có trước
"Tâm",như phái Duy Vật chủ trương "vật chất sản sinh ra tinh
thần".Trong Duy Thức Học (Vijnànavàda)nói: "Tâmvà Vật là hai
cái "đồng thời"có ở trong Bản Thể Chân Như..Nếu không có Tâm
thì không có Vật ;mà không có Vật thì cũng không có Tâm =Kiến
,Tướng đồng thời nhi khởi ,vô kiến tắcvô tướng ,vô tướng tắc vô
kiến".
-
Viên đá lửa sẵn có "tính lửa"hàm chứa bên trong ,nên khi ta bật
thấy lửa phát hiện .Cũng như "tính ướt"của nước vẫn sẳn có ở
trong nước.Bản Thể của vũ trụ hiện hữu ,như ta đã thấy ,nó không
ngoài Hiện Tượng mà có Bản Thể .Hiện Tượng ,tức Bản Thể .To như
Thái dương hệ ,nhỏ như vi trần cũng đều do nơi Bản Thể vô biên
diệu dụng kia mà biến hiện ra cả….
-
b. Tướng
-
Tướng Trạng ,chỉ cho núi ,sông ,người và vật -Hiện Tượng giới
-Ví như nước biển đem pha các màu xanh ,đỏ ,vàng ,tím ;tuy sắc
tướng có khác ,nhưng nó vẫn không ngoài thể chất "nước".Vũ trụ
với thiên hình vạn trạng khác nhau về hình thái song đều chung
một Bản Thể ,không hai,không khác.
-
c.Dụng
Công dụng ,tức chỉ cho sự sai biệt giữa vật này và vật
kia :-sinh diệt ,vô thủy vô chung -với sự áp dụng của "Sắc"hay
"Tâm",tùy theo trường hợp thiện và ác của "Tướng",như màu
sanh ,màu vàng v.v..để dùng vào việc viết (hay vẽ)các vật
xanh,vật vàng v.v…
-
5.Những Nguyên Nhân Cấu Thành Vũ Trụ Vạn Hữu
-
Trong Bản Thể Vũ Trụ gồm sáu yếu tố công năng hoạt động làm căn
bản ,cũng gọi là "Lục Đại Duyên Khởi"(Màhàhhutas les six
élémants) tức : Địa
(Prthividhàtuh),Thủy(Abdhàtuh),Hỏa(Tejodhàtuh),Phong
(Vàyudhàtuh),Không(Sùnyatà),Thức(Vijnàna),dung hòa lẫn nhau và
tạo ra muôn loài vạn vật hiện hữu ở thế gian này.
-
Sáu công năng đó là:
-
*Công Năng Rung Động : Gió
-
*Công Năng E?#7863;ng :Đất
-
*Công Năng A᭠Nóng :Lửa
-
*Công Năng Mịn Ướt :Nước
-
*Không Gian :Hư Không
-
*Linh Thức.
-
Tính chất của sáu công năng rất tinh tếkhông phải là hình thức
thô sơ như những nguyên tử,điện tử cón có thể phân tích;đằng này
tự nó,nó có đủ năng lực tiến hóa ,phát triễn .Đứng về quan niệm
sai biệt ,ta nhận thấy có sáu công năng khác nhau ;nhưng đứng về
phương diện tuyệt đối thì chỉ thấy (duy nhất)có một "Bản
Thể"-Bản Thể Bính Đẳng Như Nhất.Bản Thể - xin nhắc lại -cũng có
chổ gọi "Không Tướng hay "Chân Không",như trong Bát Nhã Tâm Kinh
nói: "Thị chư pháp không tướng ,bất sinh bất diệt …"Các pháp vốn
không thật có .Mà đã không thật có thì làm gì còn có sinh diệt
.Bởi không còn bị sinh diệt nên gọi là Chân Như (Tathatà) .Vẫn
biết trong Bản Thể Vũ Tru chứa sẵn sáu yếu tố công năng ,nhưng
ta cần biết cái nào hiện trước ,cái nào hiện sau ?Vấn đề này
,khoa học hiện đại hãy còn đương trong vòng tìm hiểu .Nhưng ,đạo
Phật đã có giải thích rỏ trong Kinh Lăng Nghiêm
(Suramrama-sùtra),quyển IV chép:
-
Khoảng không gian vô cùng tận do nguồn linh thức quá mạnh làm
rung động một lượt "6 yếu tố công năng" và cùng quay chuyển
biến mà sinh ra "phong đại"(Vent)trước.Và do những luồn gió
thổi "quyên "các yếu tố lại tạo thành "không
khí"(Atmosphère),rồi đến "địa đại"(Minéral) ,và do sự cọ xát
giữa hai áp lực gió và không khí tạo thành lửa "hỏa đại'hay
"điện lực"(Electricité);hơi nóng bốc lên gặp khí lạnh ép xuống
thành nước "Thủy đại"(Océan);Lửa bốc lên ,nước dội xuống làm
cho lắng động lại và nguội dần ,chỗ nào bằng phẳng là đất ,chỗ
nào sụt xuống là bể hay hồ ao;nơi nào sức nứớc mạnh hơn mọc ra
cây cối .."
-
Tất cả những thứ đó gọi chung là "Khí thế gian"
-
Đức Phật còn cho ta biết :ở thế gian cả thảy có bốn loài sinh
(Catvàro yonayah)*khác nhau .Bốn loài đó là :
-
--Hóa Sinh (Upapàdukàh),như con sứa do "khí hóa"của bọt
nước,con đom đóm do củi mục sinh…
-
--Thấp Sinh (Sumsedajàh),những loài giun ,dếtừ nơi ẩm ướt ..
-
--Thai sinh (jaràyujàh),những loài sinh bằng bào thai
,như loài người
-
--Noãn Sinh *(Andajàh),những giống sinh bằng trứng ,như loài
cá,chim v.v..
-
Những loài sinh trên đây đều mang trong tự thể cái hình hài giả
tạm và cùng chịu chung một định luật ;Sinh,già ,ốm ,chết !
-
Rồi cứ như thế hết sinh vật này đến sinh vật khác tiếp nối nhau
sinh sản mãi ,thì đấy gọi là "Tình Thế Gian"
-
Vũ
trụ vạn hữu đã do "nhân duyên nhân quả"cấu tạo ,vậy ta biết
được rằng giữa các hiện tượng có là do những mối dây quan hệ
chằng chịt mật thiết với nhau mà không bao giờ bị đức quã?bởi vũ
trụ là một khối duy nhất : "Vạn Vật Đồng Nhất Thể"Tức có nghĩa
nói rằng trong vũ trụ gồm có tinh thần và vật chất vốn cùng một
" Bản Thể"và cùng bất biến (éternel).
-
Thật thế,muôn vạn cảnh tượng biến hiện trên thế gian này ,to như
Thái dương hệ ,nhỏ như vi trần cũng đều là hiện thân của Bản Thể
Vô Biên Tuyệt Đích .Tuy nhiên ,khi Hiện tượng giới đã hình thành
thì nó bắt buộc phải theo một công lệ "Thành ,Trụ ,Hoại
,Không..
-
Mỗi thời kỳ có hai mươi tiểu kiếp*bốn thời kỳ là tám mươi tiểu
kiếp .Mỗi tiểu kiếp có 16.800.000 năm ,80 tiểu kiếp gọi là một
đại kiếp ,tính có 1.34.000.000 năm;trải qua bốn giai đoạn dài
dặc ấy rối trở lại vô cùng tận …Địa cầu được đứng vững là nhờ
những dẫn lực của các hành tinh và các vòng "phong luân", "thủy
luân", "hóa luân và "không luân".
-
Thật ra,từ khi có con người và vạn vật trên địa cầu,đã có biết
bao lần đổi dời ,biết bao sự khủng hoảng về kinh tế,chính trị
,về phong tục ,đạo đức,về văn hóa,tôn giáo,và không kể xiếtvới
những trang sử thịnh suy,bĩ thái,lớp này chết ,lớp khác
sinh,trái đất này tan làm nhân cho trái đất khác;trong vũ trụ có
hàng triệu thế giới …biết bao nguồn sống của chúng sinh ,mỗi nơi
có khác nhau ,không tìm thấy mối hóa khứ từ đâu ,không chứng
nghiệm được những tương lai vô tận .
-
Vũ
trụ và con người cứ như dòng sông chảy xiết ra biển "Bản thể Vô
Biên",mênh mông bát ngát không ngừng ?!Nhưng,đó chỉ mới đứng về
phương diện tương đối mà nói ,còn về phương diện tuyệt đối thì
,tất cả hiện tượng vạn vật không sinh mà cũng không diệt ,cái
Bản thể Tuyệt Đích thật ra cũng không thêm ,không bớt *.Mặc
dầu hình tướng đổi dời song Bản Thể thì vẫn còn mãi (Pháp Nhi
Như thị Dhardama).Nó khác nào chất "cứng"đổi ra "lỏng",rồi
"lỏng"biến thành " hơi",dân dần biến trạng kết trở lại thành
"cứng"(..)
-
Đến đây,ta lại cần nghiên cứu để hiểu mặt trời tại sao có chất
lửa ?-Trong Kinh Lăng Nghiêm chép:Mặt trời thuộc về "hóa
đại"(chất lửa)do nhân duyên kết cấu .Ta hãy lấy một ví dụ để
chứng minh cho sự thật này :giữa lúc nắng về buổi trưamùa hè ,ta
lấy một ít bông gòn đểdưới một cái kính hiển vi thường
(loupe)hay tối tân (microscope électronique)rồi đem kính ấy soi
vào mặt trời lúc lâu thì thấy hốc khói và có lửa phát hiện .Như
vậy là "chất lửa"vốn có khắp trong vũ trụ ,cùng với các chất
đất ,nước,gió …Nói tới đây,ta cũng không quên tìm hiểu mặt trăng
?Đức Phật dạy :Mặt trăng thuộc "thủy đại"(chất nước"nên ánh sáng
phản xạ của mặt trăng trong trẻo ,mát mẽ .Thực nghiệm ,-ta lấy
một cái đĩa để dưới một cái kính "phương chư"bằng thủy tinh
(cristal) rồi soi vào giữa mặt trăng trong những đêm 15,16 âm
lịch thì ta sẽ thấy có nước nhỏ từng giọt xuống đĩa..
-
-
*
Nhân Sinh Quan
-
"Tất cả sự vật dù hữu hình hay vô hình ,tâm hoặc cảnh ,đều do
nhân duyên kết hợp và chỉ là những ảnh tượng mê lầm của nghiệp
thức biến hiện"
-
Với "Vấn Đề Nhận Thức "và "Vũ Trụ Luận "như đã trình bày ở
những trang trên ,đã giúp bạn có một chính kiến.Theo đạo Phật
,vũ trụ vạn hữu biến hóa sinh thành do sự tổ hợp của nhiều nhân
duyên …;và đã do nhân duyên tạo thành ,tất nhiên ,đạo Phật phủ
nhận những định thuyết dưới đây :
-
1..Vũ trụ bị chi phối bởi một "đấng Sáng Tạo",con người cũng do
đấng ấy bàì định .
-
2..Hết thảy sự vật đều bởi "Tâm", "Ý" làm chủ
-
3..Vạn hữu do "vật chất"sinh thành,nên vạn hữu cũng hoàn toàn bị
chi phối ,thụ động.
-
Đó
là lập luận sự khởi đoan về vũ trụ vạn hữu do các thuyết DUYTHẦN
,DUY TÂM,DUY VẬT chủ trương.
-
Giờ đây ta thử tìm hiểu thuyết lý đạo Phật qua vấn đề Nhân Sinh
Quan .
-
Xác định minh thuyết ,đạo Phật lúc nào cũng lập luận duy nhất
:Vũ trụ vạn hữu được thành lập là do sự kết hợp các yếu tố làm
căn bản và cùng hỗ tương ,nhưng tất cả …đều ở trong "Bản Thể"vô
cùng tận *Con người cũng không ngoài định lý ấy .Do đó ,đạo Phật
để ra ba điểm chính cương là:
-
1..Sự Cấu Tạo sắc thân Con Người.
-
2..Giải Quyết Vấn Đề Sống ,Một Mục Đích …
-
3..Giá Trị Con Người .
-
1- SỰ CẤU TẠO SẮC THÂN CON NGƯỜI
-
Ngược dòng lịch sử,ta cần xét lại vấn đề con người bởi nguyên
nhân nào đã cấu tạo nên ?- theo thuyết "vũ trụ vạn hữu sinh
khởi"thì .con người cũng là một hiện tượng trong các
bản thể vô biên diệu dụng kia chuyển biến hình thành mà
có .
-
Từ
bao lâu nay con người đã quyên mình là một "phần tử"trong
cái "toàn thể" {bản thể vô biên ] và chấp cái "ta nhỏ
bé",tự tách mình ra khỏi cái "ta rộng lớn"trong vũ trụ
,lại dùng tâm trí nhận thức sai lầm các vật tựơng ,
nhân đó sinh ra mê vọng điên đảo ….
-
Để giải đáp sự sai lầm đó ,đạo phật với thuyết Mưồi
Hai Nhân Duyên [dvàdàsãngah pratityasamutp7dah ]rất phổ
thông và chính xác .
-
Những gì là mười hai nhân duyên ?
-
Trong kinh A HÀM [agamas] chép ; "cái này có , cho nên
cái kia có .cái này sinh cho nên cái kia sinh ".
-
Số là
-
VÔ MINH duyên hành
-
HÀNH duyên thức
-
THỨC duyên danh sắc
-
DANH SẮC duyên lục nhập
-
LỤC NHẬP duyên xúc
-
XÚC duyên thụ
-
THỤ duyên A?span>
-
ÁI
duyên thủ
-
THỦ duyên hữu
-
HỮU duyên sinh
-
SINH duyên lão tử
-
RỔI khởi phiền muộn , buồn rầu , khóc than , đau đớn …
tạo thành đại khổ .
-
Mười hai nhân duyên tiếp nối với nhau từ đời này
qua đời khác như vòng bánh xe nhân qủa tương quan
. [ mười hai nhân duyên gồm ]
-
1
. VÔ MINH [Avidyà ] : mê muội , tối tăm .chỉ cho tất
cả trạng thái quan niệm sai lầm cuả chúng sinh ,
không tự biết "vì sao mà có rồi vì đâu mà mất '. Nói
cách khác , tất chúng ta đều do VÔ MINH ám phủ cả,
ví như tấm gương sáng , chỉ một mảy bụi cũng đủ làm
giảm ánh sáng không ít .
-
Nói đến vô minh ,ta không thể nói đến chân như , vì
hai "CÁI" là một thể - Vô minh na37m trong chân
như - bản thể chân như lúc khởi thuỷ ví như mặt nứơc
phẳng , nhưng nay có sóng . mặt nước đã sóng thì xao
động , thế là sóng cũng là nước mà nước cũng là sóng
. cũng như nói , không có không gian thì không có
hiện tượng . đó là thuộc về hoặc . vì đã có hiện
tượng nên phải chuyển biến với công năng , nghiệp lực
, tinh thần hay vật chất đều theo một quan động mà
ảnh hưởng lẫn nhau . sự vật biến hoá mãi là liên
quan theo luật chuyển dịch cuả hành nghiệp .
-
2.
HÀNH [ samskarah] : hành động , tác động . có hành động
là [ bắt nguồn ] bởi tư tường phát sanh , do đó mỗi
con người mang trong tự cái " nghiệp " - nghiệp là dữ ,
mình làm mình chịu - và sự phát nguyên của nghiệp là
do "nhất niệm mê mờ" vọng khởi mà có . ta thấy rõ
ràng "nghiệp"như một sợi dây truyền cảm mà nhân qủa
thì cứ tiếp nối nhau bất tuyệt . thi hào Nguyễn du đã
cảm thông đựơc chữ [Nghiệp ] trong đạo phật một cách
quán triệt . tiên sinh viết .
-
"
Đã mang lấy nghiệp vào thân
-
Cũng đừng trách lẫn trời gần ,trời xa"
-
Nói khác,nghiệp là do thân ,khẩu ,ý của chúng sanh gây ra để
phải nhận lấyquả báo luân hồi .
-
Ghi chú,--Chữ "Nghiệp"(Karma).Nghĩa là tạo tác,hành động .
"Ý"suy nghĩ , "miệng"nói. "thân"hành động,…tức chỉ tất cả hành
động cố ý của một sinh vật do ba nghiệp (thân ,khẩu ,ý)ảnh hưởng
lẫn nhaurồi cảm thành vết tích,thành thói quen,tạo nên nguồn
sống dục vọng di truyền,trong kinh thường gọi là "Dẫn
Nghiệp"(tức dẩn lực của nghiệp)hay "Nghiệp thức".Nói theo từ ngữ
bây giờ thì gọi là Nguồn Sống.Tất cả hiện tượng trong vũ trụ
-bao gồm các sinh vật và các cảnh vật thiên nhiên ,như
núi,sông,cây cỏ,đất đai,trăng,sao,nước,lửa,không khí.-đều do
Nghiệp Thức tạo tác cả.Nghiệp chia ra "nghiệp chung"(cộng
chung)và " Nghiệp riêng"(biệt nghiệp).
Nghiệp chung
. Chỉ các loài sinh vật (trong đó có con người )hiện sống trên
địa cầu ,đều phải chịu chung các kiếp vận như nhau:
-
A?asàyah:Mệnh Trược=kiếp người đau khổ.
-
Drstikasayah:Kiến Trược=nhận thức sai lầm.
-
Klésakasàyah:Phiền Não Trược=tâm địa xấu xa.
-
Sattvakasàyah:Chúng Sinh Trược=chúng sinh ác độc.
-
Kalpakasàyah:Kiếp Trược=cuộc sống ngắn ngủi.
-
Và
còn biết bao nổi khổ triền miên khác ,như Sinh,Già,O᭬Chết,về
thiên tai "nước lụt",động đất "lửa cháy,chiến tranhv.v..
-
Nghiệp riêng : Mỗi loài có những "tính sống"riêng biệt ,hoàn
cảnh riêng biệt .Như cá thì bơi dưới nước ,chim bay trên không
,con người và các loài muôn thú sống trên đất cạn và các nơi
rừng rú…Tuy nhiên ,con người,có những ưu điểm đặc biệt hơn các
loài khác :con người tự làm chủ mình ,làm chủ cuộc sống và hoán
cải hoàn cảnh chung quanh ,tùy nghiệp lành ,nghiệp dữ do con
người tự quyết định lấy .
-
Nhưng nghiệp do đâu mà có ?Cái "Ngã"một hòa điệu tinh thần và
vật chất do thân "ngũ uẩn'(Pànchaskhandha) tức sự hoạt động của
"thân"và "tâm",lĩnh thụ bởi cảm xúctrong tâm và ngoài cảnh ,phát
sinh những cảm giác;và vì sự mê lầm tiềm tàng tự thân của mỗi
vật tự phát động và không cần sự can thiệp của bất cứ năng lực
nào.
-
Nghiệp là chủ động lực của mọi vấn đề .Mọi vấn đề cũng do Nghiệp
phát sinh ,tồn tại hay tiêu diệt .
-
"Không phải ở trên không trung ,không phải ở giữa đại dương
,không phải ở trong thâm sơn ,cũng không phải ở một nơi nào
người ta có thể tránh được nghiệp báo".-Dhammapada,127-
-
Những hiện tượng thế giới đều do Nghiệp phát động mà cảm ứng .Ta
có thân thể như bây giờ đều do đời trước tạo nghiệp mà sinh ,rồi
cứ luân hồi ,nhân quả nối tiếp từ quá khứchạy suốt hiện tại sang
vị lai …biến hiện thiên hình vạn trạng ,tùy nghiệp thụ báo để
phải chịu lấy vô lượng cực khổ ,nếu con người mãi mê lầm tạo
nghiệp .Bởi vậy dưới Hành có Thức.
-
So
với nhân quả trong ba đời thì Vô Minh -Hành là nghiệp nhân quá
khứ và làm nhân làm duyên để kết sinh chịu quả trong đời hiện
tại ,
-
3- THỨC (Vijnànam):
bởi sự mê mờ và hành dedộng kết thành Nghiệp Thức;phân biệt sai
lầmmà sinh ra vui buồn,thương tiếc…Nghiệp thức con người khác
nào như luồng điện tản mát khắp nơi …,;thân "tứ Đaị"* Ví như
dòng điện ,khi đủ điều kiện nhân duyên ,như ,dây ,bóng,…ta bật
sẽ thấy điện phát ra ánh sáng.Còn ánh sáng ấy mạnh hoặc yếu cũng
như màu nó xanh ,hoặc đỏ là do bóng đèn to ,nhỏ và tùy thuộc ở
màu xanh hay màu đỏ ;nhưng không ngoài điện tính…Cũng thế,muôn
loài vạn vật hiện hữu trong thế gian là do nhân duyên giả hợp mà
thành ;con người sinh ra đời là bởi tinh huyết của người cha và
người mẹ hòa hợp ,kết đọng lại mà tạo nênn cái "xác thân giả
tạm".Nhưng,như vậy ,chưa đủ;con người còn phải có suy nghĩ ,cảm
giác,lĩnh thụ mới trở thành "con người hoàn toàn "-con người
sống động .
-
Trong cuộc hành trình của con người :khi sống hay lúc chết đều
do nhân quả hành vi tự thân tạo tác;con người đẹp hay xấu
,ngutối hoặc thông minh ,sung sướng hay khổ sở,không do ai cầm
đầu dẫn dắt và thường phạt cả !Mà chính là do tự thân gây
"Nghiệp" "nhân"và "duyên"để rồi nhận lấy "quả báo"hoặc thiện
hoặc ác…
-
Ta
hãy lấy một ví dụ làm chưng minh :
-
(Nghiệp) - Avà B (anh hay chị)cùng là con người.Nhưng con người
A khác con người Bvề tâm trí,về nét mặt,về hình thể,tầm vóc
cao,thấp,nam hoặc nữ ,đẹp xấu,thiện và ác…
-
(Nhân ) _ A rất chăm học ,B thì lười ,biếng học…
-
(Duyên) _ Cả A và B đều được cha mẹ thương yêu ,nuôi nấng,cho ăn
học ,sắm quần áo,xe cộ và bút,mực,sách vở để không bị thua kém
với chúng bạn …
-
(Quả) _ A chịu khó học tập nên kết quả là A biết chữ và thi đậu
.Còn B ,trái lại …Ta không nên có thành kiến sai lầm cho rằng
:Bộ óc là sản phẩm của tư tưởng ,cũng đừng bao giờ quan niệm
tinh thần (ý thức) có trước vật chất …Theo đạo Phật ,những
thuyết lý nào thiên một bên đều là sai lầm.Dù tinh thần hay vật
chất thì cũng đều do các yếu tố công năng từ Bản Thể sinh ,rồi
tồn tại và hủy diệt .Con người phải đủ hai phần "tinh
thần"(thân thức do Nghiệp của mỗi con người đã tạo )và "vật
chất"(thân tứ đại giả hợp",nếu lìa một trong những "chất ấy"con
người sẽ chết;nhưng không có nghĩa chết rồi là hết ,mà chỉ là
thay đổi hình tướng,ví như điện.
-
Sự
thật(như trên)cho ta thấy :khi Hành Nghiệp đã kết quả thì tự thể
nó phải ôm mang lấy .Vô minh và hành động (Nghiệp Lực)đi đến một
nơi nào đó để nhận chịu một cái thân quả báohoặc thiện ,hoặc
ác..
-
Nhìn chung vào pháp giới thì ,con người chỉ là một chủng loại đã
có một trình độ tiến triển tương đương .Caohơn con người ,là
Phật ,Bồ Tát .Thấp ,là các loài hạ đẳng động vật.Do đó,đạo Phật
chia ra mười pháp giới:
-
1_
Phật (Buddha) : đấng Đại TRí,Đại Đức và Đại Hùng .Trong mười
phương các quốc độ chỉ cóđức Phật là trên hết .Đứng về phương
diện con người mà nhận xét ,ta thấy : "Trí"Phật là trí bát nhã
(prajnã),sáng suốt bao la vô cùng tận . "Đức" của Phật là vô
lượng vô biên ,cao cả:Vô Thượng. "Hùng" hay là "Lực" của Phật
tu chứng đến chổ Hoàn Toàn Trong ,Hoàn toàn Sáng;diệt tận sinh
tử ,phiền não,nhiễm ô .Đức Phật có đầy đủ ba đặc tính Trí Đức
Hùng ,do đó (mạcứu độ cho hết thảy chúng sanh trong ba cõi …Nhờ
vào ba "đức" ấy ,tất cả chúng sanh sẽ chuyển hóa đuợc tâm hồn
xấu xa thành tốt đẹp ,sáng láng…Đó là chính nghĩa;
-
-
ĐẠI TRÍ
-
-
ĐẠI ĐỨC
-
-
ĐẠI HÙNG
-
Cho nên ,cảnh giới của chưư Phật là cảnh giới Tự Tại Giải
Thoát,là chân lý tuyệt đối .
-
2_
Bồ Tát (Boddhisattava) : Những vị giác ngộ sắp được như Phật ,do
tu "Lục Độ ,Vạn Hạnh"mà chứng thánh quả .
-
3_
Duyên Giác (Pratyekabuđdhi) : ngôi vị này hãy còn kém so với Bồ
Tát;tu quán pháp "Mười Hai Nhân duyên "mà được chứng quả.
-
4_
Thanh Văn (Sràvaka) : bậc giác ngộ ưa hưởng cảnh giới Niết Bàn
(Nirvàna),gần tương đương với Duyên Giác ,song trí tuệ có phần
kém ;tu theo phép "Tứ Diệu Đế".Cùng tột của địa vị này là chứng
thánh quả A La Hán (Arahat).
-
5_
Trời (Dévasura) : Chư thiên ở các từng trời trong các cỏi Dục
Giới người ,Sắc Giới và Vô Sắc Giới*
-
6_
Người (Manusya) : Chỉ chung tất cả loài người ở trong một thế
giới trung bình ,không quá khổ như địa ngục ,không vui sứớng nhu
ở thiên đường ,và không ngu si như các loài muông ,thú…,nên sự
tu đạo cũng dễ dàng tiến ích.
-
7_
A Tu La (Asura) : Những loài quỉ giống như loài người _ con
người thoát xác _rất tàn bạo ,giận dữ,giết chócvà dâm dục …
-
8_
Địa Ngục (Narskanitaya) : chúng sinh ở cõi đầy tội lỗi ,tối tâm
,đau khổ…
-
9_
Ngã Quỉ (Preta) : những loài đói khát ,đi lang thang khắp "xó
chợ đầu đường "kiểm miếng ăn ,manh áo mặc!!!
-
10_ Súc Sinh (Tiryagyoni) : các loài súc vật v.v..,
-
Tuy chia ra mùi pháp giới chỉ là để đo trình độ tu chứng cao
thấp của mỗi giới.Nếu xét theo quan niệm bình đẵngthì "Bản Thể
Nhất Như".
-
Với cặp mắt sáng ngời đợm vẽ từ bi ,đức Phật đã nhìn ,tha36y và
hiểu rõ chúng sinh ,từ thuở nào vẫn luân hồi trong sáu ngả?
(Trời,Người,A Tu La,Địa Ngục,Ngã quỉ,Súc sanh )mà chẳng biết lối
thoát !Đức Phật đã lắng nghe và hiểu suốt tâm trạng nổi vui
,buồn ,đau khổ của chúng sinh ,nên ngài thường khuyên các đệ tử
,hãy luôn sống bên người ,gần vật để sang sẻ?224; ban bố tình
thương "cho vui,cứu khổ"đến tất cả muôn loài ,và hãy sống nhập
một (trọn vẹn )với bản thể vô biên tuyệt đích…
-
Trong mười pháp giới chỉ khác chổ mê và ngộ .
-
*- Mê là chúng sinh .
-
*-
Ngộ là Bồ Tát,Phật.
-
Nếu đứng về phương diện con người mà xét thì ,đức Phật cũng là
một Người,nhưng là một Siêu nhân ,đã tu chứng giác ngộ thành
Phật ,một trong những vị Phật đã thành là đức Thích Ca Mâu Ni
,còn chúng sinh thì vẫn cứ là chúng sinh ,nếu không chịu tu
tiến.
-
Đức Phật là đấng Giác Ngộ Viên Mãn ,là Người đã đạt đến chỗ cao
tột của nhân sinh ,mà Bồ Tát Duyên Giác hay Thanh Văn ,là những
bậc còn phải dõi bước và còn phải tiến nữa ,để đến chổ tuyệt đối
như Phật .Con người có thể tiến lên địa vị ấy ,nếu biết hướng
theo đường sáng do đức Phật đã vạch ra .Trái lại ,không chịu tu
hay không chịu làm phúc thì con người sẽ mãi đau khổ u tối,mặc
cho nghiệp lực cuốn trôi ,triền miên trong vòng mê luân sinh tử
xoay vần ,chẳng biết đến bao giờ là ngày chung kết!
-
THỨC,một chi quả thứ nhất thuộc đời hiện tại.
-
4_DANH SẮC(Nàmarùpam) :
"Danh"là một danh từ trừu tượng như Thụ ,Tưởng,Hành,Thứcuẩn
,không có hình ảnh ,chỉ là trạng thái chiều theo cảnh giới mà
hiển hiện ; "Sắc"tức hình tướng vật thể vô tri có trạng thái tự
tiêu hoại do sức lạnh ,nóng của thời tiết .Nhưng đây chủ yếu nói
về sắc uẩn là do sự phối hợp của bốn Đại
-
:Đất(Prthividhàtuh),Nước(Abdhàtuh),Lửa(Tejodhàtuh),Gió(Vàyadhàtuh)tức
chỉ cho tổng báo thân của loài hửu tình ,từ khi còn trong thai
trạng ,và dần dần sinh trưởng …Vậy "có Nghiệp Thức là có sự luân
chuyển ,nên khi Tâm thức chuyển sự sống sang kiếp khác (con
mình).
-
Tâm(Danh) phải nương vào vật (Sắc)là tinh huyết cha mẹ ,để sự
sống được nẩy nở ,tồn tại"
-
Con người là loài sinh mệnh có tư tưởng ,trí tuệ ,nhưng do những
yếu tố nào kết hợp tạo thành ?-Đạo Phật quan niệm con người cũng
như các loài có cảm giác ,thức tính đều do luật tiến hóa của vũ
trụ với một trình độ nào …*và do Ngũ Uẩn kết hợp thành thân.
-
Đức Phật dạy :
-
"…Này các tỳ khưu,có ba sự hòa hợp mà một bào thai thành hình .Ở
đây cha mẹ có giao hợp và người mẹ không có thể thụ thai ,và
hương ấm (gandhabba)** không hiện tiền ,như vậy bào thai không
thể thành hình .Ở đây cha và mẹ có giao hợp và người mẹ trong
thời có thể thụ thai ,nhưng hương ấm (gandhabba)không hiện tiền
,như vậy bào thai không thể thành hình .Và này các tỳ khưu ,khi
nào cha mẹ có giao hợp và người mẹ trong thời có thể thụ thai
,và hương ấm có hiện tiền có ba sự hòa hợp như vậy ,bào thai
mới thành hình .Rồi này các tỳ khưu,người mẹ trong chín hay mười
tháng mang bào thai ấy ,với sự lo âu lớn đối với gánh nặng ấy
.Rồi này các tỳ khưu ,sau chín hay mười tháng ,người mẹ sinh
đẻ,với sự lo âu lớn đối với gánh nặng ấy .Khi đã sinh ,người mẹ
nuôi (hài nhi ấy)với máu của mình .Này các tỳ khưu ,trong luật
của bậc thánh ,sữa của người mẹ được xem là máu .Này các tỳ khưu
,đứa trẻ ấy ,sau khi lớn lên ,sau khi các căn đã thuần thục
,chơi với những trò chơi dành cho các trẻ như như với cái cày
nhỏ,chơi đánh khăng chơi nhảy lộn nhào ,chơi chong chóng ,chơi
với đồ đong bằng lá ,chơi xe con ,chơi cung nhỏ .Này các tỳ khưu
,đứa trẻ sau khi lớn lên ,sau khi các căn được thuần thục ,thụ
hưởng đầy đủ năm món dục lạc ,các sắc do nhãn nhận thức,sắc này
khả ái ,khả hỷ ,khả lạc,khả ý,khích thích lòng dục ,các tiếng do
tai nhận thức …các hướng do mũi nhận thức …các vị do lưỡi nhận
thức …các xúc do thân cảm xúc ,các xúc này là khả ái ,khả hỷ
,khả lạc,khả ý,khích thích lòng mẹ .
-
Khi nó thấy sắc với mắt ,nó tham ái đối với hảo sắc ,nó ghét bỏ
đối với ố sắc,nó sống niệm không an trụ trên thân ,với một tâm
nhỏ mọn .Nó không không như thật biết tâm giải thoát ,tuệ
giải thoát ,chính nhờ chúng mà các ác bất thiện pháp của nó được
trừ diệt một cách hoàn toàn .Như vậy,đối với thân sơ (thuận
nghịch) nó cảm thụ ,nào khởi lên lạc thụ ,khổ thụ ,hay bất khổ
bất lạc thụ ,nó tùy hỷ ,hoan nghênh ,tham trược thụ ấy .Vì tùy
hỷ ,hoan nghênh ,tham trược ,cảm thụ ấy ,nên hoan hỷ sinh.Có tâm
hoan hỷđối với những cảm thụ ấy ,tức là chấp thủ .Do duyên thủ
,hữu sinh ,do duyên hữu ,sinh sinh khởi.Do duyên sinh ,lão tử
,sầu,bi,khổ ,ưu,não,sinh.Như thế là sự tập khởicủa toàn bộ khổ
uẩn vậy .Khi nó nghe tiếng với tai ….(như trên)…khi nó ngửi
hương với mũi…(như trên)…khi nó nếm vị với lưỡi …(như trên)khi
nó cảm xúc với thân …(như trên )…khi nó nhận thức pháp với ý ,nó
tham ái đối với hảo pháp ,nó ghét bỏ đối với ố pháp .Nó sống
niệm không an trụ trên thân ,với một tâm nhỏ mọn .Nó không như
thật biết đến tâm giải thoát ,tụê hiải thoát ,chính nhờ chúng mà
các ác ,bất thiện pháp của nó được trừ diệt một cách hoàn toàn
.Như vậy đối diện với thân sơ (thuận, nghịch) ,nó cảm thụ nào
khởi lên lạc thụ ,khổ thụ ,hay bất khổlạc thụ ,nó tùy hỷ ,hoan
nghênh ,tham trược cảm thụ ấy,nên hoan hỷ sinh .Có tâm hoan hỷ
đối với những cảm thụ ấy,tức là chấp thủ .Do duyên thủ,hữu
sinh.Do duyên hữu ,sinh sinh khởi.Do duyên sinh,lão
tử,sầu,bi,khổ,ưu,não sinh.Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ
uẩn này."*
-
Danh sắc một chi quả thứ hai thuộc đời hiện đại .
-
5. LỤC NHẬP (Sadàyatanam) :
một khi "sự sống đã được nảy nở tồn tại (kết thai) thì 6 quang
năng tức sáu căn thành hình(bào thai)".
-
Trong khi Danh và Sắc kết hợp tạo nên thân thể con người-một con
người hoàn toàn sống động .
-
6
quan năng là:
-
1.
Mắt(Caksurindriyam):nhãn căn .
-
2-
Tai (Srotrendriyam):nhĩ căn .
-
3-
Mũi(Ghrànendriyam):tỷ căn .
-
4-
Lưỡi(Jihvendriyam):thiệt căn .
-
5-
Thân (Kày yendriyam):thân căn .
-
6-
Ý (Manadriyam):ý căn .
-
Đối tượng và giao tiếp với 6 trần:
-
1-
Sắc:Rùpam(những hiện tượng có hình sắc)
-
2-
Thanh :Sabdah(các âm thanh )
-
3-
Hương :Gandhah(mùi thơm)
-
4- Vị :Rusah (chất chua,cay..)
-
5- Xúc:Sprastavyam (sự va chạm giữa thân thể và vật cảnh)
-
6-
Pháp: Drarmas(những tư tưởng về quá khứ,hiện tại,vị lai)
-
(…
"do duyên thứcsinh,và thức ấy có tên tùy theo duyên ấy.Do duyên
mắtvà các sắc,thức sinh ;và thức ấy có tên là nhãn thức .Do
duyên tai và tiếng ,thức sinh ;và thức ấy có tên là tỷ thức.Do
duyên thân thức.Do duyên ý và pháp ,thứcsinh;và thức ấy có tên
là ý thức") - Mahatanhàsankhàya suttam xxxvììi-A? Tập Đại Kinh
,trang 259A.
-
Và
vì có sự tương hợp của quan năng với cảnh trần nên liên hệ tới
sự xúc động (xúc giác). ٠
-
Lục Nhập ,một chi quả thứ ba thuộc đời hiện tại .
-
6- XÚC (Sparsah) :
Cảm trạng .Sự tiếp xúc của 6 quan năng đối với cảnh vật .Sau khi
đứa bé đã sinh, độ1,2 tuổi ,sáu căn non nớt va chạm với sáu trần
tạo nên cảm xúc,như:đói nó biết tìm vú mẹđể bú ,lạnh biết núp
vào lòng mẹ ,nhưng chỉ là làm theo tính bản năng chứ chưa nhận
biết :vui, buồn,tốt ,xấu,v.v…vì chứa đủ lý trí để phân biệt
,nhận lĩnh ,cảm thụ một cách rõ ràng .
-
Xúc,một chi quả thứ tư thuộc đời hiện tại .
-
7- THỤ(Vedanà) :
Cảm giác,lĩnh thụ .Khoảng từ 3,4 tuổi đến 12,13 tuổi là thời kỳ
con người bước qua một giai đoạn khác .Con người đã biết nhận
thức trướcmọi cảnh:thuận,nghịch,những vật gì vừa ý muốn thì sinh
lòng lĩnh thụ ,trìu mến. Vật,trái với ý muốn mình thì ghét
,bỏ…Vì thế,có sự vui ,buồn ,yêu thương ,ghen ghét,đam mê,giận
dữv.v..
-
Thụ ,một chi quá thứ năm thuộc đời hiện tại.
-
(Nghiệp nhân quá khứ là Vô Minh và Hành do mình đã tạo đời này
,nó kết thành 5 qua chín :Thức,Danh Sắc,Lục Nhập ,Xúc và Thụ để
báo đáp lại 2 nhân kia (Vô Minh ,Hành),Nên 5 chi này cũng gọi là
quá hiện tại ).
-
8- ÁI (Trsnà) :
Tình yêu ,do ý thức nhận được liền nảy sinh tư tưởng ưa thích
(quen nết),Từ 14 ,15 tuổi đến 18,19 tuổi ,thân thể con người mỗi
ngày một nở nang ,thường gọi là "tuổi dậy thì",nên sự ham thích
cũng rất bồng bột ,đã biết nhìn cái đẹp thiên nhiên , và yêu tha
thiết những gì liên quan tới đời sống hàng ngày ,nên sinh lòng
đắm đuối trong năm món dục lạc *gần như cuồng loạn ;khoảng thời
gian 7,8 năm - từ 13 đến 19 tuổi - con người đã cảm thụ biết bao
cảnh tốt ,xấu ,vui, buồn,thương yêu ,ghét ,muốn,…tạo thành một
tư tưởng hổn tạp .Cái gì không hợp với mình thì chán ,ghét,cái
gì hợp thì yêu mến ,chiều chuộng ,vì thế,dưới Ái liên quan đến
Thú.
-
Chi
nhân thứ nhất thuộc đời hiện tại .
-
9- THÚ (Upâdànam) :
Từ
20 tuổi trở đi ,aí dục càng mạnh ,saú căn càng phóng túng chạy
theo sáu trần .Thú,nghĩa là lấy ,mong lấy ,giữ lấy .Tôi thích
cái hoa,khi được cái hoa thì tôi giữ lấy .Những cái gì đã yêu
thích (lẽ tất nhiên)phải tìm lấy cho được .Trong các thứ lấy ấy
cũng có việc lành việc dữ để thỏa nguyện vọng nhu cầu .Vì trong
đời hiện tại đã gây nhân ,hoạt động các việc thiện và ác nên đời
sau phải chụi quả báo .Do đó ,dưới Thú và Hữu .
-
Thú ,một chi nhân thứ hai thuộc đời hiện tại .
-
10- HỮU (Bhavah) :
Bởi có Ái và Thủ nên mới có Hữu.Hữu là có (cũng có nghĩa là cõi
).Nhưng có cái gì ?- Có nhân tất có quả :có
sinh,già,ốm,chết…,tùy theo nhân quả ,hành vi thiện hoặc ác của
mỗ䩠người đã gây nhân trong đời hiện tại ,tất nhiên mai sau sẽ
hái quả tốt hay xấu …Vì có ham muốn ắt phải nhận lấy quả báo mà
kết sinh tương tục trong 3 cõi (Dục giới- Kàmadhàtuh,Sắc giới-
Rupadhàtuh,Vô sắc giới- Arùdhàtuh), 6 đường (Trời,Người,A Tu
La,Địa Ngục,Ngã Quỷ,Súc Sinh).Bởi vậy dưới Hữu có Sinh .
-
Hữu,một chi nhân thứ ba và cũng là nhân cuối chót thuộc đời hiện
tại .
-
(Trong khi ta đang mang nơi mình 5 chi :Thức, Danh Sắc,Lục
Nhập,Xúc,Thụ ,(quả hiện tại )đã lại tạo luôn cho 3 chi :A?hủ
,Hữu (nhân hiện tại)- ,để rồi một thời gian sau phải hái lấy quả
báo :Sinh và Lão tử ở vị lai).
-
11- SINH (Jàtih) :
Sinh mệnh con người có hai phần (tâm và sắc):gồm sinh lực,thể
chất và tinh thần ,sống còn trong khoảng thời gian dài ,ngắn…đều
do Hành Nghiệp quyết định .Vì A?ủ,Hữu mà Sinh vào kiếp khác
(nhân quả về sau trong các cõi thụ sinh).Sinh ,nghĩa là
"sống",chỉ cho máu chạy ,tim đập ,ý nghĩ,trí biến của mỗi sinh
vật do đời trướcgây nhân lành hay dữ,tất nhiên Nghiệp Thức của
mỗi loài đã tạo ra nó sẽ phản ảnh lại:
-
Tư
tưởng hành vi của con người "thiện"sẽ tạo cho xã hội những
hoàn cảnh đẹp .
-
Tư tưởng hành vi của con người "ác"sẽ tạo cho xã hội những ảnh
hưởng xấu .
-
Xã hội loài người tùy Nghiệp của mình đã tạo ra và luôn luôn
chuyển biến,huân tập lấy chủng tử (Bijà) (hạt giống của mỗi vật
thể có công năng sinh khởi ra nghiệp quả ) để khi gặp cơ duyên
thuận tiện sẽ phát khởi hiện hành (những hình tướng hiện thực
và hành động ).Ví dụ.-A quen thân với B là do trước kia sẵn có
nhân duyên với nhau .Nhưng ít lâu sau A không đủ hoàn cảnh sinh
sống với B ;nên A đã đi làm ăn nơi khác(nghĩa là ,khi A chết sẽ
thai sinh ở một kiếp nào khác…),
-
Không bao lâu B cũng bị túng thiếu không thể ở quê hương được
nữa ;B lại không quen ai hơn A- hai người rất có thiện cảm,đã
từng chung sống và giúp đỡ nhau khi trước - ,do đó B quyết định
tìm đến chỗ A để nhờ vả (nghĩa là ,B đã chết khi nghiệp thứcđi
đầu thai sẽ tìm đến chỗ nào, nơi nào…mà mình đã gây nhân duyên
hợp với tâm lý ,tình cảm và tập quán của một quá trình sống..
-
Trong vũ trụ có hằng hà sa số thế giới có những chủng loại y
báo,chính báo khác nhau ,nhưng cùng chịu chung một định luật
:Thành .Trụ ,Hoại ,Không* .Nghĩa là từ khi thế giới sơ thành tới
khi tàn lụi (không còn là thế giới nữa);trong bốn thời kỳ dài
dặc ấy tính có hằng bao nhiêu triệu triệu năm ..
-
Gần đây ,nhà bác học William THOMPSON (1824 - 1907 )đã có những
giả tưởng : "Sinh vật đầu tiên có trên địa cầu là do những sinh
vật khác từ một vài tinh tú chuyển sang ….*.
-
Theo luật "thành ,trụ ,hoại ,không"thì con người đã trải qua
bao nhiêu hưng vong ,thay đổi ,lớp này chết lớp khác sinh ,sinh
sinh hóa hóa mãi như thế ,bây giờ làm sao tìm được cái dấu tích
mà ta gọi là "con người nguyên thủy - dù các nhà nhân chủng học
có cố nghiên cứu ,tìm tòi mấy đi nữa cũng chỉ chứng minh cho lớp
người về một thời gian nào đó mà thôi .Hiểu được định lý ấy rồi
,ta mới không lấy làm lạ về những sự xảy ra trong lịch sử,hay
những điều phát minh mới lạ mà người ta cho là thần thánh ,thực
ra không mấy quan tâm .Và cũng chẳng có gì đáng làm cho ta phải
ngạc nhiên kinh hoảng ?!
-
Sinh,một chi quả thứ nhất thuộc về vị lai.
-
12. LÃO TỬ (Jaràmaranam) :
cuối cùng đưa đến sự già, chết;khi thân thể con người đã suy yếu
:một ngày nào đó sức lực đã kiệt vì già,ốm,tất nhiên con người
phải chết .Vì chết nên phải lo âu ,đã lo âu tất sinh ra khổ não
…và cứ thế theo công lệ nhân quả luân hồi do mình đã tạo .Nhưng
có diều ta nên nhớ :Chết chỉ có nghĩa thay đổi hình tướng _ từ
hình tướng này chuyển sang một hình tướng khác _Thực ra,nghiệp
thức con người chẳng mất đi đâu ;khác nào như luồng điện sẽ qui
về bản chất của nó _ người chết _ đến khi đủ nhân duyên ,điện sẽ
trở lại sáng _ con người tái sinh _.
-
Sự
sống và sự chết của người ta cũng như buổi hoàng hôn rồi dần lại
tiếp buổi bình minh …
-
Vậy sống _ chết là định luật tất nhiên .Có sinh phải có diệt
.Tất cả hiện tượng trong trời đất cũng phải theo định luật ấy
.Ta tạm lấy một ví dụ để chứng minh :Anh A là người _ Tất nhiên
anh A phải có lúc chết . vì có sinh phải có diệt .
-
Lão tử,một chi quả thứ hai thuộc đời vị lai .
-
Mười Hai Nhân Duyên theo định luật nhân quả * ba đời :Vô
Minh,Hành,hai chi nhân thuộc quá khứ để chiêu cảm năm chi quả
hiện tại :Thức,Danh Sắc,Lục Nhập,Xúc,Thụ rồi do năm chi quả này
khởi niệm ra :A? ,Thủ,Hữu làm nhân ở đời hiện tại .Và do ba nhân
kia (A? ,Thủ,Hữu)chiêu cảm mà có hai chi quả :Sinh,Lão Tử thuộc
đời vị lai .
-
Quả tạo ra Nhân ,Nhân cảm thành Quả ,ba đời nối tiếp nhau không
bao giờ gián đoạn ,như bánh xe xoay lăn,cho nên gọi là luân hồi
** Để giải thích về luân hồi (Samsàra),trong kinh Kilindapanhà
có ghi cuộc đối thoại giữa đức vua Kilinda và thánh giả Nagasena
như sau :
-
_
"Thưa đại vương ,nếu có người thắp một ngọn đèn ,ngọn đèn ấy có
thể cháy suốt đêm được không?
-
_
Bạch Ngài,ngọn đèn có thể cháy đến sáng.
-
_
Vậy ngọn đèn lúc canh một có phải chính là ngọn đèn lúc canh hai
?
-
_
Bạch Ngài,không.
-
_
Ngọn đèn lúc canh hai với ngọn đèn lúc canh ba có phải cũng là
một không ?
-
_
Bạch Ngài cũng không phải .
-
_
Vậy thì ,canh một có một ngọn đèn ,canh hai có một ngọn đèn khác
,và canh ba ,một ngọn đèn nữa không ?
-
Bạch Ngài không phải thế ,ánh sáng suốt đêm chỉ là do một cây
đèn tỏa ra mà thôi .
-
_
Thưa đại vương ,sự cảm giác bất biến ở một con người
hay ở một chúng sinh khác cũng như thế .Con người phút này sinh
thì con người phút khác diệt ,nhưng con người ở phút sau không
phải con người ở phút trước ,nhưng cũng không phải khác với con
người ở phút trước . "(phi nhất phi dị)
-
Mười Hai Nhân Duyên theo vòng tròn tượng trưng bằng bánh xe nhân
quả tương quan ,như đồ biểu trang bên:
-
Dưới hình thức 12 nhân duyên còn có bộ ba :Hoặc _Nghiệp _ Khổ*
-
Ví
dụm :Anh B say rượu (Hoặc)ra đường gây chuyện đánh nhau với anh
C(Nghiệp ).Sau,anh C đem chuyện này trình nhà chức trách ,anh B
bị đòi hầu tòa về tội đánh người trái phép và bị xử phạt ,ở
tù,khổ sở (Khổ).
-
Sở
dĩ chúng sinh vẫn mãi bị khổ đau ,phiền não ,sinh tử là do Vô
Minh,mê tối,nên mới tạo Nghiệp vọng đọng (Hành,Thức)mà có thân
ngũ uẩn (Danh,Sắc)rồi sáu căn (mắt ,tai mũi, lưỡi ,thân,ý)tiếp
xúc với sáu trần (sắc,thanh ,hương,vị,xúc,pháp)(Lục Nhập )sinh
cảm giác,lĩnh thụ (Thụ)thì nảy sinh lòng ham muốn ,ưa thích
(A?ồi ham muốn chấp giữ ,tạo thành thói quen (Thủ) .Vì đã gây
nhân tham ái phải nhận lấy quả báo (Hữu).Do có A?hủ,Hữu sẽ phải
sinh ra trong đời sau (Sinh)và tiếp tục nhận chịu những cảnh khổ
,giả và chết (Lão Tử).
-
Muốn thoát luân hồi sinh tử thì ta phải đi ngược lại mười hai
nhân duyên .Nhưng làm thế nào để diệt.Vô minh và đoạn Sinh tử?_
Không gây tội lỗi tức là diệt lòng tham ái ,sân hận ,si mê và tu
theo Giới. Định.Tuệ..Vì biết rằng :tất cả sự vật đều do nhân
duyên giả hợp tạo thành ,nên không thực _ đã không thực thì
"tội lỗi mê vọng"cũng không có chổ để tồn tại ,tức Vô Minh
hết;không khởi đôﮧ A?ủ,Hữu,thì trong cõi sinh tử đều đoạn .Vô
Minh diệt thì Hành diệt cho đến Lão Tử,ưu bi,khổ não cũng bị
diệt . Có như thế cuộc sống của con người (ở cõi đời này và đời
sau)mới vơi được nguồn đau khổ ,và được an lạc ,tự tại,giải
thoát.
-
Tìm hiểu thêm
-
Sự
cấu tạo hình thể con người và vạn hữu ,theo thuyết lý Mười Hai
Nhân Duyên ,ở đây,tôi lược dẫn một đoạn trong bộ Kinh MAJJHIMA
NIKAYA,tập 1:A?sp; Tập Đại
Kinh(MahàtanhàsankhàyasuttamXXXVIII):
-
"…Này các tỳ khưu ,A?#7845;y làm nhân duyên ,lấy gì làm tập khởi
,lấy gì làm sinh chủng ,lấy gì làm nguyên nhân ?A?#7845;y thụ
làm nhân duyên ,lấy thụ làm tập khởi,lấy thụ làm sinh chủng,lấy
thụ làm nguyên nhân .Này các tỳ khưu ,Thụ lấy gì làm nhân duyên
,lấy gì làm tập khởi ,lấy gì làm sinh chủng ,lấy gì làm nguyên
nhân ?Thụ lấy xúc làm nhân duyên ,lấy xúc làm tập khởi ,lấy xúc
làm sinh chủng ,lấy xúc làm nguyên nhân .Này các tỳ khưu ,xúc
lấy gì làm nhân duyên ,lấy gì làm tập khởi ,lấy gì làm sinh
chủng ,lấy gì làm nguyên nhân ?Xúc lấy lục nhập làm nhân duyên
,lấy lục nhập làm tập khởi ,lấy lục nhập làm sinh chủng ,lấy lục
nhập làm nguyên nhân .Này các tỳ khưu ,Danh sắc lấy gì làm nhân
duyên ,lấy gì làm tập khởi ,lấy gì làm sinh chủng ,lấy gì làm
nguyên nhân ?Danh sắc lấy thức làm nhân duyên ,lấy thức làm tập
khởi ,lấy thức làm sinh chủng ,lấy thức làm nguyên nhân .Này các
tỳ khưu ,thức lấy gì làm nhân duyên ,lấy gì làm tập thể ,lấy gì
làm sinh chủng,lấy gì làm nguyên nhân ?Thức lấy hành làm nhân
duyên ,lấy hành làm tập khởi ,lấy hành làm sinh chủng ,lấy hành
làm nguyên nhân .Này các tỳ khưu ,Hành lấy gì làm nhân duyên
,lấy gì làm tập khởi,lấy gì làm sinh chủng ,lấy gì làm nguyên
nhân ?Các Hành lấy vô minh làm nhân duyên,lấy vô minh làm tập
khởi,lấy vô minh làm sinh chủng,lấy vô minh làm nguyên nhân .Như
vậy,này các tỳ khưu ,vô minh duyên hành ,Hành duyên thức ,Thức
duyên danh sắc ,Danh Sắc duyên lục nhập ,Lục nhập duyên xúc,Xúc
duyên thụ ,Thụ duyên ái,A?yên thủ,Thủ duyên hữu,Hữu duyên
sinh,Sinh duyên Lão Tử,sầu,bi,khổ,ưu,não hiện hữu.Đó là sự tập
khởi của toàn bộ khổ uẩn vậy.
-
Trước đã nói : "Sinh duyên lão tử"(do duyên sinh nên lão tử hiện
khởi ).Này các tỳ khưu, sinh duyên lão tử có phải không?Hay ở
đây(nghĩa)như thế nào? "_Bạch Thế Tôn ,sinh duyên lão tử .Như
vậy đối với chúng con,(nghĩa)ở đây là thế : "Sinh duyên lão
tử"._Trước đã nói, "Hữu duyên sinh".Này các tỳ khưu,hữu duyên
sinh có phải không?Hay ở đây (nghĩa) như thế nào ? "_Bạch Thế
Tôn ,hữu duyên sinh .Như vậy đối với chúng con ,(nghĩa)ở đây là
thế: "Hữu duyên sinh"_Trước đã nói, "Thủ duyên sinh".Này các tỳ
khưu,thủ duyên hữu có phải vậy không ?Hay ở đây(nghĩa)như thế
nào? Bạch Thế Tôn ,thủ duyên hữu .Như vậy đối với chúng con
(nghĩa)ở đây là thế:Thủ duyên hữu "Trước đã nói ,A?yên thủ".Này
các tỳ khưu ,ái duyên thủ có phải không ?Hay ở đây (nghĩa) như
thế nào?Bạch Thế Tôn ,ái duyên thủ".Như vậy đối với chúng con
,(nghĩa) ở đây là thế: "A?yên thủ_"Trước đã nói, "Thụ duyên
ái".Này các tỳ khưu ,thụ duyên có phải không ?Hay ở đây
(nghĩa)hư thế nào?_Bạch Thế Tôn thụ duyên ái.Như vậy đối với
chúng con (nghĩa)ở đây là thế : "Thụ duyên ái"_Trước đã nói,
"Xúc duyên thụ".Này các tỳ khưu ,xúc duyên thụ có phải không
?Hay ở đây(nghĩa)như thế nào?_ "Bạch Thế Tôn ,xúc duyên thụ.Như
vậy đối với chúng con (nghĩạ)ở đây là thế: "xúc duyên thụ"_
"Trước đã nói: "Lục nhập duyên xúc".này các tỳ khưu,lục nhập
duyên xúc phải không?Hay ở đây(nghĩa)như thế nào?_ "Bạch Thế Tôn
,Lục nhập duyên xúc.Như vậy đối với chúng con (nghĩa)ở đây là
thế: "Lục nhập duyên xúc"_ "Trước đã nói:"Danh sắcduyên lục
nhập".Này các tỳ khưu ,danh sắc duyên lục nhập có phải không?Hay
ở đây(nghĩa)như thế nào? Bạch Thế Tôn ,danh sắcduyên lục nhập
.Như vậy ,đối với chúng con (nghĩa)ở đây là thế : "Duyên sắc
duyên lục nhập"_Trước đã nói:Thức duyên danh sắc "Này các tỳ
khưu,thức duyên danh sắccó phải không?Hay ở đây (nghĩa )như thế
nào?" "Bạch Thế Tôn ,Thức duyên danh sắc".Như vậy đối với chúng
con (nghĩa)ở đây là thế : "Thức duyên danh sắc"_Trước đã nói:
"Hành duyên thức".Này các tỳ khưu ,hành duyên thức có phải
không?Hay ở đây (nghĩa)như thế nào? "Bạch Thế Tôn ,hành duyên
thức.Như vậy đối với chúng con (nghĩa)ở đây là thế : "Hành duyên
thức"_Trước đã nói: "Vô minh duyên hành".Này các tỳ khưu,vô minh
duyên hành có phải không?Hay ở đây (nghĩa)như thế nào?_ "Bạch
Thế Tôn ,voi2 minh duyên hành .Như vậy đối với chúng con
(nghĩa)ở đây là thế : "Vô minh duyên hành".
-
"Lành thay ,này các tỳ khưu.Các người nói như vậy và Ta cũng nói
như vậy : "Cái này có tên cái kia có,cái này sinh nên cái kia
sinh ,như vô sinh duyên hành".
-
Lành thay,này các tỳ khưu .Các người nói như vậy và Ta cũng nói
như vậy : "Cái này có nên cái kia có,cái này sinh nên cái kia
sinh,như vô sinh duyên hành,hành duyên thức,thức duyên danh
sắc,danh sắc duyên lục nhập,lục nhập duyên xúc ,xúc duyên
thụ,thụ duyên ái,ái duyên thủ,thủ duyên hữu,hữu duyên sinh,sinh
duyên lão tử,sầu,bi,khổ,ưu,não cùng sinh khởi.Như vậy là sự tập
khởi của toàn bộ khổ uẩn này.Do vô minh đoạn diệt xả ly một cách
hoàn toàn nên hành diệt .Do các hành diệt nên lục nhân diệt .Do
lục nhập diệt nên xúc diệt .Do xúc diệt nên thụ diệt .Do thụ
diệt nên ái diệt .Do ái diệt nên thủ diệt.Do thủ diệt nên hữu
diệt.Do hữu diệt nên sinh diệt .Do sinh diệt nên lão
tử,sầu,bi,khổ,ưu,não đềudiệt.Như vậylà sự đoạn diệt của toàn bộ
khổ uẩn này.
-
"Trước đã nói : "Do sinh diệt nên lão tử diệt ".Này các tỳ
khưu,do sinh diệt nên lão tử diệt có phải không?Hay ở đây
(nghĩa)như thế nào ? "_ "Bạch Thế Tôn ,do sinh diệt nên lão tử
diệt.Như vậy đối với chúng con (nghĩa)ở đây là thế : "Do sinh
diệt nên lão tử diệt"_Trước đã nói : "Do hữu diệt nên sinh
diệt".Này các tỳ khưu,do hữu diệt nên sinh diệt có phải
không?Hay ở đây (nghĩa)như thế nào ?_ "Bạch Thế Tôn ,do hữu diệt
nên sinh diệt .Như vậy đối với chúng con (nghĩa)ở đây là thế :
"Do hữu diệt nên sinh diệt"_Trước đã nói: "Do thủ diệt nên hữu
diệt ".Này các tỳ khưu ,do thủ diệt nên hữu diệt có phải
không?Hay ở đây(nghĩa)như thế nào? "_Bạch Thế Tôn ,do thủ diệt
nên hữu diệt.Như vậy đối với chúng con (nghĩa)ở đây thế nào: "Do
thủ diệt nên hữu diệt"_Trước đã nói : "Do ái diệt nên thụ
diệt".Này các tỳ khưu ,do ái diệt nên thụ diệt có phải
không?.Hay ở đây(nghĩa)như thế nào?_ "Bạch Thế Tôn ,do ái diệt
nên thụ diệt.Như vậy đối với chúng con (nghĩa)ở đây là thế: "Do
ái diệt nên thụ diệt"_Trước đã nói, "Do thụ diệt nên ái
diệt".Này các tỳ khưu ,do thụ diệt nên ái diệt có phải không?Hay
ở đây(như thế nào)? "_Bạch Thế Tôn ,do thụ diệt nên ái diệt .Như
vậy đối với chúng con(nghĩa)ở đây là thế : "Do thụ diệt nên ái
diệt"
-
"-_Trước đã nói : "Do xúc diệt nên thụ diệt ".Này các tỳ khưu,do
xúc diệt nên thụ diệt có phải không?Hay ở đây (nghĩa)như thế
nào? "._ "Bạch Thế tôn,do xúc diệt nên thụ diệt .Như vậy đối với
chúng con (nghĩa)ở đây là thế: "Do xúc diệt nên thụ diệt"_Trước
đã nói : "Do lục nhập diệt nên xúc diệt".Này các tỳ khưu ,do lục
nhập diệt nên xúc diệt có phải không ?Hay ở đây( nghĩa )như thế
nào?_ "Bạch Thế tôn ,do lục nhập diệt nên xúc diệt .Như vậy,đối
với chúng con (nghĩa)ở đây là thế : "Do lục nhập diệt nên xúc
diệt Trước đã nói "Do danh sắc diệt nên lục nhập diệt ".Này các
tỳ khưu ,do danh sắc diệt nên lục nhập diệt".Này các tỳ khưu có
phải không?Hay ở đây (nghĩa)như thế nào?"_Bạch Thế Tôn ,do danh
sắc diệt nên lục nhập diệt .Như vậy đối với chúng (nghĩa)ở đây
là thế : "Do danh sắc diệtnên lục nhập diệt"._Trước đã nói . "Do
thức diệt nên danh sắc diệt".Này các tỳ khưu ,do thức diệt nên
danh sắc diệt có phải không?Hay ở đây (nghĩa)như thế nào? "Bạch
Thế tôn ,do thức diệt nên danh sắc diệt .Như vậy đố với chúng
con (nghĩạ)ở đây là thế : "Do thức diệt nên danh sắc diệt".Này
các tỳ khưu ,do hành diệt nên danh sắc diệt .Như vậy đối với
chúng con (nghĩa)ở đây là thế : "Do hành diệt nên thức diệtcó
phải không?Hay ở đây (nghĩa)như thế nào? "Bạch Thế Tôn ,do vô
minh diệt nên hành diệt".Như vậy đối với chúng con(nghĩa)ở đây
là thế : "Do vô minh diệt nên hành diệt"..Lành thay này các tỳ
khưu ,các người nói như vậy : "Cái này không có nên cái kia
không có ;cái này diệt nên cái kia diệt ,như vô minh diệt nên
hành diệt ,hành diệt nên thức diệt ,thức diệt nên danh sắc
diệt,danh sắc diệt nên lục nhập ,lục nhập diệt nên xúc diệt ,xúc
diệt nên thụ diệt ,,thụ diệt nên ái diệt ,ái diệt nên thủ diệt
,thủ diệt nên hữu diệt ,hữu diệt nên sinh diệt ,sinh diệt nên
lão tử,sầu bi khổ ưu não diệt .Như vậy là sự đoạn diệt của
"toàn bộ khổ uẩn này".
-
"Này các tỳ khưu , các người biết như vậy,thấy như
vậy,có còn chạy theo lời quá khứ ,và suy nghĩ : "Ta có mặt trong
thời quá khứ hay không có mặt trong thiời quá khứ ?Ta có mặt
trong thời quá khứ như thế nào?Ta có mặt trong thời quá khứ
,hình vóc như thế nàoTrước kia ta là gì và ta có mặt trong thời
quá khứ? "_ Thưa không,bạch Thế tôn"_ "Này các tỳ khưu ,các
người biết như vậy ,thấy như vậy ,có còn chạy theo thời vị lai
hay ta không có mặt trong thời vị lai .Ta có mặt trong thời vị
lai như thế nào "Ta có mặt trong thời vị lai ,hình vóc như thế
nàoi?Trước kia ta là gì và ta sẽ có mặt như thế nàotrong thời vị
lai ? "_Thưa không,bạch Thế Tôn "_ "Này các tỳ khưu ,các người
biết như vậy ,thấy như vậy,các ngơi có nghi ngờ gì về mình trong
thời hiện tại : "Ta có mặt hay không có mặt .Ta có mặt như thế
nào?Ta có mặt hình vóc như thế nào?Hữu tình hay từ đâu đến ?Và
rồi sẽ đi về đâu?"_ " Thưa không ,bạch Thế Tôn ."_ "Này các tỳ
khưu ,các ngươi biết như vậy ,thấy như vậy ,các ngươi có nói như
sau: "Bậc Đạo Sư quá nặng nề đối với chúng ta .Chúng ta nói vì
chúng ta tôn trọng bậc Đạo Sư"_ "Thưa không, bạch Thế Tôn"_ "Này
các tỳ khưu ,các ngươi biết như vậy ,thấy như vậy ,các ngươi có
nói như sau: "Một Sa Môn nói với chúng tôi như vậy,và còn chúng
tôi nói không như vậy (?)"_ "Thưa không ,bạch Thế Tôn"_ "Này các
tỳ khưu ,các ngươi biết như vậy ,thấy như vậy ,các ngươi có tìm
một vị Đạo Sư khác không?"_Thưa không ,bạch Thế Tôn . "Này các
tỳ khưu ,các người biết như vậy ,các người có trở lui lại cái
giới cấm ,tế tự (?)đàn tràng của các tục tử Sa Môn ,Bà La Môn
(và nghĩ rằng)chúng ta là căn bản không?_ "Thưa không,bạch Thế
Tôn"_ "Này các tỳ khưu ,có phải các người chỉ nói những gì các
người tự biết ,tự thấy,tự ý thức được ?"_ "Thưa vâng ,bạch Thế
Tôn"_ "Lành thay,này các tỳ khưu ,các người đã được ta giới
thiệu Chính Pháp ,Pháp này tự chứng hiện tại ,vượt ngoài thời
gian ,đến để mà thấy ,có khả năng hướng thuợng ,được người trí
tự thân giác hiểu .Này các tỳ khưu ,Pháp này tự chứng hiện tại
,vượt ngoài thời gian ,đến để mà thấy ,có khả năng hướng thượng
,được người trí tự thân giác hiểu.Tất cả những gì đã nói là do
duyên này mà nói".*
-
2. Giải Quyết Vấn Đề Sống ,Một Mục Đích …
-
Dưới con mắt đạo Phật ,ta thấy hai sự thật :
-
Thế Giới Là Vô Thường (anicca), Chúng Sinh Là Vô Ngã(Anattà).
-
Theo nhận định trên ,đó là biến tướng của Muời Hai Nhân
Duyên (Dvadasangahpratityasamutpadah)kết sinh tương tục ,nên
cuộc sống con người cũng chuyển dịch ,biến hóa không ngừng ,nếu
con người không sớm giác ngộ cứ mãi sống triền miên trong mê
vọng .Với tuổi thanh niên bồng bột ,can đảm ,đầy dục vọng ,nếu
người ta chỉ nhìn hạnh phúc không ngoài cơm, áo,nhà ở,sắc
đẹp,tiền tài,danh vọng,chơi bời cho phung phí ,thu hẹp đời mình
trong gang tấc,đến khi tuổi già sức kiệt ,tinh thần uể oải ,nhìn
đời với cặp mắt yếm thế ,bi quan ,lãng mạn ,buồn thảm …trông về
trước ,than ôi ! "thời oanh liệt nay còn đâu?";ngó lại sau ,thấy
toàn là đổ vỡ,sống không mục đích ,không lý tưởng hướng dẩn ,nên
dể bị cảnh vật cuốn lôi ,thì nảy sinh tư tưởng tiêu cực hoài
nghi…,chỉ còn chờ ngày xuôi tay ,tắt hơi thở .Do đó,đã sinh ra
quan niệm cho rằng con người chết rồi thì hết ,nên lúc sinh thời
,họ ăn chơi trác táng!.Ngược lại,có thuyết lại nói :Con người
chết ,nhưng "linh hồn"bất tử,và sẽ trở về chốn âm phủ .Ở đấy
người ta sẽ được gặp lại bà con thân quyến …
-
(Những quan niệm như trên đều là sai cả.Theo đạo Phật ,thì đó
gọi là "tà kiến"hay "biên kiến"vậy).
-
Nếu cuộc sống con người chỉ quan niệm trong bấy nhiêu sự kiện
,ăn mặc,ở và chơi bời phóng đãng,thử hỏi còn có nghĩa lý gì
?!Nhưng,về một phương diện khác ,cho ta thấy ,con người nếu biết
thức tỉnh ,biết phụng sự cho một lý tưởng cao đ ẹp,biết quay
lại với mình _một ý nghĩa chân thật người _,sống nhịp với bản
thể vũ trụ bao la…Nghĩa là ,chỉ khi nào người ta có được một
quan niệm rộng rãi mới nhìn ra cuộc sống cao đẹp thường ẩn trong
lòng sự vật và tràn đầy hy vọng vô biên …thì đó mới thực sự được
gọi là cuộc sống có ý nghĩa .Thật ra,cuộc sống con người không
phải chỉ đóng khuôn trong bảy ,tám chục năm hay trong một đời
,một kiếp ;mà là vô hạn _Chết chỉ có nghĩa để lai sinh .Trong
cuộc tiến hóa mình làm mình chịu .Hể có nhân là có quả .Chúng ta
đừng bao giờ bỏ lỡ?417; hội tốt nào.Hãy phấn đấu không ngừng
.Phấn đấu để thắng dục vọng ,thực chứng sự ,lý giải thoát .Để
khỏi phụ một đời làm người vậy.
-
Với tinh thần vô ngã ,vị tha,đạo Phật khuyên con người đừng bao
giờ trốn tránh cuộc đời để tìm nguồn phúc lợi cho riêng mình .Vì
như vậy chỉ là ích kỷ,tạo cho mình một cuộc sống lẽ loi …Đừng
tìm chân lý ở đâu xa lạ .Chân lý ở ngay chung quanh ta .Tất cả
sự sống ,cách sống,lẽ sống,khuôn mẫu sốngvẫn tiềm ẩn trong cuộc
đời và đều bắt nguồn từ con người =Con người là sáng tạo .Tất cả
…đều do con người đặt định mà có.Cho nên cuộc sống con người có
được tốt đẹp hay không trách nhiệm trước sau vẫn do con người tự
quyết định lấy.
-
Để
điều hòa cuộc sống ,điều kiện trước hết là cải hóa con người,là
sự quân bình hóa giữa hai phương diện "vật chất"và "tinh
thần".Có vậy,cuộc sống của con người mới hoàn hảo và tiến ích.
-
Về Sự Sống Vật Chất
-
Những sản vật thiên nhiên là cái kho vô tận sẳn có cho con người
khai thác ,phát triển nguồn lợi để cung phụng đời sống được dồi
dào,tốt đẹp hơn .Thuở xưa ,khi loài người còn sống từng bộ
lạc,năm mười người qui tụ ở một khu rừng ,trên một mảnh đất
hoang vu ,họ sinh kế bằng những nghề chài lưới ,đốn củi ,săn
thú,đói đã có hoa quả ,chim muông ,rét lấy lá cây che thân .Khi
không muốn ở khu rừng này họ chuyển đi nơi khác.Sự sống thật
giản dị .Về sau ,loài người ngày càng sinh sản nhiều,thấy không
thể sống đơn độc cô quạnh ,họ rủ nhau về những miền đồng bằng và
lập thành từng làng ,có gia đình riêng .Cuộc sống hàng ngày càng
thêm phức tạp :mỗi người đã biết dành dụm ,giữ gìn của cải của
mình;từ chế độ du mục chuyển sang chế độ tập quyền .Họ thấy cần
phải thay đổi nghề nghiệp ,lối sống như làm ruộng,trồng dâu
,nuôi tầm ,kéo kén để lấy tơ v.v..Tùy thời tiến hóa ,ngày nay
nhân loại đã tổ chức thành xã hội có qui củ,lớn mạnh .Vậy như ta
thấy ,những thiết dụng cần cho đời sống hàng ngày của con người
:không ngoài giải quyết vấn đề cơm ,áo,nhà ở cùng những nhu cầu
của một xã hội văn minh.
-
Con người muốn đạt được những mục tiêu ,trước hết ,mỗi người
phải biết hạn chế lòng tham,tình ích kỷ hẹp hòi ,chúng tôi chưa
muốn dùng hai chữ trừ diệt,vì e rằng có quá lý tưởng chăng,chỉ
biết nghĩ đến quyền lợi cho mình ,cho đoàn thể mình ,bỏ quên
quyền lợi của tha nhân ,của tập thể khác ,do đó(mà)mọi mâu thuẩn
phát sinh khiến cho cuộc đời đã rối loạn lại càng loạn thêm và
chẳng bao giờ xã hội loài người được yên cả.
-
Tất cả sự vật hiện hữu trên cỏi đời này đều quan hệ lẩn nhau
,một người nghèo khó có ảnh hưởng đến kẻ giàu sang :làm cho mọi
người an vui tức là mình được sung sướng .Với quan niệm rộng rãi
ấy ,đạo Phật khuyên con người đừng bao giờ chấp giữ một cái gì
gọi theo từ ngữ Phật học là , "chấp ngã và chấp pháp".Tại sao ta
lại chấp "cái này"là của tôi , "cái kia"thuộc về tôi ?Vì chấp
mà phát sinh lòng tham lam,giận dữ,si mê.Sự thật thì tất cả sự
vật hiện hữu ở đời đều huyển hóa ,vô thường ,vô ngã.Khi ta đã
hiểu như thế rồi ,thì tự nhiên lòng mình thanh thản ,chẳng còn
chấp có mình ,chấp có người *.Ta thấy ta và vũ trụ vạn hữu đều
hòa nhập trong cùng một .Nguồn Sống Bản Thể Vô Biên *và rất
tương quan mật thiết với nhau ,do đó con người sẳn sàng
"cho"_xin hiểu chữ cho theo nghĩa 䮧 *_và cho với cả tấm lòng
thành kính ,tức là ta biết cách hành động hữu ích cho người ,cho
đời với hoài bão hàn gắng những vết thương đau rữa nát của xã
hội người .Vậy "cho"không có nghĩa là "thí bỏ cho kẻ khó
"bằng đồng tiền ,chén cơm ,manh quần,tấm áo rồi khinh miệt,hắt
hủi họ . "Cho"chỉ có nghĩa là san sẽ ,giúp đở lẩn nhau _trong
lúc mình có mà tha nhân không có _Người nào chẳng có lúc thiếu
thốn (!).Vì giúp người tức là mình làm cho mình vậy.Và mọi người
trong xã hội loài người lúc ấy sẽ kết tụ toàn bằng những tinh
hoa :khôn ,sáng,thật,vui,đẹp,và với lòng yêu thương rộng mở ,con
người ngắm nhìn vũ trụ thiên nhiên là kho tài nguyên vô tận tha
hồ dùng vào công cuộc phát triển đã sống ,để tiến hóa không
ngừng… ?.
-
Về Sự Sống Tinh Thần
-
Cuộc sống về vật chất tuy đã ổn định ,song về mặt tinh thần con
người cũng cần phải có thì cuộc sống mới thật hoàn hảo .Mà muốn
vậy ,con người phải siêng năng trau dồi học thứcđể mở mang trí
tuệ ,phát triển tài năng ;để sống khác với loài muôn thú .Nếu
không cuộc sống con người sẽquá ư mộc mạc chẳng còn có nghĩa lý
gì!Cây giác ngộ chỉ mọc ở đám đất đau khổ .Tinh thần được triển
khai là do trí tuệ ,một động lực vốn là kết quả của sự suy tư mà
có .Các nghành văn chương ,nghệ thuật ,khoa học ,triết học,đạo
đức học là những môn bổ ích cho tinh thần ,giúp cuộc sống con
người thêm tốt đẹp và có ý nghĩa hơn .Con người muốn làm chủ
cuộc sống thì tự thân phải biết rèn luyện tâm thức sao cho mỗi
ngày thêm mở mang ,phát đạt.Hãy tỏ ra mình là người _một nhân
phẩm cao thượng _,có đầy đủ đức tính :thành thật ,lịch sự,đức
hạnh ,tài năng ,can đảmvà hết lòng … "Học"chỉ là tri thức ;điều
cần yếu phải có "Hạnh"mới gọi được là "chân thức".Học vấn mà
không lương tâm,không đức hạnh thì cái học ấy có khác gì bông
hoa tuy có sắc mà thiếu hương thơm .Học vấn và đức hạnh cả hai
là những vật trang sức cho con người thêm tươi đẹp .Trí tuệ,tài
năng chỉ có thể thành đạt đối với những ai biết thuận theo Lẽ
Phải,tôn trọng Sự Thật(chân lý),và người đức hạnh thì không bao
giờ chỉ biết có mình ,không bao giờ làm hại tha nhân ,không bao
giờ lợi dụng lòng tốt của bất cứ ai .Xã hội hiện tại chẳng thiếu
gì những phần tử trá hình ,giả nhân nghĩa ,giả đạo đức,bề ngoài
dáng vẽ đẹp đẻ ,nhưng trong tâm địa thì lại xấu xa,độc ác;họ là
những con vật mang hình ảnh nhân dạng Đừng thấy đỏ ngờ chín
.Muốn hiểu con người có chân đạo đức hay không ,ta cần phải gần
họ ,sống bên họ ,để hiểu họ .Ta không thể nhẹ dạ đặt tin tưởng
một cách dể dãi vào bất cứ một ai ,nếu ta chưa hiểu rỏ người ấy
,để khỏi mang lấy hối hận về sau .Nói tóm,sự sống về tinh thần
gồm có hai mặt học vấn và đức hạnh.Tuy nhiên, ngoài các môn học
ngoài đời như về triết học ,khoa học v.v..ta còn cần có học
Phật,mới mong đạt tới đích giác ngộ và giải thoát toàn triệt
.Đấy là những đảm bảo tốt đẹp cho cuộc số⮧ của con người ,ở hiện
tại và tương lai.
-
"Hãy tinh tiến để tự giải thoát"
-
3. Giá Trị Con Người
-
Đạo Phật với nguồn giáo lý cao diệu,bao hàm về cả ba phương diện
:tình cảm ,lý trí và hành xữ,là đạo lấy CON NGƯỜI(Nhân Bản)làm
cứu cánh và đối tượng chính để phục vụ và triển khai ,bằng cách
dạy cho con người thoát mọi ràng buộc khổ đau mê tối của nhân
giới ,tâm giới và nhiên giới ;đồng thời đặt con người trước
trách nhiệm của chính mình :Cuộc đời hay hay dở là do con người
"Tự tác tự thụ";chẳng có thần thánh nào can thiệp hay thưởng
phạt cả .Đức Phật dạy: "Mọi người đều là những vị Phật trong
tương lai ,vì mọi người đều có Phật tính (Buhhdata)và có khả
năng thành Phật".Con người chỉ cần làm hiển lộ được Phật
tính(chân lý)ấy,tức sẽ thành Phật.
-
Đạo Phật rất gần gủi với con người,và là đạo của con người,của
xã hội loài người.Trong kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka sutra)chép:
"Con người là hơn cả,vì có thể thực hiện được mọi sự tốt đẹp ở
đời".Đạo Phật xác quyết rằng :Con người là một trong các sinh
động vật,như có tình cảm trong sáng,tư tưởng linh hoạt,hành động
quả cảm,mặc dầu con người cũng mang trong mình bao thú tính =dục
vọng,lầm lỡ,tội ác…,nhưng nếu xét theo khả năng và giá trị đặc
biệt của nó thì,trong tất cả các loài,con người đủ điều kiện trở
thành ưu việt .
-
"Hoàn cảnh con người không quá khổ như địa ngục,không quá vui
như thiên đường,và không ngu si như các loài thú vật".Vì vậy
,giá trị con người trong đạo Phật bao giờ cũng được đề cao,và
được nhìn nhận là một chủng loại có đặc tính vạn năng .
-
a.
Con Người Là Hơn Cả
-
Trong tất cả các loài,con người là hơn cả.Nhà bác học Pháp
Alexis CARREL(giải Nobel 1912)viết trong cuốn L Homme,cet
inconnu= "…Ta không biết rõ giới hạn của con người trong không
gian là chừng nào .Song ta có lý do để tin rằng con người vượt
ra ngoài cái xác thân .Hình như mỗi chúng ta lớn rộng hơn cái
xác thân này nhiều".*Tuy nhiên ,nếu đứng trong phạm vi loài
người để nhận xét thì,về phương diện tổ chức cơ thể,con người có
đầy đủ đức tướng của bậc trượng phu;Con người có một dáng vóc uy
nghiêm,đĩnh đạt ;nói năng linh lợi ;đi,đứng,nằm, ngồi khoan thai
,nhất cử nhất động đều hợp với tư cách đặc thù của nó,không dữ
tợn,hình thù không xù xì như các loài muôn thú …;về phương diện
sinh hoạt tâm linh,con người vẫn giàu khả năng tính hơn muôn
loài _Con người là sáng tạo _**Vì, 1. Bản thểcon người bản lai
sáng suốt ; 2. Con người là trung điểm của mọi vấn đề.Mọi vấn đề
do con người phát sinh và đều phát sinh vì con người. "Con người
là thước đo vạn vật =l homme est la mesure de toute chose".Con
người với những đức tính như :
-
Đạo Đức thanh khiết,
-
Ý
chí tự cường,tự lập.
-
Chỉ bấy nhiêu sự thể đủ nâng cao giá trị và địa vị con người
vưượt trên và ngoài tất cả.Có những đặc tính ấy con người sẽ dễ
dàng tiến hóa trên nấc thang tu chứng,để tự giải phóng mình
thoát khỏi mọi tù hãm về tâm lý,tình cảm sâu kín …;đồng thời ý
thức rõ được những hoàn cảnh phức tạp bao phủ chung quanh,để tự
thắng trong tiến thắng vinh quang .
-
Trên lý thuyết cũng như trên thực tế,ảnh hưởng của xã hội hôm
nay và ngày mai có được tốt đẹp hay không là do con người tự
quyết định lấy :
-
Con người Thiện thì xã hội tốt đẹp ;
-
Con người A?#7869; tạo cho xã hội xấu xa,đổ nát.
-
"Đời sống con người vui tươihay đau khổ,đều do con người tự
quyết định và tạo lập lấy"_Mahaparinibbanasutta_
-
Chúng ta hãy mạnh dạn cải tạo đời sống mình,và cùng đứng cả dậy
để tự vứu và cứu lấy giống nòi,cứu nhân loại.Chỉ có con người
can đảmmới làm nổi công việc vĩ đại ấy.Công cuộc tự cứu mình và
giải thoát đời đòi hỏi nơi con người phải có :đó là tinh thần vô
ngã,vị tha,NIETZSCHE,một triết học gia Đứ,nổi danh ở hậu bán thế
kỷ XIX,đã nói: "Bạn hãy trở thành người,mà bạn phải trở
thành".Nhà đạo học kiêm tư tưởng gia AᮠĐộ Swami VIVEKANANDA cũng
nói: "Con người cao cả hơn các loài vật,hơn các vị thiên
thần.Con người cao quí hơn cả.Ngay đến các vị thiên thần cũng
phải giáng sinh làm người mới mong chứng đạo giải thoát.Chỉ có
con người mới đạt được sự hoàn toàn giác ngộ"._Con người
khôn,sáng hơn các loài vật (Nhân vi vạn vật chí linh).
-
Giá trị con người quả là siêu việt hơn muôn loài…
-
b.
Nhưng Phải Là Con Người Với Đầy Đủ Ý Nghĩa Của Nó
-
Đã
biết con người là giá trị hơn cả,thì con người đừng bao giờ làm
phá sản những khả năng sẳn có,phải luôn luôn nhớ:ta là người
hằng sống trên mặt đất.Ta phải làm một việc gì hữu ích cho đời
.Nếu không, cũng đừng bao giờ có ý niệm làm tổn thương đến tính
mệnh, tài sản,danh dự của bất cứ ai trên cõi đời này.Không được
như vậy,thì dù rằng con người ấy vẫn mang hình thể người,nhưng
kỳ thực cái cốt cách trong con người họ đã mất đi tự bao giờ mà
không còn là con người nữa.Aldous HUXLEY(1894_1963)đã phải thốt
lên lời than vãn là: "Người ta xin chúng ta một điều là" "Trở
nên người". Một người mà ta nên nhớ,là không phải thần linh cũng
không phải quỉ sứ".
-
Đạo Phật rất kính trọng con người và từng khuyên con người hãy
tự tiến lên,đừng bao giờ lùi xuống . "Một phen mất thân
người,muôn kiếp khó trở lại =Nhất thất nhân thanh,vạn kiếp nan
phục".Đáng thương biết bao cho những ai thường giong ruổi chạy
theo dục vọng ảo huyền,mê man trong trường danh lợi …tự dắt mình
xuống hố sâu vực thẳm,chẳng tìm được lối ra!Khi nào một con
người bắt đầu tự khinh mình,thì con đường trụy lạc của họ cũng
bắt đầu.Đối với một quốc gia cũng thế.Trách vụ trước tiên là ta
đừng tự khinh mình,vì muốn tiến thắng,ta phải tự tin ở ta.Con
người là trung điểm của xã hội loài người.Tất cả hoạt động ,tác
động hiện có trong xã hội đều do con người quyết định.Nếu từ xưa
đến nay,con người đều hiểu rằng:" "Ta là người.Ta là một phần tử
trong xã hội loài người,cũng sinh sống trên trái đất,cùng có một
giá trị như nhau,và có sự quan hệ mật thiết với nhau về mọi
mặt.Ta phải dạy bảo nhau,giúp đở nhau.Ta đem những tư tưởng sáng
kiến của ta tạo thành những khí cụ phá rừng núi,khai khẩn hầm
mỏ,điền địa,đem lại nguồn kinh tế sung túc cho xã hội.Ta chế tạo
nhiều máy móc tối tân,để thay thế cho sức người bớt nặng
nhọc,được hưởng sung sướng tự do …,nếu hiểu thế thì đâu còn nạn
giai cấp đấu tranh,đâu còn lao tù khổ sở,đâu còn khí giới nguyên
tử,khinh khí để giết hại,khiến cho sự chết chóc điêu linh quá
sức tưởng tượng như ngày nay,mà vẫn cứ dám khoác màu áo: Dân
chủ,Nhân Quyền, Hòa Bình, Tự Do, Hạnh Phúc?"
-
Con người là khí cụ sắc bén, rất "lợi"và cũng rất "hại".Sự ích
lợi (sẽ) trông thấy chỉ khi nào con người biết rèn luyện tâm
trí,như:hiểu biết nghĩa vụ tôn trọng sự thật (chân lý)sáng suốt
hành động .Nhưng sự tác hại của con người cũng sẽ rất ghê
gớm,khi mà con người chỉ sống (bưng bít)trong những bức tường
thành kiến,tập quán,di truyền hủ bại,đam mê thuốc xái,cờ
bạc,rượu chè,chơi bời phung phí :đó là những người sống đời
không lý tưởng,mục đích.
-
Giáo lý đạo Phật là dạy cho con người nhiều phương pháp làm
người,và chỉ có đạo lý Từ Bi,trí tuệ,bình đẳng,giải thoát và tự
chủ mới xóa bỏ được mọi mê tối,khổ đau của cuộc đời phiền
tạp,nhiểu nhương này.
-
c.
Giá Trị Đặc Biệt Của Con Người Trong Xã Hội Loài Người
-
Giá trị con người là hơn muôn loài.Trong các kinh điển đức Phật
từng nhắc đi nhắc lại nhiều lần câu : "Ta là Phật đã thành
.Chúng sinh là Phật sẽ thành"_Kinh Phạm Võng.
-
Để
ra ngoài những giáo lý uyên áo,ở đây,ta chỉ xét nội câu nói trên
cũng đủ diễn tả hết mọi khía cạnh giá trị và địa vị đặc biệt của
con người nhưng con người lên ngang hàng với chư Phật.Sự bình
đẳng tuyệt đối của đạo Phật là ở đó,chứ không như các tôn giáo
khác,chỉ biết đặc tôn vị giáo chủ duy nhất mà mình thờ,ngoài ra
không muốn cho một ai được ngang hàng với địa vị ấy.Họ cố ý dìm
con người xuống ,không muốn cho con người tiến lên.Quan niệm của
đạo Phật rộng rãi hơn,đức Phật dạy : "Con người là hơn cả nhân
thị tối thắng!"Có con người là có tất cả.Muốn cải tiến xã
hội,trước hết phải cải thiện con người. "Đời chỉ đáng sống nếu
người ta có được một lý tuởng,nghĩa là có những ưu tư khác với
chăm lo ăn cho ngon,uống cho thỏa và thụ hưởng cho nhiều lạc
thú".
-
Tư
tưởng,ý chí và hành động của con người quyết định hết thảy.Con
người tốt hay xấu,giàu hay nghèo,sang hay hèn,ngu tối hoặc thông
minh,và xã hội có mở mang hay thoái hóa,nguyên nhân chính vẫn là
con người.Chỉ e con người có làm chủ đuợc mình hay không ?_
"Muốn làm chủ được thời cuộc,phải làm chủ được người chung
quanh.Muốn làm chủ người chung quanh,phải làm chủ lấy chính
mình".Thực ra,đời sống phức tạp trong xã hội không đáng kể ;đáng
kể là,khi con người có biết điều khiển xã hội phức tạp hay
không.Nếu con người biết cách điều khiển cuộc sống mình,mọi việc
sẽ tốt đẹp,khác nào như đợt sống trên sông ngòi,chỉ một cơn gió
lốc thổi ào ạt cũng đủ đánh tan tất cả đợt sống nhỏ làm thành
làn sống vĩ đại cuồn cuộn chảy về biển cả.Cũng như thế,nếu con
người tách rời cuộc sống mình ra khỏi phạm vi xã hội loài người
thì cuộc sống ấy quả là vô nghĩa,không đáng kể.Và như thế,con
người ấy đã tự chối bỏ giá trị cũng như địa vị cao quí của mình
trong cuộc sống hằng ngày…Giá trị nhân bản đích thực có tính
cách vĩnh cửu,chỉ có thể biểu lộ ở những con người mang ý nghĩa
toàn vẹn của nó.Đạo Phật khuyên chúng ta hãy tự quên mình để
được yêu vũ trụ rộng lớn,mà đạo lý "vô ngã,vị tha"là đọng cơ
thúc đẩ?n người dũng tiến trong công cuộc phụng sự nhân
loại,phụng sự chúng sinh.Nên nhớ:sự biểu hiện cùng tận của lẽ
sống là ở chổ hoạt động minh động và phát triển con người toàn
vẹn .Hãy vương lên và làm việc .
-
Đó là giá trị đặc biệt của con người trong xã hội loài người.
-
- --o0o--
|
|