Thư Viện Chùa Dược Sư
PHẬT HỌC CƠ BẢN
Vũ Trụ Quan
Quan Niệm Của Tôn Giáo
- Đạo Học 
- Triết học 
- Khoa học và của đạo Phật.
Từ khai thiên lập địa cho đến ngày nay, khi trí thức con người đã triễn khai, nhân đứng trước vũ trụ rộng lớn, nào trăng sáng, núi cao, biẻn rộng , sông dài ,mây bay ,gió cuốn ,hoa nở ,chim ca..Tất cả hiện tượng ấy đã là những thắc mắc của con người muôn thuở.
- Vũ trụ là gì?
- Con người do đâu mà có?
Những câu hỏi ấy luôn luôn ám ảnh tâm thức ta nó bắt ta phải suy nghĩ , và đã có biết bao tư tưởng gia,đạo sĩ,triết nhân ,đông cũng như tây ,đã để ra rất nhiều thì giờ ,tâm lực ,viết nên những bộ sách vĩ đại ,nhằm giải đáp những thắc mắc củacon người .Nhưng ..tất cả chỉ là những mớ lýthuyết còn đọng lại trên trang giấy. Vì , triết lýtức là đặt vấn đề để rồi truy vấn nhũng dự kiện của vấn đề ;hơn là giải quyết vấn đề , nếu không  muốn nói là không tưởng (!)
Vậy ,muốn nghiên cứu khái quát về vấn đề quan trọng -vấn đề tìm hiểu vũ trụ và con người -trước hết ta nên du hành qua các địa hạt tôn giáo ,đạo học ,triết học,khoa học,và nhất là đạo Phật ,để khách quan tìm hiểu ,nhận định và so sánh những điểm dị đồng …rồi nhờ đó ,ta có thể nắm vững vấn đề và giải quyết vấn đề một cách chính xác hơn .
Trong các lãnh vực Tôn Giáo, đạo học, triết học , khoa học,…lẽ tất nhiên, mỗi bên có những lối đáp khác nhau .Điều cần là ta nhìn ,hiểu nnó với tâm trạng của kẻ lủ hành đang trên đường kiếm tìm chân ly sự thật cuộc đời này.
* Tôn Giáo
Trên thế giới có rất nhiều tôn giáo.  Nhưng, ở đây chỉ bàn sơ luợc mấy đạo giáo ,đại diện cho mỗi khuynh hướng khác nhau  .Trước hết ,ta tìm hiểu về Đa thần giáo ,bởi vì tôn giáo này cũng có tính cách liên hệ mật thiết trong việc suy tìm một vũ trụ quan sinh động .
Đa Thần Giáo (Polythéisme)
Từ sơ sử thời đại, khi con người đã biết sống quâquần với nhau trong một khung cảnh bình thản ,chất phác và hồn nhiên ,nghĩa là con người còn sống trong trạng thái man rợ "ăn lông ỏ lổ";nhân đứng trước cảnh hùng  vĩ của trời đất ,nào trăng sáng, gío reo ,sấm chớp ,mưa táp bảo bùng …thì sinh ra khiếp sợ ,vì tự cảm thấy mình bé nhỏ , so với vũ trụ bao la !…Tư tưởng tín ngưỡng thần linh bắt nguồn
có từ đấy. Con người trong thời phôi thay ấy, đầu ớc họ hảy còn trống rông sự nhận thức rất thô sơ; chưa biết phải tìm phương thức nào để chống lại với thiên  nhiên ,với thú dữ …Do đó,họ đành chìịu khuất phục .Bất cứ cái gì thuộc về nhiên giới cũng mang một ý nghĩa thần lình sáng tạo và chi phối cả .Núi ,Sông ,Cây ,Cỏ ,Đất,Nước đều có thần linh cai quản .Họ đã thờ thần Sông ,,thần Núi,thần Thổ địaSự thờ cúng không   ngoài việc cầu phúc tiêu tai ;nếu chẳng may có sự rủi ro xảy đến ,,họ tín đã có thần linh che chở ,độ trì .Tục lệ này hiện nay vẫn còn thịnh hành ở khắp dân gian .Ngoài ra ,những ngày tết trung thu (15-8AD tết Đoan Ngũ (hay Đoan Ngọ ),5-5Al và các ngày sóc,Vọng, hối, Huyền ,cũng được người ta duy trì một cách thản nhiên. Các tệ đoan khác ,như xin quẻ ,xem bói ,đốt vàng mẵvv..cũng đều chịu ảnh hưởng của tín ngưỡng Đa thần giáo cả .Đấy phải chăng là do thành kiến xưa còn rớt lại ,hay tại tim óc người ta hãy còn đúc đặc bởi một tệ đoan ám ảnh .Những người theo lối tín ngưỡng này,phần đông là dân tộc thiểu số, miền rừng núi .
Thấy sao tin vậy.  Đấy là trạng thái tâm lý của lớp người hãy còn mang nặng đầu óc tín ngưỡng thần thoại dị đoan.  Nhưng ,khi trí óc con người đã nẩy nở ,thì quan niệm về thần linh cũng được xét lại ,theo một chiều hướng mới .Dưới đây ta hãy sơ lược xét về quan niệm ấy .
Nhất thần giáo (monothéisme)
Trình độ trí thức con người lúc này đã cách biệt hẳn trước nên sự tín ngưỡng cũng xoay chiều .Họ giảm lòng tin đối với các vị thần ,để đặt niềm tin vào một vị Thượng Đế xa vời ,do óc tưởng tượng của con người sáng tạo ra.
A.  Cơ Đốc Giáo (Christianisme)
Đạo này được thành lập đến nay đã gần XX thế kỷ ,sau khi Jésus ra đời ,và do sự cải cách một tôn giáo cổ Do Thái .
Chiếu theo "Cựu Ườc và Tân Ước",người ta tìm thấy ở giáo lý của giáo hội Cơ Đốc :"Thuở sơ khai ,khi vũ trụ còn là một khoảng không mênh mông mờ mịt !…nhờ có trí tuệ ,tài năng và quyền phép (sẵn có ) của Chúa Trời ;trong bảy ngày đêm Ngài đã tạo thành bầu trời ,các vì tinh tú ,trái đất ,núi ,sông ,cây cỏ,người và vật ;mà lần đầu tiên con người có mặt trên trái đất là ông Adam và bà Eva ,kết cục hai người lấy nhau .Sau vì phạm trái cấm ,nên bị chúa phạt ,từ đấy về sau con cháu đời đời bị buộc vào "tội tổ tông".*Những người theo Cơ Đốc giáo đều tin tưởng ở ba ngôi :
Đức Chúa Cha :Thượng Đế(Diêu);
Chúa Con (Jésus);
Chúa Thánh Thần (Saint Esprit)    
Và ,theo họ nhận định thì,"Thiên Chúa là đấng Tự hữu ".Nghĩa la ,không có ai sanh ra Chúa cả .Vì ,Chúa là đấng thiêng liêng vô hình vô ảnh ,phép tắc vô cùng !Nếu ai biết thờ phục Chúa vâng lời Chúa ,làm những điều nhân đức …đương nhiên được Chúa nhìn nhận ban phúc lành cho ,và được Chúa nhìn nhận ban phúc lành cho ,và được Chúa đưa lên thiên đường ;vĩnh viễn không bao giờ không bao giờ phải sa đọa địa ngục ".Như trên ,cho ta thấy ,lập luận của Cơ Đốc giáo về nguyên lại vũ trụ này là do bàn tay Thiên Chúa tạo dựng mà có …
            B.  Bà La Môn Giáo (Brahmanisme)
Tôn giáo này thoát thai từ một tôn giáo tối cổ của AĐộ là Rig Véda,có cách đây khoảng bốn nghìn năm ,do người Aryen chủ lập .
Căn cứ trong thánh thư Védas*thì sự tín ngưỡng duy nhất của tôn giáo này là thờ thần BRAHMA=Phạm Thiên (linh hồn của vũ trụ ),vị thần hằng có đời  đời .Brahma là căn thể của vũ trụ,hết thảy vạn tật đều do Brahma sáng tạo .Vì Brahma là vô thủy vô chung .Đấy là quan niệm lúc ban sơ ,nhưng qua nhiều cải cách ,và hiện nay ,thánh thư mỗi ngày một tạo dựng thêm ,do đó ý niệm của con người (ngày nay)về một "đấng tối cao"không còn giống như trước nữa .Trong bộ Tế Nghi Thư (Brahma na)cho rằng ,đấng Chủ Tể sáng tạo vũ trụ thế giới này là thần PRAJPATI.Và xét trên nguyên lý thì Prajapati với Brahma là một thể ,đồng nhất tính .
Triết lý hình nhi thượng của thuyết "Prajapati"trong Thánh thư Brahmana,cho ta thấy :Prajapati từ chổ vô hình biến thành hữu hình .Hay nói khác ,từ trừu tượng trở thành hiện thực ,nghĩa là từ cái Có (trong cái không nó có một động tính;rồi từ cái động tính ấy nảy sinh hiện thực là thời gian và vạn vật )Nhưng trong bộ A?hĩa Thư (Upanishad)lại thường đề cập đến thần ATMAN,vì Atman là hiện thể của thần tối cao Brahma.Atmanlà hơi thở là sinh khí có bàng bạc trong không gian và cả trong vật thể nữa .Con người là một tiểu linh tính nằm trong cái đại linh tính của Brahma .Thuyết lý này đã đưa Brahma lại gần với con người ,đưa ngay vào trong con người ,tức là đặt con người bình đẳng đấng Brahma .*Những tín đồtôn giáo này đều tin rằng :vũ trụ lúc ban sơ -xin nhấn mạnh :lúc ban sơ -là do một vị (tức đã nhân cách hóa :Personnification )sáng tạo ra .Về phương diện tu dưỡng thì thánh thư dạy con người phải xả thánh Thiện ,để sau khi chết (sẽ) được thần đón về thiên cung ,hưởng cuộc đời hạnh phúc ,sống trong cảnh huy hoàng lộng lẩy ;bằng ngược lại ,nếu bình sinh không chịu tu phúc ,không tin theo lời dạy của vị giáo chủ thì vẫn phải đày xuống hỏa ngục ,chịu muôn nghìn thống khổ ,và vĩnh kiếp khó mà thoát ra!…      ,?bsp;
Giáo chủ đạo Hồi làMohamet(570-632),lúc thiếu thời ông sống cuộc đời bình thường như mọi người khác ,chưa có dấu hiệu nào tỏ ralà người xuất chúng , hơn đời ;sau trở nên một đại điền chủ nhờ cuộc kết hôn với một người góa phụ …
đã bỏ ra mười lăm năm để tìm một con đường cải cách tôn giáo và xã hội cho dân Arabe.Năm 630Tlkể như đánh dấu năm đầu của kỷ nguyên Hồi giáo .Kinh Coran coi như một thánh kinh thiên chúa thu nhỏ ,trong đó gần như y nguyên những tên Thánh ,tên Đất .Kèm theo phần phụ lục lời dạy của đấng Tiên Tri Mohanet (cũng gọi là Muhamad)được dùng ở các quốc gia Hồi giáo như bộ luật hành chính, giảng luân lý vv… gồm 11 chương (surate).
Hồi giáo là một tổng hợp Do Thái giáo và Thiên Chúa giáo .Chính Mohanetcũng không giấu điều này ,và yự xưng mình là đấng tiên tri và gọi các giáo chủ khác (như Jésus) cũng chỉ là đấng tiên tri như mình thôi.
Hồi giáo thịnh hành ở Trung Á ,Tây Á,Bắc Phi ,Thỗ Nhĩ Kỳ và miền Tây bắc Trung Hoa (Mahométisme Islamisme), HVTĐ.
Hơn 300 năm sau ,Sa hoàng Piotr muốn thành lập cho nước Nga một tôn giáo ,liền tổng hợp một lần nữa Hồi giáo và Thiên Chúa giáo ,tự xưng là Chính thống giáo -Orthodoxie -để tránh phải mang cái tên có tính cách kỳ thị như Protestant:kẻ chối bỏ (Tin Lành )Evanggéliques hay Judaime Phảnthệ giáo (Do Thái giáo).Ong cho rằng mình đã chọn giữa hai thái cực :một đằng được lấy nhiều nợ mà kiêng có rượu (Hồi giáo)và đằng kia có nhiều rượu mà không có đàn bà (Thiên Chúa giáo).
Trong 5 điều răn của đạo Islam (tên mới tự xưng của tín đồ đạo Hồi ở VN )thì có hai điều giống như đạo Phật : 1 .Cấm uống rượu ,triệt để hơn PG.2.Bố thí ,không cần phải hô hào ,huy đông mà đó là một "luật ".Đối với tất cả tín đồ ,có phương tiện sinh sống dư giả ,thì đến mỗi cuối năm phải trích ít nhất một phẩm năm (1/5)số lợi tức trong năm đem ra phân phát cho người nghèo khó nhất của cộng đồng mình cư trú .Trong một trăm năm ,Islam đã truyền bá đạo bằng bạo lực. Mohamet thua trận và chết năm 632.
Người Thiên Chúa giáo và Hồi giáo đã nuôi một mối hận thù khôn nguôi ,khi mà tám đội viễn chinh Thập tự quân :Croisade liên tiếp đánh chiếm các nước Arabe từ thế kỷ XI tới thế kỷ XIII,rồi các nước Á Châu đi xâm lược thuộc địa Arabe ở thế kỷ XIX.
Nói tóm lại,từ ngành ngôn ngữ học người ta biết rằng tiếng Sanskrit là nguồn gốc của các ngôn ngữ Á Châu để rút ra kết luận người Aryen ,một bộ tộc thời cổ mà địa bàn sinh sống là phần lớn nước Ấn Độ, dưới chân rặng Caucase và rặng Hymalaya,là tổ của giống dân da trắngngày nay.
Tiếng Do Thái, tiếng Arabe thuộc họ AA-Inđoeuropéenne cùng phả hệ Inđo européenne Sanskrit.
Đạo Bà La Môn : Ăn chay, thường cúng tế.
Đạo Do Thái: năng cúng tế,ăn chay,kiêng sát sinh ,không được làm nghề bán thịt, nghề đồ tể.
Do Thái giáo Thái là tổ phụ Moise,Abraham,tổ của Jésus.Theo thứ tự niên đại ,Bà La Môn giáo,Do Thái giáo ,Thiên Chúa giáo ,Hồi giáo,Chính Thống giáo ,Anh Quốc giáo,(Anlicean),Tin Lành đều thờ chung một Thượng Đế (hay chúa Trời) nhưng danh xưng có khác:Bà La Môn :Brahma;Do Thái giáo :Jehovah;Thiên Chúa giáo:Dieu ;Hồi giáo:Allah;Anh Quốc giáo;God.
Nhận xét chung của một số nhà Thần Học Arabe và Tây phương :giáo lý gần như giống nhau ,chưng tỏ Đấng Cứu Thếchỉ có Một (đạo nào cũng thế )Và cũng của các nhà thần học ở cuối thế Kỷ XX :Tất cả các Tôn giáo lớn rồi ra sẽ như những mạch suối cùng chảy vào một biển lớn ;chỉ một tôn giáo nào đó có đạo đức làm chuẩn mực ,nghĩa là bao hàm những điểm chính của tất cả các "đạo "và giáo lý mang nội dung tư tưởng triết học hợp với con người thời đại hơn (Phật giáo)
Đứng về phương diện luân lý ,tâm lý để nhận xét ,thì các tôn giáo trên đây vẫn có sự lợi ích trong việc khuyên người ,dạy người làm lành tránh dữ ,những ảnh hưởng tốt cho xã hội hiện tại và mai sau .Tuy nhiên ,đối với Bản Thể Luận,thuyết thần tạo -thần sinh ra vũ trụ ,vạn vật đương còn mơ hồ và huyền bí lắm.!
Đạo Học
Đạo Khổng (Confucianisme)
Những đạo học có danh tiếng ở Á Đông ,truyền bá đi các nước lân cận ,trước hết, ta phải kể đến đạo Khổng .Đức Khổng phu tử ,vị hiền triết Trung Hoa ,sinh năm 551- 47 9   TTL,thời xuân thu .Chiến Quốc ,dưới triều đại nhà Chu .Ngài đã từng nhiều tháng năm luân lạc …mà không một nơi nào trọng dụng ,sau đành quay về nước Lỗ dạy học và soạn sách ,học trò theo học có đến 3000người .Trong việc soạn thảo sách ,Ngài lấy "Quan Thư cổ xưa để chỉnh đốn lại làm bộ kinh Thư,lấy thi ca các đời trước đặt lại thành kinh Thi ,san định kinh Le,kinh Nhạc và làm kinh Xuân Thu là lịch sử nước Lổ"Người ta bảo Khổng tử chỉ là người "thuật nhi bất tác"Chính ngày cũng thừa nhận điều đó .
Đạo Khổng thành lập không phải do Ngài -mà phầ lớn .Ngài chỉ là người thu nhập những gì tinh tuynhất của Tiên Nho ;rồi cải cách những tư tưởng ấy làm thành một triết lý ,luân lý thực dụng cho xã hội nhân sinh .Khởi điểm của đạo Khổng là vấn đề quyết định sự tương quan giữa thực tại với tư tưởng để hòa đồng cái tiểu ngã người đời vào cái đại ngã của vũ trụ -lý tưởng thái hóa .Trước hết, Khổng Tử nhìn vũ trụ là một "Thể vô cùng"tức là trong mỗi vật hửu hạn đều có nằm sẳn cái thái cực vô hạn (lý thái cực ),nó bàng bạc chu lưu khắp cả …(Dịch hửu thái cực ,thị sinh lưỡng nghi ;lưỡng nghi sinh tứ tượng ;tứ tượng sinh bát quái, biến hóa vô cùng ."
- Lý thái cực (Impersonnel) mà cổ nhân đã bàn trong kinh Dịch ,gồm 64quẻ, 384 hào,do trí quan sát,kinh nghiệm tìm ra từ đời Phục Hy .Thần Nông để thuyết mình sự tương quan giữa vũ trụ và vạn vật trong trường thiên diễn vô cùng phức tạp …song qui định lại ,gồm có ngũ hành "tương sinh ,tương khắc ,tuần tự sinh thành ra "Bốn tượng" **, Tâm quẻ:
- Càn              : Trời. 
- Khảm            : Nước, mặt trăng. 
- Cấn               : Núi đá.
- Chấn              : Sấm.
- Tốn                : Gió ,mưa.
- Ly                  : Lửa,mặt trời.
- Khôn              : Đất.
- Đoài: kim khí và do sự phối hợp của A Dương, (lưỡng nguyên ) làm thành tượng hình bằng những nét gạch liền và đứt (tổng hợp ).mỗi quẻ tượng hình cho một trạng thái tương quan nối liền giữa Trời ,Đất,Người.
"Dịch", nghĩa là động, biến dịch, vì khởi thủy có sự vật là có động .Động ,là lẽ Sống của vũ trụ .với luận lý này ,đạo Nhokhông có ý mong chiến thắng tạo hóa mà chỉ cốt dịch hóa nó,theo luật tiến hóa chung =Ngô đạo nhất quan chi"(luận ngữ)
Trong những kinh sách Nho gia tuy có nói đến chữ "thiên ",song không hẳn có nghĩa chỉ Ông Trời=Thiên đạo chi vị tính ,xuất tinh chi vị đạo "Nghĩa là ,"cái khuynh hướng tiềm tàng trong trời đất gọi là Tính,noi theo cái tính ấy mà hành động thì gọi là Đạo ",Nhân tính với thiên tính là một .Thiên đạo là luật điều khiển sự tiến hóa của xã hội và con người…
Đạo Khổng xây nền móng trênmột nhân sinh quanbắt đầu bằng chử "Thành "Sống trong một xã hội loạn ly ,bất công ,muốn cải tạo nó tất phải có một đường lối (chính trị)hợp thời ,nên Khổng Tử đã đặt ra "Tam Cương ",Ngũ Thường"** để ổn định tình thế .
Ở sách Lể Ký có ghi lời đức Khổng Tử so sánh trạng thái xã hội Trung Hoa gồm: -"một xã hội đại đồng" (Tam hoàng: Phục Hy ,Thần Nông Hoàng Đế) và -"một xã hội tiểu khang" (ngũ đế Vũ ,Thang,Văn Vũ ,Thánh Vương ,Chu Công).Ngài ra đời mang hoài bão cải hóa những đảo điên của thời đại "Xuân Thu"loạn lạc.  Đứng về phương diện luân lý ,đạo Khổng khuyên con người :Tu thân,tề gia,trị quốc,bình thiên hạ ,vì thân có tu ,gia mới tề ,quốc mới trị ,thiên hạ mới  thái bình ,Đó là những yếu lý nhằm ổn định cuộc sống xã hội con người muôn thuở.
Đạo Lão (Taoisme)
Người sáng lập Đạo là đức Lão Tử (LạTzu),tên Đam ,sinh năm 604  TTL.Trong thời niên thiếu ,Lão Tử chưa viết sách để truyền bá tư tưởng của mình ;mãi về sau ,Ngài mới viết cuốn Đạo Đức Kinh (gồm 81 chương có hơn ngàn lời )*,Học thuyết Lão Tử rõ ràng pha mầu sắc yếm thế -lý tưởng Đạo Lão là lý tưởng siêu nhiên -nhìn cuộc đời như một cuộc bất đắc dĩ (…)Đối với uyên nguyên của sự vật chỉ (được)coi như một khối "tinh vân"mà Lão Tủ mệnh danh là "Đạo "(Bản thể),nó vô hình ,vô hạn ,ở ngoài không -thời gian ,muôn nghìn hiện tượng cũng do "Đạo "biến hóa ra.Bất ky vật gì trong   trời đất điều có cái Đạo ấy ở trong và cùng với Đạo là một thể =Hửu vật hổn thành ,tiên thiên địa sanh "(25).
Nếu có phải gọi vật tiên thiên ấy là" Đạo ",đó chỉ sự miễn cưỡng mà thôi. Theo Lão Tử thì ,"vật tiên thiên "sinh ra vũ trụ vạn vật chỉ là một vật không tên = Ngô bất tri kỳ danh,tự chi viết "Đạo "(25)
Đạo Lão nhìn sự vật trong cởi đời chỉ như là tuồng ảo hóa ,không khác giòng nước chảy từ nội giới ra ngoại giới ,hết lớp này đến lớp kia "liên miên bất tuyệt !".Có đấy rồi không đấy .Về phương diện tu dưỡng, đạo Lão khởi lập một thuyết gọi là "Vô Vi",tức là hành vi của vô ngã ,của thân thể ,căn bản tính .Cái hành vi ấy gọi là Đức;có ý khuyên người ta trở về với đạo đức ,với trạng thái thuở ban sơ cho tâm hồn được vắng lặng trong sạch ,nghĩa là tách biệt giữa ngã và vô ngã ,để sống cuộc sống thanh cao ,có ý nghĩa hơn .Trên con đường tìm sự thật ,đạo Lão đã hướng dẩn ta đến cái Đệp và cái Thực ,đó là đạo đức và chân lý .
* Triết Học
Ở thời kỳ sơ khai ,những tư tưởng lạ đã sớm lởn vởn trong đầu óc người ta ,với bao cảnh tượng kỳ bí của thiên nhiên ,muôn vật đổi dời ;tất cả hiện tượng phôi bày ra ấy ,chẳng biết có tự bao giờ .
- "Tâm" ư !"Vật "ư ! hay "Thiên nhiên" ư !
- Nguồn gốc của vũ trụ là gi?
Đấy là những vấn đề đã làm chảy rất nhiều mực của các bậc hiền triết xưa cũng như nay !
Ngay từ thượng cổ thời đại ,các triết gia đã lần lượt xuất hiện và đã lập ra những hệ thống tư tưởng triết học không giống nhau ;đã một thời làm mưa làm gió tại các lục địa Trung Hoa - Ấn Độ, Cận Đông và Địa Trung Hải. Khoảng bốn nghìn năm về trước ,ở Đông phương ,nhất là Ấn Độ, quan niệnm về triết học đã có. Lịch sử triết học Ấn Độ, trước thời đức Phật ,nguồn tư tưởng triết lý đã có hàm chứa trong các thánh thư Védas.Về sau càng được khai triển thêm qua các bộ thánh thư Brahmana,Aranyaka,Upanishad….Bộ Brahmana(Tế Nghi Thư) gồm những bài thánh ca tán dương công đức và sự nghiệp vĩ đại của thần chúa tể 
Brahma(nguyên lý sáng tạo vũ trụ), và ghi những truyện về thần thoại cùng chú giải các điển tích cao đẹp các bài thánh ca. Bộ Aranyaka(Sấm Lâm Thư)là ghi chép những triết lý huyền nhiệm và các phép bí truyền của đạo …Bộ Upanishad(Áo Nghĩa Thư),nhằm giải thích những thánh ngữ và yếu chỉ của đạo. Upanishad còn có tên là thánh thư  Vedanta,tức thâu tóm những đoạn văn chính yếu trong hai bộ Tế Nghi Thư và Sấm Lâm Thư .Bộ Vedanta được liệt vào loại "thánh thư mặc khải ".
Những thuyết lý về vũ trụ vạn vật của các hệ phái sau này mỗi ngày càng đi xa với bản chất nguyên thủy của nó .chẳng hạn ,trước kia người ta thừa nhận Brahma là nguồn gốc của vũ trụ ,thì nay lại cho vũ trụ hình thành là do các yếu tố Đất, Nước , Gió, Lửa, Không khí…Phái khác nói :do các Tính Có -Đại Linh Tính "phát sanh ra vật chất ,ra tính cách,ra nghiệp lực ,…rồi các tính ấy kết hợp tạo thành muôn vật ,lần lần vượt lên chỗ trừu tượng ;có những phái xướng ra Không Gian Luận ,Thời Gian Luận ,Phương Hướng Luận ….bao nhiêu tư tưởng trào ra ,làm hổn loạn một thời! 
Kế đó là đạo Phật ra đời, đã tổng hợp các luồng tư tưởng A Độ ,tạo thành một triết lý sống(philosophie de la vie),lấy Con Người (Nhân Bản)làm mực thước để giải quyết mọi cấn đề về cả nội giới lẫn sự kiện khách quan thế giới bên ngoài .Con người là tất cả .Vì,có con người cho nên mọi vấn đề -tức khuôn mẫu sống ở đời -mới cần phải đặt ra .Con người là một tiểu vũ trụ nằm trong cái đại vũ trụ .Thế giới này càng mở rộng chừng nào là do tầm hiểu biết của con người ,mà có.Và do vậy rõ ràng đạo Phật là một triết học siêu triết học .Vào khoảng đầu kỷ nguyên Tây Lịch ,nền triết học Đông phương ,bắt nguồn từ tư tưởng đạo Phật ,đã thấm nhập vào đại lục địa Trung Hoa ,để cùng với các trào tư tưởng Khổng -Lão …tạo thành một nền triết học đại đồng phồn thịnh ,không chỉ dành riêng cho Ấn Độ -Trung Hoa*còn cho cả Á Đông và toàn thể thế giới nửa .
Nhìn về phía trời Tây, triết học được bắt rể từ Hy Lạp, chuyển dịch qua Đại Tây Dương và cho ta thấy ,hai nguyên tắc chính để cắt nghĩa hiện tượng vũ trụ ,tức vấn đề nhận thức và hành động .Sự hiểu biết của con người là do trí tuệ :rồi từ trí tuệ dẩn đến hành động (thực nghiệm).Nhưng,hàng động như thế nào đấy lại là một việc khác (xin sẽ bàn ở phần khoa học )
Những triết gia Tây phương đầu tiên ,ta phải kể đến PYTHAGORE,một nhà toán học kiêm triết học ở thế kỷ VI -TTL ,là  người đã sáng tạo ra danh từ Triết học "Philosophie "Từ thế kỷ thứ VÌI đến thế kỷ thứ IV-TTLlà thời kỳ phôi thaicủa nền triết học Tây phương ,những triết gia sau đây đã cùng nhau đi tìm nguyên nhân tối sơ của vũ trụ ;với THALÈS (640 -547) bảo là "nước",nhưng HÉRACLITE (576-480) lại nói là "Lửa"còn ANAXIMÈNE (48 0-TTL)thì cho là "không khí",phái triết học Tự Nhiên Luận thiên về việc quan sát ,giải thích vũ trụ hiện tượng như PYTHAGORE(580-500),lấy những con số để hình dung vũ trụ .ZÉNON(IV-TTL)nhìn nhận khởi thủy vũ trụ là do Những Gì Im Lìm "Tĩnh"nhgĩa là không chuyển động ,không biến đổi ;những con số ,những sự hoạt động đều chỉ là *những bề ngoài không có trong thực tại *.
EMPÉDOCLE(IV -TTL)thì thì công nhận trong vũ trụ cả thảy có 6 yếu tố :trong đó có  chất :nước,lửa,đất,khí trời và 2 lý trừu tượng là tình yêu và ghen ghét. LEUCIPPE và DÉMOCRITE(hai triết nhân này sinh đồng thời TTL V thế kỷ )với thuyết Nguyên Tử Luân ,cho rằng vũ trụ là do những hạt nhỏ (nguyên tử)kết cấu thành…
Như trên ,cho ta thấy ,mỗi phái luận giải khác nhau ,tựu trung chân lý chưa có một "thuyết"tương quan !Cái không khí hoài nghi đến cực độ đã bao trùm khắp cả…Lúc ấy nhà hiền triết SOCRATE (470-339 TTL)đứng ra cách mạng tư tưởng đương thời ,đưa triết học Hy Lạp trở về con đường "nội tỉnh"=connais toi toi meme".Nghĩa là ,"đưa triết học con   đường thuần trí thức trở về con đường hành động ,con đường chân lý ,đạo đức ,lấy Người làm đối tượng nghiên cứu …"Tiếp nối sự nghiệp vĩ đại của SOCRATE,có PLATON( 428-3 47 TTL)và ARISTOTE(3 8 4-322 TTL),tuy mỗi người mỗi khuynh hứớng ,nhưng vẫn dung hợp với nhau trên cùng mụch đích chung ,đó là :đi tìm cái Chân và Thiện ,tạo cho triết học Hy Lạp một thời long thịnh .
Vào thời trung cỗ ,triết học Tây phương như bị chìm ngập trong những kinh điển học qui ,lấy tư tưởng Sáng Thế làm tâm điểm ,thời kỳ của "đức Tin"và tình cảm ru ngủ!…Nhưng qua thời cận đại DESCARTES(1596-1656)đã nêu cao lý trí để phản động lại tình cảm ru ngủ thời xưa.O đã dùng "phương pháp luận "để chứng minh cho "sự vật nào"mà quan niệm rõ ràng ,đều là chân lý  ,O coi vũ trụ là một dây nhân quả vô cùng tận .Qua,DESCARTES,người ta đều nhận thấy "Tâm",Vật song hành ".là khởi điểm cho hai phái thuần lý do HÉGEL(1770-1831)và HAMELIN(1856-1907)dẫn đạo ,và phái thực nghiệm do Auguste COMTE(1798-1857)và SPENER(1820-1903)…
Tới đây thì triết học đã đánh dấu một lối rẽ rõ rệt :*Vấn đề Duy Tâm và Duy Vật; Chủ Quan với Khách Quan v.v..
Phái Duy Tâm cực đoan ,có BERKELY(1685-1753),Emmauel KANT(1724-1804), HÉGEL (1770-1831)…Nhà triết học Đức(Kant)là một trong những người thuộc phái quyết đoán tin tưởng vũ trụ cần phải có sự hiện diện của Trời ,mọi vật mới an bài .Rồi suy diễn :tin có Trời ,ta có thể hy vọng hưởng một cuộc đời bất diệt đầy hạnh phúc -Vì ,Trời làchủ động chứ không thể là thụ động .Còn ,HÉGEL lại cho rằng "Tất cả những gì thực tại đều Duy Lý =Tout ce qui réel est rationnel".Những phái Duy Vật cực tả, như DÉMOCRITE(VTTL), FEUERBACH(1775-1833),MOLESCHOTT(1820-1897), Karl MARX(1818-18830 và ENGELS(1820-1897), với một phong trào tích cực phản siêu hình ,theo phái này thì ,sự hiện hửu của Trời trong vũ trụ là điều không bao giờ có được. Những yếu điểm của chủ nghĩa Duy Vật là đưa vật chất lên hàng vạn năng,.Đấy là nguyên nhân khởi thủy của mọi vậđộng vũ trụvà xã hội .Về phương diện nhận thức khách quan ,phái này dùng Biện Chứng pháp (gọi là biện chứng pháp duy vật )làm công cụ khám phá của loài người ;đồng thời khích động phong trào giai cấp đấu tranh làm luật tắc vận hành của lịch sử .Do đó ,thuyết duy Vật chủ nghĩa thường lấy sự tranh đấu làm mụch đích cho mọi lẽ sống .*
Trên đây mới chỉ trình bày những nét đại cương của nền triết học Tây phương cũng đã hé mở cho ta thấy sự phân định thành những hệ thống Duy Tâm ,Duy Vật …Nhưng từ thế kỷ XIX-XX.thì triết học thực nghiệm ,chỉ còn lại siêu hình biện chứng pháp,luận lý.v.v..
Vấn đề tìm hiểu vũ trụ và con người ,qua các Tôn giáo ,đạo học ,triết học,.như đã trình bày .đấy chỉ mới là những tia sáng .Rút lại ,vấn đề đạt ra vẫn y nguyên là một vấn đề nan giải .
* Tìm ở Tôn giáo -Tôn giáo bị thần thánh hóa.
* Tìm ở Đạo học -Đạo học giải thích với những lý tưởng siêu hình ,khó hiểu!
* Tìm ở Triết học -Triết học có những hệ phái ,và mỗi hệ phái giải thích một khác; hơn nữa ,triết học đang trong vòng tìm kiếm ,suy luật nên dể bị ràng buộc trong những phạm trù học qui ,càng khó hiểu hơn .
Là những kẻ đi tìm đường ,càng đi sâu vào khu rừng Tôn giáo ,triết học ta càng lạc lối thêm !Vẫn biết ,không phải hễ đi tìm đường là tới đích ,phải lượng sức mình ,và phải có sự tuyển trạch của lý trí ,nếu không …(thưa bạn )-hãy coi chừng !
Trí xét đoán là mực thước cho tất cả ."Phải làm như con ong hút mật ,đừng làm theo con bướm giỡn hoa ",Ta không thể ỷ lại hay nhắm mắt tin theo bất cứ cái gì,ngoài sự nhận thức khách quan ,phù hợp với lẽ phải ,tạo thành hạnh phúc cho mình và cho mọi người chung quanh .
Giờ đây,chúng ta hãy du hành qua địa hạt Khoa học và đạo Phật để thử tìm ở đấy lối thoát ,một sự trả lời cho những nghi vấn kia .
* KHOA HỌC
Lịch sử tiến hóa nhân loại ,từ thế kỷ XVÌI,khoa học coi như toàn thắng về mọi phương diện ;ngoài những phát minh kỷ thuật, khoa học cũng đã len lỏi sang hệ tư tưởng để giải thích vũ trụ ,bằng những phương pháp mầu nhiệm chắc chắn hơn ,hoàn hảo hơn .Khởi nguyên tinh thần khoa học tiến bộ không phải trong dây lát hay một ngày tự giác ngộ nên .Một vài đặc tính của tư tưởng khoa học đã nẩy mẩm từ  những thời kỳ xa xôi .Nói đến khoa học ,người tiên phong tiêu biểu cho khoa học thực nghiệm là Francis  BACON(1561-1626) ,ông đưa ra những nhận thức mới về sự vật là nhận thức bằng cách xác định lý do ,qua"Tam Biểu Luân":1..biểu có mặt (table de présence),trong biểu có mặt ,ta ghi những hiện tượng nào luôn luôn có mặt với nhau ; 2..biểu vắng mặt (table d absence),trong biểu vắng mặt ,ta ghi những hiện tượng nào bao giờ cũng vắng mặt một lúc ; 3..biểu thứ tự (table de degré),trong biểu thứ tự ,ta ghi những hiện tượng nào cũng biến đổi một lúc .Đồng thời với Bacon ,bên phía trời Tây ,còn có DESCARTES (1596-1650)là người đã khai sáng cho một trào lưu tư tưởng mới-Tư tưởng Khoa học -;sau nhiều năm suy tưởng ,ông đã lập được bốn qui tắc căn bản cho phương pháp khoa học ngày nay .Bốn qui tắc đó là : 1…Trước hết phải chứng minh một sự vật nào đó ,sau mới nhận nó là sự thật . 2…Hãy chia sự vật ra từng phần đơn giản ,càng nhiều càng hay ,để dể dàng cho sự quan sát,giải quyết . 3…Sau khi đã xem xét ,nghiên cứu từng vật đơn giản ,phải thu thập lại cho thứ tự để tìm hiểu những sự vật khó hiểu hơn vốn tự nó không biểu thị (Qui tắc này cũng gọi là qui tắc tổng hợp ).4 .…. Cuối cùng ,kiểm điểm lại và tổng hợp những sự việc mà mình đã nhận định ,để khỏi bỏ sót một vật gì .Qua 4 qui .tắc trên ,vai trò của Descartes nổi bật hẳn lên như một vần sao sáng của bầu trời khoa học cận đại mà ngày nay người ta phải nhìn nhận ông như một cái mốc ,đánh dấu bước rẽ của nhân loại ,không chỉ về phương diện nhận thức mà cả về phương diện hành động nửa .Sau,Auguste COMTE(1798-1857),đã dựa vào thực tại ,để xướng thuyết "Thực Nghiệm Chủ Nghĩa"*.Và qua những biến đổi ,kinh nghiệm từng giai đoạn ,trí óc con người mỗi ngày thêm mở mang ,đã giúp rất nhiều cho sự khám phá những kỳ bí của thiên nhiên ,NEWTON(1642-1727)chỉ nhìn quả táo rơi mà khám phá ra luật Vũ Trụ Hấp Dẫn Lực,biết được :sự vận hành của hành tinh và sao chổi chung quanh mặt trời ,xoay tròn của địa trục ,sự lên xuống của nước thủy triều …Còn MALUS(1775-18120 ) đã tìm ra "sự phân cực ánh sáng ",và De VERRIER(1811-1877)thì tìm ra sao  Neptune tức Hải Vương Tinh  .Và   trước đó nhiều thế kỷ , ARCHMÈDE(287-212 TTL)đã phát minh ra nguyên lý tỷ trọng của các vật thể .Christophe COLOMB (1451-1506)và Fernand de MAGELLAN(1480-1521)*là những người đã cương quyết đi vòng quanh thế giới để tìm hình thể trái đất .VOLTA(1775-1827)và GALVANI(1737-1798)nghiên cứu các hiện tượng thuộc về điện   tử,tìm ra hai luồng điện dương cực và âm cực .FRANKLIN (174 4-1829),DARWIN(1809-1882)chủ trương sinh Vật Biến Hóa ,nghĩa là mọi vật chuyển biến đổi dời .LAVOISIER(1743 -179),nhà hóa học đầu tiên đã tuyên bố ;"Trong vũ trụ không có gì tự tạo ,không có gì tự tiêu diệt ",Phù hợp với định lý này ,Albert EINSTEIN(1879-1955)đưa ra thuyết "Tương Đối"đã chứng minh :"Vật chất là khí lực tụ lại cực điểm ,mà khí lực là vật chất tan loãngra cực điểm ",Vật chất và khí lực theo Einstein,chỉ là hai trạng thái cũa một thực tại (deux aspects d une réalité)…
Những nhà bác học trên đều đã xây dựng cho lầu đài khoa học mỗi ngày thêm vững chắc .Với vũ trụ ,dưới con mắt nhận xét của khoa học ,đã thừa nhận :Trong vũ trụ không phải chỉ riêng thế giới chúng ta ở,mà rất nhiều thế giới ,mỗi thế giới là một bộ phận tinh hệ của vũ trụ .Mỗi tinh hệ gồm có nhiều hành tinh ,vệ tinh quay chung quanh ;mà mặt trời là trung tâm ,gọi là Thái Dương Hệ (système solaire).Quay chung quanh mặt trời có 9 hành tinh :Thủy Tinh (Mercure)Kim Tinh (Vénus). *Địa Cầu (Terre), Hỏa Tinh(Mars), Mộc Tinh (Jupiter), ThổTinh(Saturne), Thiên Vương Tinh (Uranus), Hải Vương Tinh (Neptune) và hành tinh thứ 9, ở cách xa mặt trời nhất đó là hành tinh Pluton. Trong khoảng không trung có hằng hà sa số hành tinh hệ lớn nhỏ, gồm cả thế giới gọi chung là vũ trụ .
Tới đây ,ta đã có một khái niệm trong sự quan sát ,tìm hiểu thiên nhiên. Nhưng ,điều thắc mắc vẫn là cái nguyên nhân tối sơ của vũ trụ vạn hữu ? -.-Theo khoa học giới giải thích :"ở thời kỳ hổn mang ,trong vũ trụ chỉ có toàn thuần tinh (Ether).Sau với những nguyên nhân không rõ ,thuần tinh ấy kết thành những phần nhỏ rải rác ,nhờ sức vận động và sức hấp dẫn ,các phần tử nhỏ kết lại thành cồi *và cồi "nguyên tử" trước còn rời rạc ,sau kết thành vân tinh và căn nguyên của mọi Thái Dương Hệ .Đó là thời kỳ cấu tạo mặt trời và các hành tinh ,nhiệt độ của các vì sao ở thời kỳ này rất lớn -Với sự phóng tản không ngừng ,nhiệt độ của các vì sao giảm bớt tạo nên thế quân bình khiến cho sự sống có thể phát khởi ,ấy là thời kỳ đầu tiên có những sinh vật **địa cầu có thể ở được .Nhưng trong thời kỳ các nguyên tử vẫn không ngưng phóng tản ấy cùng với sự giảm tốc độ ,các nguyên tử mất dần thế vững ;bắt dầu một thời kỳ ly tán .Thế vững chắc của  các nguyên tố nội nguyên tử càng giãm đi thì sự ly tán càng nhanh .Rồi đến một thời kỳ quá suy ,các nguyên tử lại trở về thế thuần tinh như trước .Như vậy ,ta có thể biết :địa cầu cấu tạo bởi nguyên tử thuần tinh rải rác .Nguyên tử ấy tự súc tích lấy năng lực .Mà vật chất là một hình thái phát tán thành nhiều thế khác nhau ,như hơi nóng ,ánh sáng ,điện khí .v.v.. "lịch sử vũ trụ có thể chia ra hai thời kỳ :Thời kỳ Ngưng Kết Năng Lực Thành Vật Chất ,và thời kỳ Phát Tán Năng Lực ấy ".
Tiền bán thế kỷ XVÌI,một câu chuyện lịch sử ,thuộc phạm vi khoa học và Tôn giáo, đã xảy ra như sau :
*- Trời _GALILÉE(1564-1642) ,noi gương COPERNIC(1473-1543) ,ông đã đưa ra nhận xét :"Trời chỉ là khoảng không gian bao la vô cùng tận ,trùm cả mặt trời ,trái đất và nhiều hành tinh …"Thế là chỗ nào cũng có trời ….Mà nói thế tức đã phản lại tinh thần tôn giáo ;ông còn khẳng định :"Không có thần nào sáng tạo ra vũ trụ vạn vật cả ".Trước kia tôn giáo thần quyền thường bảo "Trời    tròn,đất vuông và đứng yên một chổ ;ở dưới là địa ngục ,ở trên là trời ".Ngày nay khoa học nhìn nhận ;mặt trời là trung điểm của vũ trụ .
-- Ai đúng, ai sai ?Đến nay ta mới rõ sự thật ,thì ra oan cho Galilée vì muốn (Tự Do Tín Ngưỡng )vì muốn giác ngộ chổ mê lầm của tôn giáo thần quyền mà suýtbị ghép tội tử hình -Việc này xãy ra dưới thời giáo hoàng Urbain VÌÌI(1633)do tòa án La Mã Xứ,vì ông đã dám viết cuốn "Dialogues sur les grands systèmes du monde"mang một nội dung trái với Thánh kinh -Sau đó ,buộc lòng ông phải tuyên bố trước công chúng :"Trái đất không quay".Mà "Trời"là gì?-câu hỏi ấy đã làm không biết bao nhiêu người phải băn khoăn ,thắc mắc…
**Đất,-Về trái đất ,tôn giáo xưa thường nói :Mặt đất hình phẳng ".Khoa học hiện đại xác tín :Trái đất tròn =la terre est ronde "*Theo LAPLACE(1749-1827) thì,nguyên thuỷ của trái đất là một khối lửa (une masse de feu)do  mặt trời văng ra, rồi nguội dần …chỗ nào lồi là núi ,đồi ,chỗ nào lõm là sông ngòi ,hồ ao hay biển, cũng có chổ bằng phẳng như sa mạc hay bình nguyên .
Và theo ,LUCRÈCE (509 TTL),ông đã có những giả tưởng rất hửu lý :"Địa cầu hiện ta đang sinh sống không phải duy nhất trong thiên nhiên ,chúng ta phải tin rằng ở những miền kháccủa không gian, cũng có nhựng địa cầu khác, những sinh vật khác ,những giố? người khác …
Dựa vào thực tại, khoa học ngày nay đã phát minh những cái mới la ,chế ra được cả phi thuyền liên hành tinh thể thám hiểm nguyệt cầu, làm sụp đổ hẳn một hệ thống tư tưởng thần quyền xưa cũ,đặt con người trước trách nhiệm của chính mình. Tuy nhiên, trên đường tìm chân lý ,khoa học chưa phải là vạn năng ,giải quyết được hết mọi khúc mắc của con người và cuộc đời này .Vì,"Khoa học chỉ bàn đến những điều tổng quát =I I n y a que de science du général"
Qua những trang trên, ta đã hiểu sự cắt nghĩa "Vũ trụ vạn hữu "của các Tôn giáo, Đại học, Triết học, Khoa học xưa và nay. Giờ đây, chúng ta thử dạo bước vào địa hạt. Đạo Phật và bản đồ đã sẵn có trên hai nghìn năm trăm năm nay - để thử tìm ở đấy một tia sáng ,làm chỉ chuẩn cho sự tìm hiểu về Vũ trụ và về con người.
Và kìa-Con Đường Sáng đã hiện ra…
Vấn Đề nhận thức
Đứng trên quan niệm nhận thức ,đạo Phật không hoàn toàn thuần túy là một triết học.  Vì,đạo Phật là tất cả ,hay nói khác ,đạo Phật là triết học siêu triết học .Đạo Phật cũng có những lối nhận thức sự vật ,bằng nhân giới trực quan ,rất chính xác .Thật vậy ,trước khi nghiên cứu vấn đề gì ta cũng nên đặt thành câu hỏi :Tại sao?rồi sau đó quyết tìm câu trả lời những nghi vấn mà mình đã đặt ra .Những vấn đề nào khi ta đã nhận xét được thấu đáo ,nó biểu hiện ra một cách phân minh ;và những ý tưởng để diễn tả sự vật cũng "đến"một cách dể dàng ;thì đó là một Sự Thật mà ta phải thừa nhận ".Tất cả hiện tượng trong vũ trụ chỉ là những con số cộng cộng các yếu tố (nhân duyên )mà có.Đứng về phương diện không gian mà luận thì ,vạn hữu là "Vô Ngã =anattà".nó không có cái thật bề ngang ;do cộng các điều kiện nhân duyên lại mà thành .Còn đứng về phương diện thời gian mà xét ,vạn hữu là "Vô thường =anicca".nó không có cái thật bề dọc ;do cộng các trạng thái sinh -diệt lại mà có .Chứng minh cho lập luận trên đây ,ta lấy một vật thể làm đối tượng để nghiên cứu ,tìm hiểu sự vật .Cây viết hiện có trước mắt tôi là do hiệp thể của nhiều chất liệu ,như:gỗ+sơn+mực và ý niệm của người thợ tạo ra cây viết tròn hoặc lục lăng ,với,"thiết ý"là để dùng vào viết hay vẽ …,bởi có "hiện tượng "cây viết mà chứng minh được chung quanh cây viết là không gian :vô ngã .Rồi từ khi có hiện tượng cây viết cho đến cây viết bị hủy hoại ,nghĩa là từ sinh -diệt này qua sinh -diệt khác ,gọi là thời gian :vô thường .
Tất cả sự vật hiện hữu  trong vũ trụ đều bao gồm trong một chữ"Pháp=Dharmas
** Nói theo từ ngữ Phật Học ,Pháp cũng gọi là "Nhất Thiết Pháp",tức chỉ cho Vạn Sự Vạn Vật và là Lẽ Sống ,Cách Sống ,Khuôn Mẫu Sống của muôn loài vạn vật trong cỏi đời này .Cái lẽ sống ấy cùng với trời ,đất,muôn vật nhịp nhàng chung sống trong một Nguồn Sống Vô Tận (tức Hiện Tượng -Bản Lai Diện Mục là như thế đó ;pháp nhĩ như thị là vathàbhùta).Với sự thật trên đây ,đã giúp ta khám phá ra hiện tượng vũ trụ vạn hữu gồm có hai mặt đối đãi :"Một Là Tấ Cả ",toàn thể vũ trụ tạo thành một vật (nhất tức nhất thiết );"Tất Cả Là một ",một vật ảnh hưởng đến toàn thể (nhất thiết tức nhất )*
Để nhận thức sự việc không bị lệch lạc ,sai lầm ,đạo Phật đề ra ba phương pháp ,cùng gọi là :Tam Lượng (ba phương pháp tỷ giảo ,nhận thức sự vật đúng như thật). Hình thái nhận thức thứ nhất là Hiện Lượng ,những sự vật hiện hành do ngũ giác và tri giác ta trực tiếp nhận thức một cách thâu đáo ,nếu ta có quan niệm rõ rệt về một vật ấy .Tỉ dụ :phải nghe tiếng nó ,phải ngửi mùi nó ,v.v…Trước khi có cảm giác rồi ,mới có tri giác ,không có tri giác thì không có quan niệm ,nghĩa là chưa thành hiện lượng .Hình thái nhận thức thứ hai là Tỷ Lượng ,sự suy luận ,đối chiếu bằng những phương pháp tỷ giảo ,lấy cá thể hiểu toàn thể làmđối tượng so sánh ,và chứng minh cho sự tìm hiểu sự thật ,như dựa vào pháp Tam Chi Luận trong Nhân Minh học *để tỷ lượng trong việc xét đoán vũ trụ vạn hữu .Hình thái nhận thức thứ ba là Thánh giáo Lượng ,căn cứ vào giáo lý Như thật do đức Phật dạy để mở mang trí tuệ (Prajnã),suy xét sự vật ,phân định lẽ chính tà ,thực hư .đó là những yếu  lý căn bản cho mọi phưương pháp nhận thức .Ta có thể y cứ vào đấy làm tiêu chuẩn để tỷ giảo ,phán đoán ,tìm hiểu chân lý .A?#7909;ng phương pháp Tam Lượng trong công cuộc tìm hiểu sự thật ,cho ta thấy :"Đạo Lý Duyên Khởi =paticcamuppàda"của đạo Phật là cắt nghĩa trọn vẹn cái lý do vũ trụ vạn hữu thường hằng ,luôn luôn sinh động (vô thường)nhưng không thực thể (vô ngã).Căn cứ vào Nhân Minh học (tức phương pháp Luận Lý học ),ta tập luận :
--Tôn -Tất cả hiện tượng trong vũ trụ đều biến chuyển ,vô thường.   
--Nhân -Vì các nhân duyên yếu tố giả hợp tạo thành .
--Dụ -Như cái nhà ,do các vật liệu "giả hợp 'tạo thành rồi phải mục nát ,hư hỏng 
Và, so với phép Tam Đoạn Luận (Syllogisme)trong triết học Tây phương :
--Đại Tiền Đề -Những vật gì do yếu tố nhân duyên giả hợp tạo thành ,đều bị hủy diệt ,
Tiểu tiền Đề -Như cái nhà ,do các vật liệu "giả hợp "tạo thành ,tất phải mục nát ,hư hỏng .
--Kết Luận -Vậy các hiện tượng trong vũ trụ phải biến chuyển ,vô thường.
Tới đây ,xin tạm mượn câu chuyện "đàm thoại "giữa đức vua MILINDA và  thánh giả  NAGASENA được ghi lại trong cuốn Di Lan Đà Vấn Đạo = Milindapanha"để chưng minh cho lý giải trên là sự thật .
--Thưa thánh giả ,tên thực ngày là gì ?-đức vua hỏi .
--Tâu hoàng thượng ,bạn đồng đạo thường gọi tôi là NÀGÀSENA,nhưng đấy chỉ là một cách để phân biệt một tiếng gọi ,một lối nói cho tiện ,hay nói khác ,chỉ là một cái danh chứ thực ra ,không có người Nàgàsena;thảng hoặc có kẻ đem đồ dâng cúng tỳ khưu (Bhikkh:tức chỉ thánh giả Nàgàsena)những thứ cần dùng ,như thức ăn ,áo mặc,đồ ngũ ,thuốc men …thì lấy ai để nhân lãnh ?-Và ai ăn dùng những vật ấy ?-Ai bảo toàn luân thường đạo lý ?
--Ai ngồi tham thiền ?-Ai hành đạo ?Ai đắc quả?-Ai nhập niết bàn?Ai là kẻ sát sinh ?Ai trộm cắp?-Ai tà dâm?-Ai phạm ngũ giới ? Nếu thế thì không có thiện ,không có ác,không ai kàm thiện cũng không ai làm ác ;những việc làm dù tốt hay xấu ,cũng chẳng có quả báo?Thưa tháng giả ,vậy thì không ai đánh giết ;tỳ khưu và tỳ khưu ni ơi !các người không có ai là thầy ,không ai là người giảng dạy ,không ai là người truyền đạo pháp ,nếu thánh giả nói rằng :Nầy các huynh,hoàng thượng gọi ta là Nagasena thì Nagasena là ai? "thưa Thánh giả ,xin ngài giảng cho .Hay là tóc trên đầu ngài là Nagasena?
---Hay là lông ,móng ,da,thịt,gân,xương,tủy,cật ,tim,gan,lá lách,phổi ,ruột ,cuống ruột,đồ ăn chưa tiêu hóa ,đồ ăn đã tiêu thành phân ,đờm,rũi,mồ hôi,mỡ,nước mắt,nước miếng,nước tiểu.v.v…
---Không.
---Hình sắc kia có phải là Nagasena chăng?
---Không…
---Sự nhận biết vui buồn ,sướng khổ,sự suy tưởng phải trái ;sự toan tính hành động ,trong lòng,có phải là Nagasena?
---Không.
---Thế không có chi là Nagasena cả,vậy Nagasena là gì?
---Không là gì hết ,thưa hoàng thượng.
---Có lẽ nào Nagasena chỉ là một tiếng không thôi sao,trầm e thánh giả nói dối .
Bấy giờ,thánh giả (luôn thể)trông thấy cái xe ,liền hỏi đức vua MILINDA:
---Tâu hoàng thượng,chứ ngài tới đây đi bộ hay đi xe?
---Đi xe ,thưa thánh giả .
---Hoàng thượng bảo đi xe ,vậy tôi xin hỏi :Xe là gì?Có phải cây gọng là xe không?
---Không.
---Phải bánh xe là không?
---Không.
---Phải ổ máy của xe là xe không?
---Không.
--…?
---….
Hõi mãi như thế ,không có cái gì đức vua Milinda có thể chỉ được là xe.Thánh giả Nagasena liền kết luận : Cái xe của hòa thượngchỉ là một dấu hiệu ,một tiếng gọi ;tôi e hòa thượng nói dối khi nói đi xe đến đây…
Ở đời,hễ cái gì có hình tướng ,đều biến đổi ,không thật .-Phàm cái gì có hình tướng đều là giả dối ,có sinh phải có diệt "-Kinh Kim Cương .
Cuộc đàm thoại trên đây đãchứng minh cho sự thật của Đạo Lý?#234;n Khởi ,Vô Thường ,Vô Ngã trong đạo Phật .Một sự thật không ai có thể chối cải.Thật vậy ,tất cả sự vật hiện hữu trong thế gian này ,hoặc đang băng hoại ,hay sẽ thai sinh ,là do sự kết hợp "vô thường"cùa một số tinh thể đơn thuần qua nhiều giai đoạn ,và cứ thế tiếp tục mãi …"Đạo Lý Duyên Khỡi"cho ta thấy :Sự  vật không phải chỉ là những cá thể cố định ,đơn điệu ,độc lập ;mà là những" phần tử "hòa hợp trong một khối chung của "toàn thể".Những phần tử ấy có một xã hội tính ,tức tính "Nhân Duyên Sinh".Với  tính Nhân Duyên Sinh ,đạo Phật đánh dấu sự tương quan mật thiết giữa hết thảy …Vì biết rằng ,hết thày sự vật trong vũ trụ ,hoặc trực tiếp ,hoặc gián tiếp ,ảnh hưởng lẵn nhau mà tạo thành . **Vũ Trụ Luận.
Trong Vũ Trụ Luận (Cosmogonie) gồm hai phần : Hình Nhi Thượng : Métaphysique,nghiên cứu Bản Thế Chân Như (Tathatà hay paràmartha). Như Lai Tạng (Tathatagarbha);Hình Nhi Hạ :Physique,phần triết lýthực tiễn ;những việc con người ,vũ trụ .
1.Thế Giới Vô Biên ,Chúng Sinh Vô Hạn Lượng .Nhưng Tất Cả…,Đều Do Nghiệp Biến Hiện.
Trong vũ trụ có rất nhiều thái dương hệ ,mỗi thái dương hệ là một thế giới ,hợp nghìn thế giới thành một Tiểu thiên thế giới ,hợp nghìn tiểu thiên thế giới thành một Trung thiên thế giới ,và hợp nghìn trung thiên thế giới thành Đại thiên thế giới .
Mỗi thế giới có những Y Báo,Chính Báo khác nhau ,nhưng không ngoài "Nhgiệp Cảm Duyên Khởi ".
Nói đến "NGHIỆP" (Karma) tức nói đến sự sinh động biến hóa của vạn hữu (tous les êtres).  Nhưng Nghiệp là gì?  Và Vũ Trụ do Nhân duyên nào mà có? Nghiệp là Vô Minh (Avidyà)duyên khởi và tự nó tác động, chứ không bị chi phối bởi một sức huyền nhiệm nào cả.Mà Nghiệp thì hoàn toàn động.Bởi có động mà vũ trụ vạn hữu mới tiến hóa ,sinh tồn-động ,hay nói Nghiệp cũng thế -xin hiểu theo nghĩa rộng -khi khởi thủy có thế giới ,có các loài sinh vật là có động .Động là biến hóa cần phải có để duy  trì trật tự trong vũ trụ và là Lẽ Sống của mỗi hành tinh hệ ,gồm nhiều thế giới gọi chung là vũ trụ .
"...Cứ tiến mãi qua 33 từng trời: 56 cảnh giới Bồ Tát;vũ trụ tùy mỗi từng mà rộng lớn gấp bội .Mỗi Phật sát là một cõi ohật ,và mỗi cõi gồm có Tam thiên đại thiên thế giới 3 000 000 000.*Từ cõi đức phật Cakyamuni vượt qua mười ức vạn cõi Phật khác ,còn có một cõi do đức Phật A Di Đà (Amitabha buđha)làm giáo chủ .Mỗi cõi Phật sát đối với không gian ,chỉ là một hạt bụi nhỏ khác .Các Phật sát đầy dẩy hư không .Thật là bao la!**
Chỉ mới đứng về mặt tương đối cuộc đời mà luận ,ta cũng đã thấy :Vũ trụ rộng lớn ,có muôn hình ,muôn vẽ ,nào trăng,sao,trời,đất,núi,sông,cây cỏ,người và vật .v.v…Tuy nhiên ,sự nhận thức của con người (do ngũ quan và ý thức tạo thành )khác với sự nhật thức của các loài động vật "nhìn "và "hiểu "những cảnh vật ấy (cộng nghiệp trong biệt nghiệp ).Nghĩa là  ,tùy mỗi Nghiệp lành hay dữ của chúng sinh mà sự cảm ứng khác nhau .Con người thuộc trong những loài động vật.Nhưng đời sống con người khác đời sống của loài muôn thú .Mỗi loài có một "tính sống"riêng biệt ,như cá thì bơi lội dưới nước ,chim bay bổng trên không ,hổ báo thì sống ở trên cạn (mặt đất)và trong những miền rừng rú ;hoàn cảnh khác nhau ,nên sự sống cũng khác nhau .Theo quan niệm đạo Phật thì ,vũ trụ (tự nó=chose en soi)đã biến chuyển bao lần ,và còn biến chuyển mãi mãi.Đó chẳng qua là do "Nghiệp thiện "hay "Nghiệp ác"từ vơ thủy kiếp đã tạo ;mà "y báo"(chỉ cho tất cả sự tướng hiện hữu ,dù lớn hay nhỏ ,lớn như thái dương hệ ,sơn ,hà ,đại địa ,thành quách lâu dài …,nhỏ ,như hạt bụi ,vi trần ..)"chính báọ"(bồm hết thảy sinh vật ,trong đó có con người và vạn hữu ,gọi chung là chúng sinh )làm nhân -nguyên nhân chủ yếu -,làm duyên -nguyên nhân phụ thuộc -để phát sinh hiện tượng giới ,Tất cả y báo ,chính báo cũng lại do Nghiệp cấu tạo mà thành .Nói theo Đạo Ly Duyên Khởi *thì sự vật luôn luôn biến hóa vô cùng tận ;đó không phải Vật Này sinh ra Vật Kia mà là Vật Này làm nhân ,làm duyên sinh khởi ra Vật Kia .Hay nói cách khác :
"Cái Này có thì Cái Kia có;
Cái Này sinh thì Cái Kia sinh,
Cái Này không thì Cái Kia không .
Cái này diệu thì Cái Kia diệt *(*)
Majjhimani  Nikaya ÌÌ-63-
Cũng như nói ;Quá sinh ra cây ,cây nở hoa ,hoa kết thành quả .
Sự "Có,Không""Còn Mất "chỉ là sự thay đổi hình dạng mà thôi .Thực ra "Nó"không mất đi đâu cả (**)Ta hãy lấy một dự kiện để chứng minh cho Sự Thật kia :
Nước H2O,khi nước sôi bốc thành hơi ,hơi động lại vẫn là nước .Đó là một hình thức ,chỉ là sự đối thể của một chất liệu .Chúng ta nói :cái chết làm tiêu diệt một sinh vật mà không nói sãn sinh ra một xác chết ;có khác gì ta coi trọng cái hình thức (giả tướng )hơn chính sự sống ,là phần tâm tưởng tinh anh .
Thực ra,đối với Bản Thể (Essence)của sự vật ,nó không bị tiêu diệt ,mà chỉ thay đổi qua nhiều trạng thái khác nhau ,giữa …sự sống và sự chết ,và cứ như thế tuần hoàn biến diễn mãi không thôi .Cho nên ,ta không thể nói Cái nào có trước Cái Nào có sau . Vũ trụ là một cuộc đại hoạt động vô thủy vô chung (sans commencement ni fin).Từ nguyên tử nhỏ nhiệm đến các tinh tú xa xôi ,đều nằm trong cái vòng luân lưu không bao giờ đứt quãng …,khác nào như những lằn sống ngoài biển cả .Ngược về trứớc ta ta không tìm thấy có thủy ,ngó lại sau chẳng thấy có chung ,thì làm sao có thể gọi được là Nguyên Nhân Tối Sơ (?)Mỗi thời đại  hiện ra cùng vạn vật ,rồi lại tan đi mà biến ra thể vô hình ,vô sắc.Khi hiện ra gọi là Sắc khi biến đi gọi là Không ..*.Do đó, đạo Phật cắt nghĩa sự biến chuyển của vũ trụ vạn pháp (nghĩa như chữ vạn vật )bằng hai chữ "Sắc" "Không"
2.  Sắc Không
a.  SẮC (Rupam hay Lak sana)
Chỉ cho tất cả vật thể trong vũ trụ có hình tướng mà ngũ quan ta cảm giác thấy, những ý tưởng ,tâm tình đều thuộc phạm vi "sắc"cả .Cái gì thường còn mãi ,mới gọi là "có", như Bản Thể (Essence),Chân Tâm (L^être infini), Chân Như (Réalitéultime)v.v..,những trạng thái luôn luôn sinh diệt ,có rồi lại không ,như những bọt nước trên mặt sống biển…Đấy không phải là có mà chỉ là "giả có".
b.  KHÔNG (Sunyatà):
Không, là trạng thái không hình sắc ,âm thanh,không thể dùng giác quan mà tiếp xúc hay suy tưởng .Nhưng nó lại có sức linh hoạt như những luồng quang tuyến ,tuy vô hình song có một năng lực biến chuyển một giây có thể chạy chu vi địa cầu tám lần .Nhgĩa là ,"Chân Không Diệu Hữu ",*Cái "Không"này là hoàn toàn không ,vĩnh viễn không (Chân Không)chứ không phải không trống rỗng ,không có gì (ngoan không -Vide)..Để hiểu Chân Không một cách giản dị ,ta hãy lấy một ống chứa đầy không khí bằng thủy tinh rồi cho hút hết không khí -có chứa đựng trong ống thủy tinh ấy -ra ngoài ,thì trong đó ta tạm thấy "Chân Không ",như những luồng quang tuyến ,dù có hiện ra hay biến đi ,nhưng nó vẫn là nó .Nó chỉ đổi thể mà thôi (changement d état).Trong kinh Bnhã (Prajnà paramita) chép :"Sắc tức thị không ,không tức thị sắc ,sắc bất dị không ,không bất dị sắc …thị chư pháp không tướng ,bất sinh bất diệt ,bất cấu bất tịnh ,bất tăng bất giảm ..
Các bậc tu hành ,khi đã chứng được "bát nhã trí "(prajnà),nhìn thấy các pháp đều là không .Một trong những vị thiền sư đắc đạo của nước ta ,ngài Từ Đạo Hạnh,triều đại nhà Lý ,đã cảm thông được lẽ "có""không "hiện ra trong vũ trụ vô biên ,biểu thị qua những vần thư tuyệt diệu dưới đây :
"Có thì có tự mảy may
"Không thì cả thế gian này cũng không.
"Thử xem bóng nguyệt giòng sông. 
"Ai hay không có, có không là gì?"
Tùy Theo nhân duyên mà hiện ra nhu là có sinh .Cho nên gọi là tạm CO.  Bởi không có tự tinh ,nên gọi là KHÔNG=Tòng duyên sinh cố ,danh chi vi hữu .Vô tự tính cố ,danh chi vi vô -Kinh Đại Bát Niết Bàn-
Sự đổi thể giống như nước đổi ra hơi ,hơi lại về nước ;như những luồng quang tuyến tuy bị tắt là do tại vì bóng hỏng và máy hư (tùy duyên bất biến ).  Nhưng điện tính thì không bao giờ mất hẳn (bất biến tùy duyên ).nó vẫn có đầ?#7851;trong khắp cả hư không giới (nghĩa chữ "sắc bất dị không ")nhung khi đủ yếu tố nhân duyên ,như dây ,bóng …ta bật đèn là thấy có ánh sáng ngay(trước không ,bây giờ có ánh sáng ) (nghĩa chữ "Không bất thị sắc ".Do đó,cho ta thấy ,vật chất chỉ như là những làn sóng nhấp nhô ngoài biển cả .Mà tinh thần cũng vchỉ là những luồng ý niệm được tiếp nối từ quá khứ đến hiện tại và vị lai .dưới con mắt Phật học ,ta nhìn vũ trụ vạn hữu không ngoài hai định đề "Sắc",Không ",và nó còn phải liên quan mật thiết tiếp nối nhau theo luật nhân duyên nhân quả ,và luôn luôn biến chuyển mà muôn vật được sinh sôi nảy nở ,nhịp sống mới đều hòa ;nếu vũ trụ bất động ,vạn vật sẽ tự diệt .
Ở đây ,ta có thể tượng trưng vũ trụ như một hình tròn ,theo sự biến chuyển như sau:
Không Sắc  
Vẫn biết vạn hữu (tous les êtres)do nhân duyên cấu tạo nên ;nhưng cái gì là tượng trưng cho vũ trụ vô biên ấy ?-Đạo Phật với thuyết "Bản Thể Thật Tại Luận".
3-Bản Thể Thật Tại Luận 
Hay Câu "Nhất Thiết Duy Tâm Đạo" 
            Trong kinh Hoa Nghiêm (Avatamsakasutra) chép:"Vạn hữu trong vũ trụ đều do Tâm (Bản Thể) biểu hiện ="Nhất Thiết Duy Tâm Tạo".Chữ Tâm ở đây không có nghĩa chỉ cõi lòng vui buồn ,ganh ghét hay cái trí hiểu biết của con người .cũng không phải như chữ Tâm theo định nghĩa hạn hẹp của triết học là :Tinh thần chủ quan sinh ra vũ trụ khách quan .Lại càng không nên hiểu theo triết lý của Hégel ;Tâm là ý niệm hoặc ý tưởng tuyệt đối .Phần nhiều ta không chịu tìm hiểu,chỉ mãi loay hoay trong rừng rậm danh từ ,không tìm ra được lối thoát,nên rất dễbị lầm lạc .thật đáng tiếc!Chẳng hạn người ta thấy trong kinh Phật thường hay nói đến chữ "Tâm",những người nông nổi vội kết luận cho đạo Phật là "Duy Tâm".
Để hiểu chữ Tâm ,theo đúng quan niệm đạo Phật ,chữ Tâm (ở đâu có chia ra 
"Chân Tâm (Pêtreinfini),và Vọng Tâm (conscience inconnaissable).Ta nên nhớ :Căn bản của phiền não sinh tử là VọngTâm .Mà căn bản của Bồ Đề ,niết bàn là Chân Tâm .Nhưng chữ Tâm -chữ Tâm viết hoa -xin hiểu nghĩa là Bản Thể Của Vũ Tru Vạn Hữu ,tức Tâm Chân Như hay Thể Tính chân Tâm (les éléments essentiels de l etre infinị.
Cũng xin nói thêm về chữ "Tâm"(Citta),hiểu theo danh từ Phật học ,có nhiều tên khác nhau ;tùy trường hợp ,cũng gọi là Chân Tâm ,Bồ Đề, Niết Bàn,Như Lai Tạng ,AlayaThức hay Pháp Thân ,chân Lý v.v..  bsp;
Thật ra những danh từ trên đức Phật tạm đặt ra để chỉ cái "Bản Thể Tuyệt Đối"của vũ trụ  ,đó cũng chỉ là phương tiện để hướng dẩn con người đạt được Chân Lý .Trong kinh có câu :Nhân chỉ kiến nguyệt",nghĩa là nhờ có ngón tay chỉ mà ta biết được mặt trăng .Mặt trăng ở ngoài ngón tay người chỉ .Ngón tay là ám chỉ cho lời nói ,lý luận và danh từ ,còn mặt trăng mới đích là chân lý của Bản thể Vũ Tru .Khoa học ngày nay thì nói đến những Electron ,Atome et Noyau để cắt nghĩa vật tiên thiên đã tạo nên vũ trụ vạn vật …Đó,chẳng qua cũng chỉ tạm mượn cái tên điện tử ,nguyên tử hay hạch tử để chỉ cái nguyên chất (có sẳn)trong vũ trụ mà thôi .Trong Đại Thừa Khởi Tính Luận ,chép:Đứng về phương diện Bản Thể ,thì tất cả các pháp từ xưa tới nay ,lìa các"tướng" như lời nói ,chữ nghĩa ,tư tưởng ,tuyệt đối bình đẳng ,không có thay đổi ,không hư hoại ,cùng chung một Bản Thể Sáng Suốt Của Nhất Tâm ,nên gọi là Chân Như =Nhất thiết chư pháp ,tòng bản dĩ lai ,ly ngôn tuyết tướng ,ly danh tự tướng ,ly tâm duyên tướng ,tất cánh bình đẳng ,vô hữu biến dị ,bất khả phá hoại ,duy thị nhất tâm ,cố danh chân như .
Để hiểu chữ "Tâm"rong đạo Phật một cách sâu rộng hơn ,kinh Lăng Nghiêm (Suramrama  sutra)có ghi lại mẩu chuyện đối thoại giữa Đức Phật và để tử là Ananda,sau bảy lần gạn hỏi ý nghĩa chữ "Tâm",đều bị đức Phật bác ,cho là không đúng .Và dưới đây là mẩu chuyện lý thú đó :
1.-Ananda Chấp Tâm ở Nơi Thân -"Tâm không phải trong thân .Nếu bảo tâm ở trong thân ,trước hết ,ông phải lấy tim, gan ,mật ,phổi,lá lách…,sau mới thấy cảnh vật bên ngoài".Tại sao,ông không trông thấy ?-lời đức Phật .
2.-Ananda Chấp Tâm Ở Ngoài Thân -Đúc Phật:"Tâm ở ngoài thân ,thì tâm và thân ông không dính dấp nhau .Vì lẽ gì ,mắt ông vừa trông thấy cảnh vật ,tâm ông liền biết ?Như vậy,thân và tâm đâu có tách rời nhau .
3.-A?a Chấp Tâm Ở trong Con Mắt -Đức Phật :Nếu tâm ở trong con mắt ;tại sao,tâm ông lại không thấy được mắt ông .Cũng như người chết ,con mắt còn đó ,tại sao lại trông không thấy gì ?
4.-A?a  Chấp Trở Lại ,Tâm ở Trong Thân,ông nói:"tôi mắt thấy tối ,mở mắt thấy sáng là tâm thấy cảnh vật bên ngoài .Như vậy ,tâm ấy đúng ở trong thân tôi".Đúc Phật liền hỏi vặn lại Ananda:"Nếu ông nói rằng nhắm mắt thấy tối ,vậy cái tối ấy có đối trườc mắt ông hay không ?"
5.- A?a Chấp Tâm Tùy Chổ Hòa Hợp Mà Có .Đức Phật:"O⮧ nói ,tâm tùy chổ hòa hợp có ;nghĩa là ,tâm ấy không có thực thể (tức không có)thì lấy gì làm hòa hợp ?Nếu nói,nó từ trong thân hoặc từ hư kgông hiện ra ,lẽ tất nhiên ,nó phải thấy lục phủ ,ngũ tạng bên trong và thấy hình thể con người bên ngoài .Còn nói,tâm ấy có nhiều thể (thành ra có nhiều tâm ),biết cái nào là tâm của ông ?tùy hòa hợp chổ nào tâm liền ở chổ đó ,là sai".
6.- A?a Chấp Tâm Ở Khoảng giữa -Đức Phật dạy :"tâm"và "cảnh"là hai thể khác nhau ,một bên có tri giác (tâm),một bên không có tri giác(cảnh ),hai cái đối lập ,riêng biệt nhau ,thì lấy cái gì gọi được là giữa ?
7.- A?a Chấp Cái Không Trược *Là Tâm -Đức Phật ;Hễ cái gì có hình tướng ,như núi,sông,trái đất thì gọi là "giả có";còn cái gì không hình tướng ,như lông rùa ,sừng thỏ đều gọi là không ,và đã không ,thì có gì mà nói là "trược"?…
Đến Đây ,Đức Phật giảng rõ thế nào là Thể Tính Chân Tâm để giúp cho chúng sanh sớm ngộ nhập "Phật tri kiến",nhìn thấy các pháp là không tướng ,con người và chúng sinh là do nhân duyên cấu tạo ,nên nó "vô ngã',và hết thảy sự vật hiện hữu trên cỏi đời này đều "vô thường"chuyển biến .Muốn giải thoát những ràng buộc mê luân khổ đau ,thì con người phải biết "tu tâm,dưỡng tính"để mình không còn bị làm nô lệ cho cái hình hài giả tạm ,và sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn ,một cuộc sống vĩnh cửu,thanh tịnh ,tự tại ,như nhất …
Vòng tròn tượng trưng cho "Tâm"hay"Bản Thể"của vũ trụ vạn hữu .
 Đường thẳng và cong biểu tượng
Sát na  sinh diệt.
Vậy,Tâm ấy là thể bản nhiên thanh tịnh (Đại Ngã Thể)*bao trùm khắp pháp giới -xin hiểu nghĩa như chữ vũ trụ -hư không giới ,bao giờ nó cũng là một thể tồn tại ,không sinh diệt ,không thêm ,không bớt,không sắc tướng ,cũng không hẳn là hư không ;vũ trụ vạn hữu đã từ vô lượng kiếp luân hồi …
Đến đây ta hãy lấy một thí dụ để chứng minh ,như "nước"là Bản Thể,có tính chất thành Sóng .Mặc dầu là nó tĩnh nhưng vẫn có tính chất động .Tĩnh và Động là hai tính chất có ở trong nước.Sóng,chỉ cho Hiện Tượng "tinh thần và vật chất".
Nước,chỉ Bản Thể "vô biên ..".Vậy ,có Sóng là có Nước .Cũng như nói có Hiện Tượng là có Bản Thể .
4.-Thể ,Tướng,Dụng
a.Thể
Bản Thể,chỉ cho vũ trụ bao la- "Tâm Chân Như"Ví như nước mênh mông trong đó có đầy đủ các yếu tố nhân duyên để  "cấu tạo"vạn hữu ,nếu ta thu hẹp lại thì nó chỉ là một con số không (0),nhưng trong đó vẫn hàm tàng hai tính chất "Sắc"(vật chất), "Tâm"(tinh thần).Đạo Phật quan niệm ;Tâm,hay Vật nhị nguyện đồng nhất thể ,nghĩa là ,dù Tâm hayVật đều có ở trong "Bản Thể;không phải   "Tâm"có trước "Vật",như phái Duy Tâm  chủ trương  "tinh thần có trước ,vật chất có sau .Hay nói ngược lại , "Vật"có trước "Tâm",như phái Duy Vật chủ trương "vật chất sản sinh ra tinh thần".Trong Duy Thức Học (Vijnànavàda)nói: "Tâmvà Vật là hai cái  "đồng thời"có ở trong Bản Thể Chân Như..Nếu không có Tâm thì không có Vật ;mà không có Vật thì cũng không có Tâm =Kiến ,Tướng đồng thời nhi khởi ,vô kiến tắcvô tướng ,vô tướng tắc vô kiến".
Viên đá lửa sẵn có "tính lửa"hàm chứa bên trong ,nên khi ta bật thấy lửa phát hiện .Cũng như "tính ướt"của nước vẫn sẳn có ở trong nước.Bản Thể của vũ trụ hiện hữu ,như ta đã thấy ,nó không ngoài Hiện Tượng mà có Bản Thể .Hiện Tượng ,tức Bản Thể .To như Thái dương hệ ,nhỏ như vi trần cũng đều do nơi Bản Thể vô biên diệu dụng kia mà biến hiện ra cả….
 b. Tướng
Tướng Trạng ,chỉ cho núi ,sông ,người và vật -Hiện Tượng giới -Ví như nước biển đem pha các màu xanh ,đỏ ,vàng ,tím ;tuy sắc tướng có khác ,nhưng nó vẫn không ngoài thể chất "nước".Vũ trụ với thiên hình vạn trạng khác nhau về hình thái song đều chung một Bản Thể ,không hai,không khác.
            c.Dụng
            Công dụng ,tức chỉ cho sự sai biệt giữa vật này và vật kia :-sinh diệt ,vô thủy vô chung -với sự áp dụng của  "Sắc"hay   "Tâm",tùy theo trường hợp thiện và ác của   "Tướng",như màu sanh ,màu vàng v.v..để dùng vào việc viết (hay vẽ)các vật xanh,vật vàng v.v…
5.Những Nguyên Nhân Cấu Thành Vũ Trụ Vạn Hữu
Trong Bản Thể Vũ Trụ gồm sáu yếu tố công năng hoạt động làm căn bản ,cũng gọi là "Lục Đại Duyên Khởi"(Màhàhhutas les six élémants) tức : Địa (Prthividhàtuh),Thủy(Abdhàtuh),Hỏa(Tejodhàtuh),Phong (Vàyudhàtuh),Không(Sùnyatà),Thức(Vijnàna),dung hòa lẫn nhau và tạo ra muôn loài vạn vật hiện hữu ở thế gian này.
Sáu công năng đó là:
            *Công Năng Rung Động           : Gió
            *Công Năng E?#7863;ng           :Đất       
            *Công Năng A᭠Nóng             :Lửa
            *Công Năng Mịn Ướt               :Nước
            *Không Gian                            :Hư Không 
            *Linh Thức. 
Tính chất của sáu công năng rất tinh tếkhông phải là hình thức thô sơ như những nguyên tử,điện tử cón có thể phân tích;đằng này tự nó,nó có đủ năng lực tiến hóa ,phát triễn .Đứng về quan niệm sai biệt ,ta nhận thấy có sáu công năng khác nhau ;nhưng đứng về phương diện tuyệt đối thì chỉ thấy (duy nhất)có một "Bản Thể"-Bản Thể Bính Đẳng Như Nhất.Bản Thể - xin nhắc lại -cũng có chổ gọi "Không Tướng hay "Chân Không",như trong Bát Nhã Tâm Kinh nói: "Thị chư pháp không tướng ,bất sinh bất diệt …"Các pháp vốn không thật có .Mà đã không thật có thì làm gì còn có sinh diệt .Bởi không còn bị sinh diệt nên gọi là Chân Như (Tathatà) .Vẫn biết trong Bản Thể Vũ Tru chứa sẵn sáu yếu tố công năng ,nhưng ta cần biết cái nào hiện trước ,cái nào hiện sau ?Vấn đề này ,khoa học hiện đại hãy còn đương trong vòng tìm hiểu .Nhưng ,đạo Phật đã có giải thích rỏ trong Kinh Lăng Nghiêm (Suramrama-sùtra),quyển IV chép:
Khoảng không gian vô cùng tận do nguồn linh thức quá mạnh làm rung động một lượt  "6 yếu tố công năng" và cùng quay chuyển biến mà sinh ra "phong đại"(Vent)trước.Và do những luồn gió thổi  "quyên "các yếu tố lại tạo thành  "không khí"(Atmosphère),rồi đến  "địa đại"(Minéral) ,và do sự cọ xát giữa hai áp lực gió và không khí tạo thành lửa  "hỏa đại'hay "điện lực"(Electricité);hơi nóng bốc lên gặp khí lạnh ép xuống thành nước  "Thủy đại"(Océan);Lửa bốc lên ,nước dội xuống làm cho lắng động lại và nguội dần ,chỗ nào bằng phẳng là đất ,chỗ nào sụt xuống là bể hay hồ ao;nơi nào sức nứớc mạnh hơn mọc ra cây cối .."
Tất cả những thứ đó gọi chung là "Khí thế gian"
Đức Phật còn cho ta biết :ở thế gian cả thảy có bốn loài sinh (Catvàro yonayah)*khác nhau .Bốn loài đó là :
--Hóa Sinh (Upapàdukàh),như con sứa do  "khí hóa"của bọt nước,con đom đóm do củi mục sinh…
--Thấp Sinh (Sumsedajàh),những loài giun ,dếtừ nơi ẩm ướt ..
            --Thai sinh (jaràyujàh),những loài sinh bằng bào thai ,như loài người 
--Noãn Sinh *(Andajàh),những giống sinh bằng trứng ,như loài cá,chim v.v..
Những loài sinh trên đây đều mang trong tự thể cái hình hài giả tạm và cùng chịu chung một định luật ;Sinh,già ,ốm ,chết !
Rồi cứ như thế hết sinh vật này đến sinh vật khác tiếp nối nhau sinh sản mãi ,thì đấy gọi là  "Tình Thế Gian"
Vũ trụ vạn hữu đã do  "nhân duyên nhân quả"cấu tạo ,vậy ta biết được rằng giữa các hiện tượng có là do những mối dây quan hệ chằng chịt mật thiết với nhau mà không bao giờ bị đức quã?bởi vũ trụ là một khối duy nhất : "Vạn Vật Đồng Nhất Thể"Tức có nghĩa nói rằng trong vũ trụ gồm có tinh thần và vật chất vốn cùng một " Bản Thể"và cùng bất biến (éternel).
Thật thế,muôn vạn cảnh tượng biến hiện trên thế gian này ,to như Thái dương hệ ,nhỏ như vi trần cũng đều là hiện thân của Bản Thể Vô Biên Tuyệt Đích .Tuy nhiên ,khi Hiện tượng giới đã hình thành thì nó bắt buộc phải theo một công lệ   "Thành ,Trụ ,Hoại ,Không.. 
Mỗi thời kỳ có hai mươi tiểu kiếp*bốn thời kỳ là tám mươi tiểu kiếp .Mỗi tiểu kiếp có 16.800.000 năm ,80 tiểu kiếp gọi là một đại kiếp ,tính có 1.34.000.000 năm;trải qua bốn giai đoạn dài dặc ấy rối trở lại vô cùng tận …Địa cầu được đứng vững là nhờ những dẫn lực của các hành tinh và các vòng "phong luân", "thủy luân", "hóa luân và   "không luân".
Thật ra,từ khi có con người và vạn vật trên địa cầu,đã có biết bao lần đổi dời ,biết bao sự khủng hoảng về kinh tế,chính trị ,về phong tục ,đạo đức,về văn hóa,tôn giáo,và không kể xiếtvới những trang sử thịnh suy,bĩ thái,lớp này chết ,lớp khác sinh,trái đất này tan làm nhân cho trái đất khác;trong vũ trụ có hàng triệu thế giới …biết bao nguồn sống của chúng sinh ,mỗi nơi có khác nhau ,không tìm thấy mối hóa khứ từ đâu ,không chứng nghiệm được những tương lai vô tận .
Vũ trụ và con người cứ như dòng sông chảy xiết ra biển  "Bản thể Vô Biên",mênh mông bát ngát không ngừng ?!Nhưng,đó chỉ mới đứng về phương diện tương đối mà nói ,còn về phương diện tuyệt đối thì ,tất cả hiện tượng vạn vật không sinh mà cũng không diệt ,cái Bản thể Tuyệt Đích thật   ra cũng không thêm ,không bớt *.Mặc dầu hình tướng đổi dời song Bản Thể thì vẫn còn mãi (Pháp Nhi Như thị Dhardama).Nó khác nào chất  "cứng"đổi ra "lỏng",rồi   "lỏng"biến thành " hơi",dân dần biến trạng kết trở lại thành  "cứng"(..)
Đến đây,ta lại cần nghiên cứu để hiểu mặt trời tại sao có chất lửa ?-Trong Kinh Lăng Nghiêm chép:Mặt trời thuộc về  "hóa đại"(chất lửa)do nhân duyên kết cấu .Ta hãy lấy một ví dụ để chứng minh cho sự thật này :giữa lúc nắng về buổi trưamùa hè ,ta lấy một ít bông gòn đểdưới một cái kính hiển vi thường (loupe)hay tối tân (microscope électronique)rồi đem kính ấy soi vào mặt trời lúc lâu thì thấy hốc khói và có lửa phát hiện .Như vậy là  "chất lửa"vốn có khắp trong vũ trụ ,cùng với các chất đất ,nước,gió …Nói tới đây,ta cũng không quên tìm hiểu mặt trăng ?Đức Phật dạy :Mặt trăng thuộc "thủy đại"(chất nước"nên ánh sáng phản xạ của mặt trăng trong trẻo ,mát mẽ .Thực nghiệm ,-ta lấy một cái đĩa để dưới một cái kính  "phương chư"bằng thủy tinh (cristal) rồi soi vào giữa mặt trăng trong những đêm 15,16 âm lịch thì ta sẽ thấy có nước nhỏ từng giọt xuống đĩa.. 
 
* Nhân Sinh Quan
"Tất cả sự vật dù hữu hình hay vô hình ,tâm hoặc cảnh ,đều do nhân duyên kết hợp và chỉ là những ảnh tượng mê lầm của nghiệp thức biến hiện"
Với  "Vấn Đề Nhận Thức "và   "Vũ Trụ Luận "như đã trình bày ở những trang trên ,đã giúp bạn có một chính kiến.Theo đạo Phật ,vũ trụ vạn hữu biến hóa sinh thành do sự tổ hợp của nhiều nhân duyên …;và đã do nhân duyên tạo thành ,tất nhiên ,đạo Phật phủ nhận những định thuyết dưới đây :
1..Vũ trụ bị chi phối bởi một  "đấng Sáng Tạo",con người cũng do đấng ấy bàì định .
2..Hết thảy sự vật đều bởi  "Tâm", "Ý" làm chủ 
3..Vạn hữu do "vật chất"sinh thành,nên vạn hữu cũng hoàn toàn bị chi phối ,thụ động.
Đó là lập luận sự khởi đoan về vũ trụ vạn hữu do các thuyết DUYTHẦN ,DUY TÂM,DUY VẬT chủ trương.
Giờ đây ta thử tìm hiểu thuyết lý đạo Phật qua vấn đề Nhân Sinh Quan .  
Xác định minh thuyết ,đạo Phật lúc nào cũng lập luận duy nhất :Vũ trụ vạn hữu được thành lập là do sự kết hợp các yếu tố làm căn bản và cùng hỗ tương ,nhưng tất cả …đều ở trong  "Bản Thể"vô cùng tận *Con người cũng không ngoài định lý ấy .Do đó ,đạo Phật để ra ba điểm chính cương là:
1..Sự Cấu Tạo sắc thân Con Người.
2..Giải Quyết Vấn Đề Sống ,Một Mục Đích …
3..Giá Trị Con Người .
1- SỰ CẤU TẠO SẮC THÂN CON NGƯỜI
Ngược dòng lịch sử,ta cần xét lại vấn đề con người bởi nguyên nhân nào đã cấu tạo nên ?- theo  thuyết   "vũ trụ vạn hữu  sinh  khởi"thì .con người   cũng là  một  hiện  tượng  trong  các   bản  thể  vô biên diệu  dụng kia  chuyển biến   hình  thành mà  có .
Từ bao  lâu nay  con người  đã quyên mình là một  "phần tử"trong cái  "toàn thể" {bản thể  vô  biên ] và  chấp cái  "ta  nhỏ   bé",tự  tách  mình  ra  khỏi cái "ta   rộng  lớn"trong  vũ  trụ ,lại  dùng   tâm  trí  nhận thức  sai  lầm  các  vật tựơng , nhân  đó sinh  ra  mê vọng  điên đảo ….
Để  giải đáp  sự  sai  lầm  đó ,đạo  phật   với  thuyết   Mưồi   Hai   Nhân   Duyên   [dvàdàsãngah  pratityasamutp7dah ]rất  phổ  thông  và  chính  xác . 
Những  gì  là  mười hai  nhân   duyên  ? 
Trong  kinh  A  HÀM   [agamas]  chép ; "cái  này  có , cho  nên  cái  kia  có .cái  này  sinh  cho  nên  cái  kia  sinh ".  
Số  là   
VÔ  MINH                  duyên          hành 
HÀNH                         duyên          thức 
THỨC                         duyên          danh  sắc 
DANH  SẮC               duyên          lục  nhập 
LỤC NHẬP                 duyên          xúc
XÚC                            duyên          thụ
THỤ                            duyên          A?span>
ÁI                                duyên          thủ 
THỦ                            duyên          hữu 
HỮU                            duyên           sinh 
SINH                           duyên           lão   tử  
RỔI khởi  phiền  muộn , buồn  rầu , khóc   than , đau  đớn   … tạo  thành đại  khổ   . 
Mười  hai  nhân  duyên  tiếp  nối   với  nhau  từ  đời  này  qua  đời   khác như  vòng  bánh  xe  nhân  qủa    tương   quan .  [   mười hai    nhân  duyên  gồm ]  
1  . VÔ  MINH   [Avidyà ] : mê   muội , tối  tăm .chỉ  cho  tất  cả  trạng    thái  quan niệm  sai  lầm  cuả  chúng   sinh  , không  tự  biết "vì  sao  mà   có  rồi vì  đâu  mà  mất '. Nói  cách   khác ,  tất  chúng  ta  đều  do  VÔ   MINH ám   phủ   cả, ví  như  tấm   gương  sáng , chỉ  một  mảy  bụi  cũng   đủ  làm  giảm  ánh  sáng   không   ít .
Nói đến  vô  minh ,ta  không  thể   nói đến  chân  như  , vì  hai    "CÁI" là  một  thể  - Vô  minh   na37m   trong   chân  như - bản  thể    chân  như lúc  khởi  thuỷ ví  như  mặt   nứơc  phẳng ,  nhưng  nay  có  sóng  .   mặt  nước đã  sóng thì  xao  động , thế   là  sóng   cũng là  nước  mà  nước   cũng  là  sóng .  cũng  như  nói ,   không  có  không  gian  thì  không  có   hiện  tượng . đó  là  thuộc  về  hoặc . vì   đã  có  hiện  tượng  nên  phải   chuyển  biến  với   công  năng , nghiệp   lực , tinh  thần hay  vật  chất  đều  theo   một  quan  động  mà ảnh  hưởng   lẫn   nhau  . sự  vật  biến   hoá  mãi   là  liên  quan  theo  luật  chuyển  dịch cuả  hành  nghiệp .
2. HÀNH [  samskarah]  : hành  động , tác  động . có  hành  động  là  [ bắt   nguồn ] bởi  tư  tường  phát  sanh ,  do   đó  mỗi  con  người  mang  trong  tự   cái " nghiệp " - nghiệp  là  dữ  , mình   làm  mình  chịu -  và  sự  phát  nguyên   của  nghiệp là  do  "nhất  niệm  mê   mờ"  vọng  khởi  mà  có . ta thấy  rõ   ràng   "nghiệp"như  một  sợi  dây truyền  cảm mà  nhân  qủa  thì  cứ tiếp   nối  nhau  bất  tuyệt . thi  hào  Nguyễn   du đã  cảm  thông  đựơc  chữ  [Nghiệp ] trong  đạo  phật  một  cách quán triệt . tiên   sinh  viết  .
" Đã   mang  lấy  nghiệp  vào   thân 
Cũng  đừng trách  lẫn  trời  gần ,trời  xa"
Nói khác,nghiệp là do thân ,khẩu ,ý của chúng sanh gây ra để phải nhận lấyquả báo luân hồi .
Ghi chú,--Chữ "Nghiệp"(Karma).Nghĩa là tạo tác,hành động . "Ý"suy nghĩ , "miệng"nói. "thân"hành động,…tức chỉ tất cả hành động cố ý của một sinh vật do ba nghiệp (thân ,khẩu ,ý)ảnh hưởng lẫn nhaurồi cảm thành vết tích,thành thói quen,tạo nên nguồn sống dục vọng di truyền,trong kinh thường gọi là  "Dẫn Nghiệp"(tức dẩn lực của nghiệp)hay "Nghiệp thức".Nói theo từ ngữ bây giờ thì gọi là Nguồn Sống.Tất cả hiện tượng trong vũ trụ -bao gồm các sinh vật và các cảnh vật thiên nhiên ,như núi,sông,cây cỏ,đất đai,trăng,sao,nước,lửa,không khí.-đều do Nghiệp Thức tạo tác cả.Nghiệp chia ra "nghiệp chung"(cộng chung)và " Nghiệp riêng"(biệt nghiệp).
            Nghiệp chung . Chỉ các loài sinh vật (trong đó có con người )hiện sống trên địa cầu ,đều phải chịu chung các kiếp vận như nhau:
A?asàyah:Mệnh Trược=kiếp người đau khổ.
Drstikasayah:Kiến Trược=nhận thức sai lầm.
Klésakasàyah:Phiền Não Trược=tâm địa xấu xa.
Sattvakasàyah:Chúng Sinh Trược=chúng sinh ác độc.
Kalpakasàyah:Kiếp Trược=cuộc sống ngắn ngủi.
Và còn biết bao nổi khổ triền miên khác ,như Sinh,Già,O᭬Chết,về thiên tai  "nước lụt",động đất "lửa cháy,chiến tranhv.v..
Nghiệp riêng : Mỗi loài có những  "tính sống"riêng biệt ,hoàn cảnh riêng biệt .Như cá thì bơi dưới nước ,chim bay trên không ,con người và các loài muôn thú sống trên đất cạn và các nơi rừng rú…Tuy nhiên ,con người,có những ưu điểm đặc biệt hơn các loài khác :con người tự làm chủ mình ,làm chủ cuộc sống và hoán cải hoàn cảnh chung quanh ,tùy nghiệp lành ,nghiệp dữ do con người tự quyết định lấy .
Nhưng nghiệp do đâu mà có ?Cái "Ngã"một hòa điệu tinh thần và vật chất do thân  "ngũ uẩn'(Pànchaskhandha) tức sự hoạt động của "thân"và "tâm",lĩnh thụ bởi cảm xúctrong tâm và ngoài cảnh ,phát sinh những cảm giác;và vì sự mê lầm tiềm tàng tự thân của mỗi vật tự phát động và không cần sự can thiệp của bất cứ năng lực nào.
Nghiệp là chủ động lực của mọi vấn đề .Mọi vấn đề cũng do Nghiệp phát sinh ,tồn tại hay tiêu diệt .
"Không phải ở trên không trung ,không phải ở giữa đại dương ,không phải ở trong thâm sơn ,cũng không phải ở một nơi nào người ta có thể tránh được nghiệp báo".-Dhammapada,127-
Những hiện tượng thế giới đều do Nghiệp phát động mà cảm ứng .Ta có thân thể như bây giờ đều do đời trước tạo nghiệp mà sinh ,rồi cứ luân hồi ,nhân quả nối tiếp từ quá khứchạy suốt hiện tại sang vị lai …biến hiện thiên hình vạn trạng ,tùy nghiệp thụ báo để phải chịu lấy vô lượng cực khổ ,nếu con người mãi mê lầm tạo nghiệp .Bởi vậy dưới Hành có Thức.
So với nhân quả trong ba đời thì Vô Minh -Hành là nghiệp nhân quá khứ và làm nhân làm duyên để kết sinh chịu quả trong đời hiện tại ,
3- THỨC (Vijnànam): bởi sự mê mờ và hành dedộng kết thành Nghiệp Thức;phân biệt sai lầmmà sinh ra vui buồn,thương tiếc…Nghiệp thức con người khác nào như luồng điện tản mát khắp nơi …,;thân  "tứ Đaị"* Ví như dòng điện ,khi đủ điều kiện nhân duyên ,như ,dây ,bóng,…ta bật sẽ thấy điện phát ra ánh sáng.Còn ánh sáng ấy mạnh hoặc yếu cũng như màu nó xanh ,hoặc đỏ là do bóng đèn to ,nhỏ và tùy thuộc ở màu xanh hay màu đỏ ;nhưng không ngoài điện tính…Cũng thế,muôn loài vạn vật hiện hữu trong thế gian là do nhân duyên giả hợp mà thành ;con người sinh ra đời là bởi tinh huyết của người cha và người mẹ hòa hợp ,kết đọng lại mà tạo nênn cái "xác thân giả tạm".Nhưng,như vậy ,chưa đủ;con người còn phải có suy nghĩ ,cảm giác,lĩnh thụ mới trở thành   "con người hoàn toàn "-con người sống động .
Trong cuộc hành trình của con người :khi sống hay lúc chết đều do nhân quả hành vi tự thân tạo tác;con người đẹp hay xấu ,ngutối hoặc thông minh ,sung sướng hay khổ sở,không do ai cầm đầu dẫn dắt và thường phạt cả !Mà chính là do tự thân gây "Nghiệp" "nhân"và "duyên"để rồi nhận lấy   "quả báo"hoặc thiện hoặc ác…
Ta hãy lấy một ví dụ làm chưng minh :
(Nghiệp) - Avà B (anh hay chị)cùng là con người.Nhưng con người A khác con người Bvề tâm trí,về nét mặt,về hình thể,tầm vóc cao,thấp,nam hoặc nữ ,đẹp xấu,thiện và ác…
(Nhân ) _ A rất chăm học ,B thì lười ,biếng học…
(Duyên) _ Cả A và B đều được cha mẹ thương yêu ,nuôi nấng,cho ăn học ,sắm quần áo,xe cộ và bút,mực,sách vở để không bị thua kém với chúng bạn …
(Quả) _ A chịu khó học tập nên kết quả là A biết chữ và thi đậu .Còn B ,trái lại …Ta không nên có thành kiến sai lầm cho rằng :Bộ óc là sản phẩm của tư tưởng ,cũng đừng bao giờ quan niệm tinh thần (ý thức) có trước vật chất …Theo đạo Phật ,những thuyết lý nào thiên một bên đều là sai lầm.Dù tinh thần hay vật chất thì cũng đều do các yếu tố công năng từ Bản Thể sinh ,rồi tồn tại và hủy diệt .Con người phải đủ hai phần   "tinh thần"(thân thức do Nghiệp của mỗi con người đã tạo )và "vật chất"(thân tứ đại giả hợp",nếu lìa một trong những  "chất ấy"con người sẽ chết;nhưng không có nghĩa chết rồi là hết ,mà chỉ là thay đổi hình tướng,ví như điện.
Sự thật(như trên)cho ta thấy :khi Hành Nghiệp đã kết quả thì tự thể nó phải ôm mang lấy .Vô minh và hành động (Nghiệp Lực)đi đến một nơi nào đó để nhận chịu một cái thân quả báohoặc thiện ,hoặc ác..
            Nhìn chung vào pháp giới thì ,con người chỉ là một chủng loại đã có một trình độ tiến triển tương đương .Caohơn con người ,là Phật ,Bồ Tát .Thấp ,là các loài hạ đẳng động vật.Do đó,đạo Phật chia ra mười pháp giới:
1_ Phật (Buddha) : đấng Đại TRí,Đại Đức và Đại Hùng .Trong mười phương các quốc độ chỉ cóđức Phật là trên hết .Đứng về phương diện con người mà nhận xét ,ta thấy : "Trí"Phật là trí bát nhã  (prajnã),sáng suốt bao la vô cùng tận . "Đức" của Phật là vô lượng vô biên ,cao cả:Vô Thượng. "Hùng" hay là  "Lực" của Phật tu chứng đến chổ Hoàn Toàn Trong ,Hoàn toàn Sáng;diệt tận sinh tử ,phiền não,nhiễm ô .Đức Phật có đầy đủ ba đặc tính   Trí Đức Hùng ,do đó (mạcứu độ cho hết thảy chúng sanh trong ba cõi …Nhờ vào ba  "đức" ấy ,tất cả chúng sanh sẽ chuyển hóa đuợc tâm hồn xấu xa thành tốt đẹp ,sáng láng…Đó là chính nghĩa;
- ĐẠI  TRÍ
- ĐẠI  ĐỨC
- ĐẠI  HÙNG
Cho nên ,cảnh giới của chưư Phật là cảnh giới Tự Tại Giải Thoát,là chân lý tuyệt đối .
2_ Bồ Tát (Boddhisattava) : Những vị giác ngộ sắp được như Phật ,do tu  "Lục Độ ,Vạn Hạnh"mà chứng thánh quả .
3_ Duyên Giác (Pratyekabuđdhi) : ngôi vị này hãy còn kém so với Bồ Tát;tu quán pháp  "Mười Hai Nhân duyên "mà được chứng quả.
4_ Thanh Văn  (Sràvaka) : bậc giác ngộ ưa hưởng cảnh giới Niết Bàn  (Nirvàna),gần tương đương với Duyên Giác ,song trí tuệ có phần kém ;tu theo phép  "Tứ Diệu Đế".Cùng tột của địa vị này là chứng thánh quả A La Hán (Arahat).
5_ Trời (Dévasura) : Chư thiên ở các từng trời trong các cỏi Dục Giới người ,Sắc Giới và Vô Sắc Giới*
6_ Người (Manusya) : Chỉ chung tất cả loài người ở trong một thế giới trung bình ,không quá khổ như địa ngục ,không vui sứớng nhu ở thiên đường ,và không ngu si như các loài muông ,thú…,nên sự tu đạo cũng dễ dàng tiến ích.
7_ A Tu La (Asura) : Những loài quỉ giống như loài người _ con người thoát xác _rất tàn bạo ,giận dữ,giết chócvà dâm dục …
8_ Địa Ngục  (Narskanitaya) : chúng sinh ở cõi đầy tội lỗi ,tối tâm ,đau khổ…
9_ Ngã Quỉ (Preta) : những loài đói khát ,đi lang thang khắp  "xó chợ đầu đường  "kiểm miếng ăn ,manh áo mặc!!!
10_ Súc Sinh (Tiryagyoni) : các loài súc vật v.v..,
Tuy chia ra mùi pháp giới chỉ là để đo trình độ tu chứng cao thấp của mỗi giới.Nếu xét theo quan niệm bình đẵngthì   "Bản Thể Nhất Như".
            Với cặp mắt sáng ngời đợm vẽ từ bi ,đức Phật đã nhìn ,tha36y và hiểu rõ chúng sinh ,từ thuở nào vẫn luân hồi trong sáu ngả? (Trời,Người,A Tu La,Địa Ngục,Ngã quỉ,Súc sanh )mà chẳng biết lối thoát !Đức Phật đã lắng nghe và hiểu suốt tâm trạng nổi vui ,buồn ,đau khổ của chúng sinh ,nên ngài thường khuyên các đệ tử ,hãy luôn sống bên người ,gần vật để sang sẻ?224; ban bố tình thương  "cho vui,cứu khổ"đến tất cả muôn loài ,và hãy sống nhập một (trọn vẹn )với bản thể vô biên tuyệt đích…
Trong mười pháp giới chỉ khác chổ mê và ngộ .
            *- Mê là chúng sinh .
*- Ngộ là Bồ Tát,Phật.
Nếu đứng về phương diện con người mà xét thì ,đức Phật cũng là một Người,nhưng là một Siêu nhân ,đã tu chứng giác ngộ thành Phật ,một trong những vị Phật đã thành là đức Thích Ca Mâu Ni ,còn chúng sinh thì vẫn cứ là chúng sinh ,nếu không chịu tu tiến.
Đức Phật là đấng Giác Ngộ Viên Mãn ,là Người đã đạt đến chỗ cao tột của nhân sinh ,mà Bồ Tát Duyên Giác hay Thanh Văn ,là những bậc còn phải dõi bước và còn phải tiến nữa ,để đến chổ tuyệt đối như Phật .Con người có thể tiến lên địa vị ấy ,nếu biết hướng theo đường sáng do đức Phật đã vạch ra .Trái lại ,không chịu tu hay không chịu làm phúc thì con người sẽ mãi đau khổ u tối,mặc cho nghiệp lực cuốn trôi ,triền miên trong vòng mê luân sinh tử xoay vần ,chẳng biết đến bao giờ là ngày chung kết!
THỨC,một chi quả thứ nhất thuộc đời hiện tại.
4_DANH SẮC(Nàmarùpam) : "Danh"là một danh từ trừu tượng như Thụ ,Tưởng,Hành,Thứcuẩn ,không có hình ảnh ,chỉ là trạng thái chiều theo cảnh giới mà hiển hiện ; "Sắc"tức hình tướng vật thể vô tri có trạng thái tự tiêu hoại do sức lạnh ,nóng của thời tiết .Nhưng đây chủ yếu nói về sắc uẩn là do sự phối hợp của bốn Đại
:Đất(Prthividhàtuh),Nước(Abdhàtuh),Lửa(Tejodhàtuh),Gió(Vàyadhàtuh)tức chỉ cho tổng báo thân của loài hửu tình ,từ khi còn trong thai trạng ,và dần dần sinh trưởng …Vậy "có Nghiệp Thức là có sự luân chuyển ,nên khi Tâm thức chuyển sự sống sang kiếp khác (con mình). 
Tâm(Danh) phải nương vào vật (Sắc)là tinh huyết cha mẹ ,để sự sống được nẩy nở ,tồn tại"
Con người là loài sinh mệnh có tư tưởng ,trí tuệ ,nhưng do những yếu tố nào kết hợp tạo thành ?-Đạo Phật quan niệm con người cũng như các loài có cảm giác ,thức tính đều do luật tiến hóa của vũ trụ với một trình độ nào …*và do Ngũ Uẩn kết hợp thành thân.
Đức Phật dạy :
"…Này các tỳ khưu,có ba sự hòa hợp mà một bào thai thành hình .Ở đây cha mẹ có giao hợp và người mẹ không có thể thụ thai ,và hương ấm (gandhabba)** không hiện tiền ,như vậy bào thai không thể thành hình .Ở đây cha và mẹ có giao hợp và người mẹ trong thời có thể thụ thai ,nhưng hương ấm (gandhabba)không hiện tiền ,như vậy bào thai không thể thành hình .Và này các tỳ khưu ,khi nào cha mẹ có giao hợp và người mẹ trong thời có thể thụ thai ,và hương ấm có hiện tiền  có ba sự hòa hợp như vậy ,bào thai mới thành hình .Rồi này các tỳ khưu,người mẹ trong chín hay mười tháng mang bào thai ấy ,với sự lo âu lớn đối với gánh nặng ấy .Rồi này các tỳ khưu ,sau chín hay mười tháng ,người mẹ sinh đẻ,với sự lo âu lớn đối với gánh nặng ấy .Khi đã sinh ,người mẹ nuôi (hài nhi ấy)với máu của mình .Này các tỳ khưu ,trong luật của bậc thánh ,sữa của người mẹ được xem là máu .Này các tỳ khưu ,đứa trẻ ấy ,sau khi lớn lên ,sau khi các căn đã thuần thục ,chơi với những trò chơi dành cho các trẻ như như với cái cày nhỏ,chơi đánh khăng chơi nhảy lộn nhào ,chơi chong chóng ,chơi với đồ đong bằng lá ,chơi xe con ,chơi cung nhỏ .Này các tỳ khưu ,đứa trẻ sau khi lớn lên ,sau khi các căn được thuần thục ,thụ hưởng đầy đủ năm món dục lạc ,các sắc do nhãn nhận thức,sắc này khả ái ,khả hỷ ,khả lạc,khả ý,khích thích lòng dục ,các tiếng do tai nhận thức …các hướng do mũi nhận thức …các vị do lưỡi nhận thức …các xúc do thân cảm xúc ,các xúc này là khả ái ,khả hỷ ,khả lạc,khả ý,khích thích lòng mẹ .
Khi nó thấy sắc với mắt ,nó tham ái đối với hảo sắc ,nó ghét bỏ đối với ố sắc,nó sống niệm không an trụ trên thân ,với một tâm nhỏ mọn .Nó không    không như thật biết tâm giải thoát ,tuệ giải thoát ,chính nhờ chúng mà các ác bất thiện pháp của nó được trừ diệt một cách hoàn toàn .Như vậy,đối với thân sơ (thuận nghịch) nó cảm thụ ,nào khởi lên lạc thụ ,khổ thụ ,hay bất khổ bất lạc thụ ,nó tùy hỷ ,hoan nghênh ,tham trược thụ ấy .Vì tùy hỷ ,hoan nghênh ,tham trược ,cảm thụ ấy ,nên hoan hỷ sinh.Có tâm hoan hỷđối với những cảm thụ ấy ,tức là chấp thủ .Do duyên thủ ,hữu sinh ,do duyên hữu ,sinh sinh khởi.Do duyên sinh ,lão tử ,sầu,bi,khổ ,ưu,não,sinh.Như thế là sự tập khởicủa toàn bộ khổ uẩn vậy .Khi nó nghe tiếng với tai ….(như trên)…khi nó ngửi hương với mũi…(như trên)…khi nó nếm vị với lưỡi …(như trên)khi nó cảm xúc với thân …(như trên )…khi nó nhận thức pháp với ý ,nó tham ái đối với hảo pháp ,nó ghét bỏ đối với ố pháp .Nó sống niệm không an trụ trên thân ,với một tâm nhỏ mọn .Nó không như thật biết đến tâm giải thoát ,tụê hiải thoát ,chính nhờ chúng mà các ác ,bất thiện pháp của nó được trừ diệt một cách hoàn toàn .Như vậy đối diện với thân sơ (thuận, nghịch) ,nó cảm thụ nào khởi lên lạc thụ ,khổ thụ ,hay bất khổlạc thụ ,nó tùy hỷ ,hoan nghênh ,tham trược cảm thụ ấy,nên hoan hỷ sinh .Có tâm hoan hỷ đối với những cảm thụ ấy,tức là chấp thủ .Do duyên thủ,hữu sinh.Do duyên hữu ,sinh sinh khởi.Do duyên sinh,lão tử,sầu,bi,khổ,ưu,não sinh.Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này."*
Danh sắc một chi quả thứ hai thuộc đời hiện đại .
5. LỤC NHẬP (Sadàyatanam) : một khi "sự sống đã được nảy nở tồn tại (kết thai) thì 6 quang năng tức sáu căn thành hình(bào thai)".
Trong khi Danh và Sắc kết hợp tạo nên thân thể con người-một con người hoàn toàn sống động .
6 quan năng là:
1. Mắt(Caksurindriyam):nhãn căn .
2- Tai (Srotrendriyam):nhĩ căn .
3- Mũi(Ghrànendriyam):tỷ căn .
4- Lưỡi(Jihvendriyam):thiệt căn .
5- Thân (Kày yendriyam):thân căn .
6- Ý (Manadriyam):ý căn .
Đối tượng và giao tiếp với 6 trần:
1- Sắc:Rùpam(những hiện tượng có hình sắc)
2- Thanh :Sabdah(các âm thanh )
3- Hương :Gandhah(mùi thơm)
4-  Vị :Rusah (chất chua,cay..)
5-  Xúc:Sprastavyam (sự va chạm giữa thân thể và vật cảnh)
6- Pháp:  Drarmas(những tư tưởng về quá khứ,hiện tại,vị lai)
(… "do duyên thứcsinh,và thức ấy có tên tùy theo duyên ấy.Do duyên mắtvà các sắc,thức sinh ;và thức ấy có tên là nhãn thức .Do duyên tai và tiếng ,thức sinh ;và thức ấy có tên là tỷ thức.Do duyên thân thức.Do duyên ý và pháp ,thứcsinh;và thức ấy có tên là ý thức") - Mahatanhàsankhàya suttam xxxvììi-A? Tập Đại Kinh ,trang 259A.
Và vì có sự tương hợp của quan năng với cảnh trần nên liên hệ tới sự xúc động (xúc giác). ٠
Lục Nhập ,một chi quả thứ ba thuộc đời hiện tại .
6- XÚC (Sparsah) : Cảm trạng .Sự tiếp xúc của 6 quan năng đối với cảnh vật .Sau khi đứa bé đã sinh, độ1,2 tuổi ,sáu căn non nớt va chạm với sáu trần tạo nên cảm xúc,như:đói nó biết tìm vú mẹđể bú ,lạnh biết núp vào lòng mẹ ,nhưng chỉ là làm theo tính bản năng chứ chưa nhận biết :vui, buồn,tốt ,xấu,v.v…vì chứa đủ lý trí để phân biệt ,nhận lĩnh ,cảm thụ một cách rõ ràng .
Xúc,một chi quả thứ tư thuộc đời hiện tại .
7- THỤ(Vedanà) : Cảm giác,lĩnh thụ .Khoảng từ 3,4 tuổi đến 12,13 tuổi là thời kỳ con người bước qua một giai đoạn khác .Con người đã biết nhận thức trướcmọi cảnh:thuận,nghịch,những vật gì vừa ý muốn thì sinh lòng lĩnh thụ ,trìu mến. Vật,trái với ý muốn mình thì ghét ,bỏ…Vì thế,có sự vui ,buồn ,yêu thương ,ghen ghét,đam mê,giận dữv.v..
Thụ ,một chi quá thứ năm thuộc đời hiện tại.
(Nghiệp nhân quá khứ là Vô Minh và Hành do mình đã tạo đời này ,nó kết thành 5 qua chín :Thức,Danh Sắc,Lục Nhập ,Xúc và Thụ để báo đáp lại 2 nhân kia (Vô Minh ,Hành),Nên 5 chi này cũng gọi là quá hiện tại ).
8- ÁI (Trsnà) : Tình yêu ,do ý thức nhận được liền nảy sinh tư tưởng ưa thích (quen nết),Từ 14 ,15 tuổi đến 18,19 tuổi ,thân thể con người mỗi ngày một nở nang ,thường gọi là  "tuổi dậy thì",nên sự ham thích cũng rất bồng bột ,đã biết nhìn cái đẹp thiên nhiên , và yêu tha thiết những gì liên quan tới đời sống hàng ngày ,nên sinh lòng đắm đuối trong năm món dục lạc *gần như cuồng loạn ;khoảng thời gian 7,8 năm - từ 13 đến 19 tuổi - con người đã cảm thụ biết bao cảnh tốt ,xấu ,vui, buồn,thương yêu ,ghét ,muốn,…tạo thành một tư tưởng hổn tạp .Cái gì không hợp với mình thì chán ,ghét,cái gì hợp thì yêu mến ,chiều chuộng ,vì thế,dưới Ái liên quan đến Thú.
Chi nhân thứ nhất thuộc đời hiện tại .
9- THÚ (Upâdànam) : Từ 20 tuổi trở đi ,aí dục càng mạnh ,saú căn càng phóng túng chạy theo sáu trần .Thú,nghĩa là lấy ,mong lấy ,giữ lấy .Tôi thích cái hoa,khi được cái hoa thì tôi giữ lấy .Những cái gì đã yêu thích (lẽ tất nhiên)phải tìm lấy cho được .Trong các thứ lấy ấy cũng có việc lành việc dữ để thỏa nguyện vọng nhu cầu .Vì trong đời hiện tại đã gây nhân ,hoạt động các việc thiện và ác nên đời sau phải chụi quả báo .Do đó ,dưới Thú và Hữu .
Thú ,một chi nhân thứ hai thuộc đời hiện tại .
10- HỮU (Bhavah) : Bởi có Ái và Thủ nên mới có Hữu.Hữu là có (cũng có nghĩa là cõi ).Nhưng có cái gì ?- Có nhân tất có quả :có sinh,già,ốm,chết…,tùy theo nhân quả ,hành vi thiện hoặc ác của mỗ䩠người đã gây nhân trong đời hiện tại ,tất nhiên mai sau sẽ hái quả tốt hay xấu …Vì có ham muốn ắt phải nhận lấy quả báo mà kết sinh tương tục trong 3 cõi  (Dục giới- Kàmadhàtuh,Sắc giới- Rupadhàtuh,Vô sắc giới- Arùdhàtuh), 6 đường  (Trời,Người,A Tu La,Địa Ngục,Ngã Quỷ,Súc Sinh).Bởi vậy dưới Hữu có Sinh .
Hữu,một chi nhân thứ ba và cũng là nhân cuối chót thuộc đời hiện tại .
(Trong khi ta đang mang nơi mình 5 chi :Thức, Danh Sắc,Lục Nhập,Xúc,Thụ ,(quả hiện tại )đã lại tạo luôn cho 3 chi :A?hủ ,Hữu (nhân hiện tại)- ,để rồi một thời gian sau phải hái lấy quả báo :Sinh và Lão tử ở vị lai).
11- SINH (Jàtih) : Sinh mệnh con người có hai phần (tâm và sắc):gồm sinh lực,thể chất và tinh thần ,sống còn trong khoảng thời gian dài ,ngắn…đều do Hành Nghiệp quyết định .Vì A?ủ,Hữu mà Sinh vào kiếp khác (nhân quả về sau trong các cõi thụ sinh).Sinh ,nghĩa là  "sống",chỉ cho máu chạy ,tim đập ,ý nghĩ,trí biến của mỗi sinh vật do đời trướcgây nhân lành hay dữ,tất nhiên Nghiệp Thức của mỗi loài đã tạo ra nó sẽ phản ảnh lại:
Tư tưởng hành vi của con người   "thiện"sẽ tạo cho xã hội những hoàn cảnh đẹp .
            Tư tưởng hành vi của con người  "ác"sẽ tạo cho xã hội những ảnh hưởng xấu .
            Xã hội loài người tùy Nghiệp của mình đã tạo ra và luôn luôn chuyển biến,huân tập lấy chủng tử (Bijà) (hạt giống của mỗi vật thể có công năng sinh khởi ra nghiệp quả ) để khi gặp cơ duyên thuận tiện sẽ phát khởi hiện hành  (những hình tướng hiện thực và hành động ).Ví dụ.-A quen thân với B là do trước kia sẵn có nhân duyên với nhau .Nhưng ít lâu sau A không đủ hoàn cảnh sinh sống với B ;nên  A đã đi làm ăn nơi khác(nghĩa là ,khi A chết sẽ thai sinh ở một kiếp nào khác…),
Không bao lâu B cũng bị túng thiếu không thể ở quê hương được nữa ;B lại không quen ai hơn  A- hai người rất có thiện cảm,đã từng chung sống và giúp đỡ nhau khi trước - ,do đó B quyết định tìm đến chỗ A để nhờ vả (nghĩa là ,B đã chết khi nghiệp thứcđi đầu thai sẽ tìm đến chỗ nào, nơi nào…mà mình đã gây nhân duyên hợp với tâm lý ,tình cảm và tập quán của một quá trình sống..
            Trong vũ trụ có hằng hà sa số thế giới có những chủng loại y báo,chính báo khác nhau ,nhưng cùng chịu chung một định luật :Thành .Trụ ,Hoại ,Không* .Nghĩa là từ khi thế giới sơ thành tới khi tàn lụi (không còn là thế giới nữa);trong bốn thời kỳ dài dặc ấy tính có hằng bao nhiêu triệu triệu năm ..
Gần đây ,nhà bác học William THOMPSON (1824 - 1907 )đã có những giả tưởng : "Sinh vật đầu tiên có trên địa cầu là do những sinh vật khác từ một vài tinh tú chuyển sang ….*.
Theo luật  "thành ,trụ ,hoại ,không"thì con người đã trải qua bao nhiêu hưng vong ,thay đổi ,lớp này chết lớp khác sinh ,sinh sinh hóa hóa mãi như thế ,bây giờ làm sao tìm được cái dấu tích mà ta gọi là  "con người nguyên thủy - dù các nhà nhân chủng học có cố nghiên cứu ,tìm tòi mấy đi nữa cũng chỉ chứng minh cho lớp người về một thời gian nào đó mà thôi .Hiểu được định lý ấy rồi ,ta mới không lấy làm lạ về những sự xảy ra trong lịch sử,hay những điều phát minh mới lạ mà người ta cho là thần thánh ,thực ra không mấy quan tâm .Và cũng chẳng có gì đáng làm cho ta phải ngạc nhiên kinh hoảng ?!
            Sinh,một chi quả thứ nhất thuộc về vị lai.
12. LÃO TỬ (Jaràmaranam) : cuối cùng đưa đến sự già, chết;khi thân thể con người đã suy yếu :một ngày nào đó sức lực đã kiệt vì già,ốm,tất nhiên con người phải chết .Vì chết nên phải lo âu ,đã lo âu tất sinh ra khổ não …và cứ thế theo công lệ nhân quả luân hồi do mình đã tạo .Nhưng có diều ta nên nhớ :Chết chỉ có nghĩa thay đổi hình tướng  _ từ hình tướng này chuyển sang một hình tướng khác   _Thực ra,nghiệp thức con người chẳng mất đi đâu ;khác nào như luồng điện sẽ qui về bản chất của nó _ người chết _ đến khi đủ nhân duyên ,điện sẽ trở lại sáng  _ con người tái sinh   _.
Sự sống và sự chết của người ta cũng như buổi hoàng hôn rồi dần lại tiếp buổi bình minh …
Vậy sống  _ chết là định luật tất nhiên .Có sinh phải có diệt .Tất cả hiện tượng trong trời đất cũng phải theo định luật ấy .Ta tạm lấy một ví dụ để chứng minh :Anh A là người _ Tất nhiên anh A phải có lúc chết . vì có sinh phải có diệt .
            Lão tử,một chi quả thứ hai thuộc đời vị lai .
            Mười Hai Nhân Duyên theo định luật nhân quả * ba đời :Vô Minh,Hành,hai chi nhân thuộc quá khứ để chiêu cảm năm chi quả hiện tại :Thức,Danh Sắc,Lục Nhập,Xúc,Thụ rồi do năm chi quả này khởi niệm ra :A? ,Thủ,Hữu làm nhân ở đời hiện tại .Và do ba nhân kia (A? ,Thủ,Hữu)chiêu cảm mà có hai chi quả :Sinh,Lão Tử thuộc đời vị lai .
Quả tạo ra Nhân ,Nhân cảm thành Quả ,ba đời nối tiếp nhau không bao giờ gián đoạn ,như bánh xe xoay lăn,cho nên gọi là luân hồi ** Để giải thích về luân hồi  (Samsàra),trong kinh Kilindapanhà có ghi cuộc đối thoại giữa đức vua Kilinda và thánh giả Nagasena như sau :
_ "Thưa đại vương ,nếu có người thắp một ngọn đèn ,ngọn đèn ấy có thể cháy suốt đêm được không?
_ Bạch Ngài,ngọn đèn có thể cháy đến sáng.
_ Vậy ngọn đèn lúc canh một có phải chính là ngọn đèn lúc canh hai ?
_ Bạch Ngài,không.
_ Ngọn đèn lúc canh hai với ngọn đèn lúc canh ba có phải cũng là một không ?
_ Bạch Ngài cũng không phải .
_ Vậy thì ,canh một có một ngọn đèn ,canh hai có một ngọn đèn khác ,và canh ba ,một ngọn đèn nữa không ?
Bạch Ngài không phải thế ,ánh sáng suốt đêm chỉ là do một cây đèn tỏa ra mà thôi .
_          Thưa đại vương ,sự cảm giác bất biến ở một con người hay ở một chúng sinh khác cũng như thế .Con người phút này sinh thì con người phút khác diệt ,nhưng con người ở phút sau không phải con người ở phút trước ,nhưng cũng không phải khác với con người ở phút trước . "(phi nhất phi dị)
Mười Hai Nhân Duyên theo vòng tròn tượng trưng bằng bánh xe nhân quả tương quan ,như đồ biểu trang bên:
Dưới hình thức 12 nhân duyên còn có bộ ba :Hoặc _Nghiệp _ Khổ*
Ví dụm :Anh B say rượu (Hoặc)ra đường gây chuyện đánh nhau với anh C(Nghiệp ).Sau,anh C đem chuyện này trình nhà chức trách ,anh B bị đòi hầu tòa về tội đánh người trái phép và bị xử phạt ,ở tù,khổ sở (Khổ).
Sở dĩ chúng sinh vẫn mãi bị khổ đau ,phiền não ,sinh tử là do Vô Minh,mê tối,nên mới tạo Nghiệp vọng đọng (Hành,Thức)mà có thân ngũ uẩn (Danh,Sắc)rồi sáu căn (mắt ,tai mũi, lưỡi ,thân,ý)tiếp xúc với sáu trần (sắc,thanh ,hương,vị,xúc,pháp)(Lục Nhập )sinh cảm giác,lĩnh thụ (Thụ)thì nảy sinh lòng ham muốn ,ưa thích (A?ồi ham muốn chấp giữ ,tạo thành thói quen (Thủ) .Vì đã gây nhân tham ái phải nhận lấy quả báo (Hữu).Do có A?hủ,Hữu sẽ phải sinh ra trong đời sau (Sinh)và tiếp tục nhận chịu những cảnh khổ ,giả và chết (Lão Tử).
Muốn thoát luân hồi sinh tử thì ta phải đi ngược lại mười hai nhân duyên .Nhưng làm thế nào để diệt.Vô minh và đoạn Sinh tử?_ Không gây tội lỗi tức là diệt lòng tham ái ,sân hận ,si mê và tu theo Giới. Định.Tuệ..Vì biết rằng :tất cả sự vật đều do nhân duyên giả hợp tạo thành ,nên không thực _ đã không thực thì  "tội lỗi mê vọng"cũng không có chổ để tồn tại ,tức Vô Minh hết;không khởi đôﮧ A?ủ,Hữu,thì trong cõi sinh tử đều đoạn .Vô Minh diệt thì Hành diệt cho đến Lão Tử,ưu bi,khổ não cũng bị diệt . Có như thế cuộc sống của con người (ở cõi đời này và đời sau)mới vơi được nguồn đau khổ ,và được an lạc ,tự tại,giải thoát.
            Tìm hiểu thêm
Sự cấu tạo hình thể con người và vạn hữu ,theo thuyết lý Mười Hai Nhân Duyên ,ở đây,tôi lược dẫn một đoạn trong bộ Kinh MAJJHIMA NIKAYA,tập 1:A?sp; Tập Đại   Kinh(MahàtanhàsankhàyasuttamXXXVIII):
"…Này các tỳ khưu ,A?#7845;y làm nhân duyên ,lấy gì làm tập khởi ,lấy gì làm sinh chủng ,lấy gì làm nguyên nhân ?A?#7845;y thụ làm nhân duyên ,lấy thụ làm tập khởi,lấy thụ làm sinh chủng,lấy thụ làm nguyên nhân .Này các tỳ khưu ,Thụ lấy gì làm nhân duyên ,lấy gì làm tập khởi ,lấy gì làm sinh chủng ,lấy gì làm nguyên nhân ?Thụ lấy xúc làm nhân duyên ,lấy xúc làm tập khởi ,lấy xúc làm sinh chủng ,lấy xúc làm nguyên nhân .Này các tỳ khưu ,xúc lấy gì làm nhân duyên ,lấy gì làm tập khởi ,lấy gì làm sinh chủng ,lấy gì làm nguyên nhân ?Xúc lấy lục nhập làm nhân duyên ,lấy lục nhập làm tập khởi ,lấy lục nhập làm sinh chủng ,lấy lục nhập làm nguyên nhân .Này các tỳ khưu ,Danh sắc lấy gì làm nhân duyên ,lấy gì làm tập khởi ,lấy gì làm sinh chủng ,lấy gì làm nguyên nhân ?Danh sắc lấy thức làm nhân duyên ,lấy thức làm tập khởi ,lấy thức làm sinh chủng ,lấy thức làm nguyên nhân .Này các tỳ khưu ,thức lấy gì làm nhân duyên ,lấy gì làm tập thể ,lấy gì làm sinh chủng,lấy gì làm nguyên nhân ?Thức lấy hành làm nhân duyên ,lấy hành làm tập khởi ,lấy hành làm sinh chủng ,lấy hành làm nguyên nhân .Này các tỳ khưu ,Hành lấy gì làm nhân duyên ,lấy gì làm tập khởi,lấy gì làm sinh chủng ,lấy gì làm nguyên nhân ?Các Hành lấy vô minh làm nhân duyên,lấy vô minh làm tập khởi,lấy vô minh làm sinh chủng,lấy vô minh làm nguyên nhân .Như vậy,này các tỳ khưu ,vô minh duyên hành ,Hành duyên thức ,Thức duyên danh sắc ,Danh Sắc duyên lục nhập ,Lục nhập duyên xúc,Xúc duyên thụ ,Thụ duyên ái,A?yên thủ,Thủ duyên hữu,Hữu duyên sinh,Sinh duyên Lão Tử,sầu,bi,khổ,ưu,não hiện hữu.Đó là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn vậy.
Trước đã nói : "Sinh duyên lão tử"(do duyên sinh nên lão tử hiện khởi ).Này các tỳ khưu, sinh duyên lão tử có phải không?Hay ở đây(nghĩa)như thế nào? "_Bạch Thế Tôn ,sinh duyên lão tử .Như vậy đối với chúng con,(nghĩa)ở đây là thế : "Sinh duyên lão tử"._Trước đã nói, "Hữu duyên sinh".Này các tỳ khưu,hữu duyên sinh có phải không?Hay ở đây (nghĩa) như thế nào ? "_Bạch Thế Tôn ,hữu duyên sinh .Như vậy đối với chúng con ,(nghĩa)ở đây là thế: "Hữu duyên sinh"_Trước đã nói, "Thủ duyên sinh".Này các tỳ khưu,thủ duyên hữu có phải vậy không ?Hay ở đây(nghĩa)như thế nào? Bạch Thế Tôn ,thủ duyên hữu .Như vậy đối với chúng con (nghĩa)ở đây là thế:Thủ duyên hữu  "Trước đã nói ,A?yên thủ".Này các tỳ khưu ,ái duyên thủ có phải không ?Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?Bạch Thế Tôn ,ái duyên thủ".Như vậy đối với chúng con ,(nghĩa) ở đây là thế: "A?yên thủ_"Trước đã nói, "Thụ duyên ái".Này các tỳ khưu ,thụ duyên có phải không ?Hay ở đây (nghĩa)hư thế nào?_Bạch Thế Tôn thụ duyên ái.Như vậy đối với chúng con (nghĩa)ở đây là thế : "Thụ duyên ái"_Trước đã nói, "Xúc duyên thụ".Này các tỳ khưu ,xúc duyên thụ có phải không ?Hay ở đây(nghĩa)như thế nào?_ "Bạch Thế Tôn ,xúc duyên thụ.Như vậy đối với chúng con (nghĩạ)ở đây là thế: "xúc duyên thụ"_ "Trước đã nói: "Lục nhập duyên xúc".này các tỳ khưu,lục nhập duyên xúc phải không?Hay ở đây(nghĩa)như thế nào?_ "Bạch Thế Tôn ,Lục nhập duyên xúc.Như vậy đối với chúng con (nghĩa)ở đây là thế: "Lục nhập duyên xúc"_ "Trước đã nói:"Danh sắcduyên lục nhập".Này các tỳ khưu ,danh sắc duyên lục nhập có phải không?Hay ở đây(nghĩa)như thế nào? Bạch Thế Tôn ,danh sắcduyên lục nhập .Như vậy ,đối với chúng con (nghĩa)ở đây là thế : "Duyên sắc duyên lục nhập"_Trước đã nói:Thức duyên danh sắc "Này các tỳ khưu,thức duyên danh sắccó phải không?Hay ở đây (nghĩa )như thế nào?" "Bạch Thế Tôn ,Thức duyên danh sắc".Như vậy đối với chúng con (nghĩa)ở đây là thế : "Thức duyên danh sắc"_Trước đã nói: "Hành duyên thức".Này các tỳ khưu ,hành duyên thức có phải không?Hay ở đây (nghĩa)như thế nào? "Bạch Thế Tôn ,hành duyên thức.Như vậy đối với chúng con (nghĩa)ở đây là thế : "Hành duyên thức"_Trước đã nói: "Vô minh duyên hành".Này các tỳ khưu,vô minh duyên hành có phải không?Hay ở đây (nghĩa)như thế nào?_ "Bạch Thế Tôn ,voi2 minh duyên hành .Như vậy đối với chúng con (nghĩa)ở đây là thế : "Vô minh duyên hành".
"Lành thay ,này các tỳ khưu.Các người nói như vậy và Ta cũng nói như vậy : "Cái này có tên cái kia có,cái này sinh nên cái kia sinh ,như vô sinh duyên hành".
Lành thay,này các tỳ khưu .Các người nói như vậy và Ta cũng nói như vậy : "Cái này có nên cái kia có,cái này sinh nên cái kia sinh,như vô sinh duyên hành,hành duyên thức,thức duyên danh sắc,danh sắc duyên lục nhập,lục nhập duyên xúc ,xúc duyên thụ,thụ duyên ái,ái duyên thủ,thủ duyên hữu,hữu duyên sinh,sinh duyên lão tử,sầu,bi,khổ,ưu,não cùng sinh khởi.Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.Do vô minh đoạn diệt xả ly một cách hoàn toàn nên hành diệt .Do các hành diệt nên lục nhân diệt .Do lục nhập diệt nên xúc diệt .Do xúc diệt nên thụ diệt .Do thụ diệt nên ái diệt .Do ái diệt nên thủ diệt.Do thủ diệt nên hữu diệt.Do hữu diệt nên sinh diệt .Do sinh diệt nên lão tử,sầu,bi,khổ,ưu,não đềudiệt.Như vậylà sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
"Trước đã nói : "Do sinh diệt nên lão tử diệt ".Này các tỳ khưu,do sinh diệt nên lão tử diệt có phải không?Hay ở đây (nghĩa)như thế nào ? "_ "Bạch Thế Tôn ,do sinh diệt nên lão tử diệt.Như vậy đối với chúng con (nghĩa)ở đây là thế : "Do sinh diệt nên lão tử diệt"_Trước đã nói : "Do hữu diệt nên sinh diệt".Này các tỳ khưu,do hữu diệt nên sinh diệt có phải không?Hay ở đây (nghĩa)như thế nào ?_ "Bạch Thế Tôn ,do hữu diệt nên sinh diệt .Như vậy đối với chúng con (nghĩa)ở đây là thế : "Do hữu diệt nên sinh diệt"_Trước đã nói: "Do thủ diệt nên hữu diệt ".Này các tỳ khưu ,do thủ diệt nên hữu diệt có phải không?Hay ở đây(nghĩa)như thế nào? "_Bạch Thế Tôn ,do thủ diệt nên hữu diệt.Như vậy đối với chúng con (nghĩa)ở đây thế nào: "Do thủ diệt nên hữu diệt"_Trước đã nói : "Do ái diệt nên thụ diệt".Này các tỳ khưu ,do ái diệt nên thụ diệt có phải không?.Hay ở đây(nghĩa)như thế nào?_ "Bạch Thế Tôn ,do ái diệt nên thụ diệt.Như vậy đối với chúng con (nghĩa)ở đây là thế: "Do ái diệt nên thụ diệt"_Trước đã nói, "Do thụ diệt nên ái diệt".Này các tỳ khưu ,do thụ diệt nên ái diệt có phải không?Hay ở đây(như thế nào)? "_Bạch Thế Tôn ,do thụ diệt nên ái diệt .Như vậy đối với chúng con(nghĩa)ở đây là thế : "Do thụ diệt nên ái diệt"
"-_Trước đã nói : "Do xúc diệt nên thụ diệt ".Này các tỳ khưu,do xúc diệt nên thụ diệt có phải không?Hay ở đây (nghĩa)như thế nào? "._ "Bạch Thế tôn,do xúc diệt nên thụ diệt .Như vậy đối với chúng con (nghĩa)ở đây là thế: "Do xúc diệt nên thụ diệt"_Trước đã nói : "Do lục nhập diệt nên xúc diệt".Này các tỳ khưu ,do lục nhập diệt nên xúc diệt có phải không ?Hay ở đây( nghĩa )như thế nào?_ "Bạch Thế tôn ,do lục nhập diệt nên xúc diệt .Như vậy,đối với chúng con (nghĩa)ở đây là thế : "Do lục nhập diệt nên xúc diệt Trước đã nói "Do danh sắc diệt nên lục nhập diệt ".Này các tỳ khưu ,do danh sắc diệt nên lục nhập diệt".Này các tỳ khưu có phải không?Hay ở đây (nghĩa)như thế nào?"_Bạch Thế Tôn ,do danh sắc diệt nên lục nhập diệt .Như vậy đối với chúng (nghĩa)ở đây là thế : "Do danh sắc diệtnên lục nhập diệt"._Trước đã nói . "Do thức diệt nên danh sắc diệt".Này các tỳ khưu ,do thức diệt nên danh sắc diệt có phải không?Hay ở đây (nghĩa)như thế nào? "Bạch Thế tôn ,do thức diệt nên danh sắc diệt .Như vậy đố với chúng con (nghĩạ)ở đây là thế : "Do thức diệt nên danh sắc diệt".Này các tỳ khưu ,do hành diệt nên danh sắc diệt .Như vậy đối với chúng con (nghĩa)ở đây là thế : "Do hành diệt nên thức diệtcó phải không?Hay ở đây (nghĩa)như thế nào? "Bạch Thế Tôn ,do vô minh diệt nên hành diệt".Như vậy đối với chúng con(nghĩa)ở đây là thế : "Do vô minh diệt nên hành diệt"..Lành thay này các tỳ khưu ,các người nói như vậy : "Cái này không có nên cái kia không có ;cái này diệt nên cái kia diệt ,như vô minh diệt nên hành diệt ,hành diệt nên thức diệt ,thức diệt nên danh sắc diệt,danh sắc diệt nên lục nhập ,lục nhập diệt nên xúc diệt ,xúc diệt nên thụ diệt ,,thụ diệt nên ái diệt ,ái diệt nên thủ diệt ,thủ diệt nên hữu diệt ,hữu diệt nên sinh diệt ,sinh diệt nên lão tử,sầu bi khổ ưu não diệt .Như vậy là sự đoạn diệt của  "toàn bộ khổ uẩn này".
            "Này các tỳ khưu , các người biết như vậy,thấy như vậy,có còn chạy theo lời quá khứ ,và suy nghĩ : "Ta có mặt trong thời quá khứ hay không có mặt trong thiời quá khứ ?Ta có mặt trong thời quá khứ như thế nào?Ta có mặt trong thời quá khứ ,hình vóc như thế nàoTrước kia ta là gì và ta có mặt trong thời quá khứ? "_ Thưa không,bạch Thế tôn"_ "Này các tỳ khưu ,các người biết như vậy ,thấy như vậy ,có còn chạy theo thời vị lai hay ta không có mặt trong thời vị lai .Ta có mặt trong thời vị lai như thế nào "Ta có mặt trong thời vị lai ,hình vóc như thế nàoi?Trước kia ta là gì và ta sẽ có mặt như thế nàotrong thời vị lai ? "_Thưa không,bạch Thế Tôn  "_ "Này các tỳ khưu ,các người biết như vậy ,thấy như vậy,các ngơi có nghi ngờ gì về mình trong thời hiện tại : "Ta có mặt hay không có mặt .Ta có mặt như thế nào?Ta có mặt hình vóc như thế nào?Hữu tình hay từ đâu đến ?Và rồi sẽ đi về đâu?"_ " Thưa không ,bạch Thế Tôn ."_ "Này các tỳ khưu ,các ngươi biết như vậy ,thấy như vậy ,các ngươi có nói như sau: "Bậc Đạo Sư quá nặng nề đối với chúng ta .Chúng ta nói vì chúng ta tôn trọng bậc Đạo Sư"_ "Thưa không, bạch Thế Tôn"_ "Này các tỳ khưu ,các ngươi biết như vậy ,thấy như vậy ,các ngươi có nói như sau: "Một Sa Môn nói với chúng tôi như vậy,và còn chúng tôi nói không như vậy (?)"_ "Thưa không ,bạch Thế Tôn"_ "Này các tỳ khưu ,các ngươi biết như vậy ,thấy như vậy ,các ngươi có tìm một vị Đạo Sư khác không?"_Thưa không ,bạch Thế Tôn . "Này các tỳ khưu ,các người biết như vậy ,các người có trở lui lại cái giới cấm ,tế tự (?)đàn tràng của các tục tử Sa Môn ,Bà La Môn (và nghĩ rằng)chúng ta là căn bản không?_ "Thưa không,bạch Thế Tôn"_ "Này các tỳ khưu ,có phải các người chỉ nói những gì các người tự biết ,tự thấy,tự ý thức được ?"_ "Thưa vâng ,bạch Thế Tôn"_ "Lành thay,này các tỳ khưu ,các người đã được ta giới thiệu Chính Pháp ,Pháp này tự chứng hiện tại ,vượt ngoài thời gian ,đến để mà thấy ,có khả năng hướng thuợng ,được người trí tự thân giác hiểu .Này các tỳ khưu ,Pháp này tự chứng hiện tại ,vượt ngoài thời gian ,đến để mà thấy ,có khả năng hướng thượng ,được người trí tự thân giác hiểu.Tất cả những gì đã nói là do duyên này mà nói".*
2. Giải Quyết Vấn Đề Sống ,Một Mục Đích …    
Dưới con mắt đạo Phật ,ta thấy hai sự thật :
Thế Giới Là Vô Thường (anicca), Chúng Sinh Là Vô Ngã(Anattà).
Theo nhận định trên ,đó là biến tướng của Muời   Hai  Nhân  Duyên (Dvadasangahpratityasamutpadah)kết sinh tương tục ,nên cuộc sống con người cũng chuyển dịch ,biến hóa không ngừng ,nếu con người không sớm giác ngộ cứ mãi sống triền miên trong mê vọng .Với tuổi thanh niên bồng bột ,can đảm ,đầy dục vọng ,nếu người ta chỉ nhìn hạnh phúc không ngoài cơm, áo,nhà ở,sắc đẹp,tiền tài,danh vọng,chơi bời cho phung phí ,thu hẹp đời mình trong gang tấc,đến khi tuổi già sức kiệt ,tinh thần uể oải ,nhìn đời với cặp mắt yếm thế ,bi quan ,lãng mạn ,buồn thảm …trông về trước ,than ôi ! "thời oanh liệt nay còn đâu?";ngó lại sau ,thấy toàn là đổ vỡ,sống không mục đích ,không lý tưởng hướng dẩn ,nên dể bị cảnh vật cuốn lôi ,thì nảy sinh tư tưởng tiêu cực hoài nghi…,chỉ còn chờ ngày xuôi tay ,tắt hơi thở .Do đó,đã sinh ra quan niệm cho rằng con người chết rồi thì hết ,nên lúc sinh thời ,họ ăn chơi trác táng!.Ngược lại,có thuyết lại nói :Con người chết ,nhưng  "linh hồn"bất tử,và sẽ trở về chốn âm phủ .Ở đấy người ta sẽ được gặp lại bà con thân quyến …
(Những quan niệm như trên đều là sai cả.Theo đạo Phật ,thì đó gọi là  "tà kiến"hay "biên kiến"vậy).
Nếu cuộc sống con người chỉ quan niệm trong bấy nhiêu sự kiện ,ăn mặc,ở và chơi bời phóng đãng,thử hỏi còn có nghĩa lý gì ?!Nhưng,về một phương diện khác ,cho ta thấy ,con người nếu biết thức tỉnh ,biết  phụng sự cho một lý tưởng cao đ ẹp,biết quay  lại với mình _một ý nghĩa chân thật người _,sống nhịp với bản thể vũ trụ bao la…Nghĩa là ,chỉ khi nào người ta có được một quan niệm rộng rãi mới nhìn ra cuộc sống cao đẹp thường ẩn trong lòng sự vật và tràn đầy hy vọng vô biên …thì đó mới thực sự được gọi là cuộc sống có ý nghĩa .Thật ra,cuộc sống con người không phải chỉ đóng khuôn trong bảy ,tám chục năm hay trong một đời ,một kiếp ;mà là vô hạn _Chết chỉ có nghĩa để lai sinh .Trong cuộc tiến hóa mình làm mình chịu .Hể có nhân là có quả .Chúng ta đừng bao giờ bỏ lỡ?417; hội tốt nào.Hãy phấn đấu không ngừng .Phấn đấu để thắng dục vọng ,thực chứng sự ,lý giải thoát .Để khỏi phụ một đời làm người vậy. 
Với tinh thần vô ngã ,vị tha,đạo Phật khuyên con người đừng bao giờ trốn tránh cuộc đời để tìm nguồn phúc lợi cho riêng mình .Vì như vậy chỉ là ích kỷ,tạo cho mình một cuộc sống lẽ loi …Đừng tìm chân lý ở đâu xa lạ .Chân lý ở ngay chung quanh ta .Tất cả sự sống ,cách sống,lẽ sống,khuôn mẫu sốngvẫn tiềm ẩn trong cuộc đời và đều bắt nguồn từ con người =Con người là sáng tạo .Tất cả …đều do con người đặt định mà có.Cho nên cuộc sống con người có được tốt đẹp hay không trách nhiệm trước sau vẫn do con người tự quyết định lấy.
Để điều hòa cuộc sống ,điều kiện trước hết là cải hóa con người,là sự quân bình hóa giữa hai phương diện   "vật chất"và  "tinh thần".Có vậy,cuộc sống của con người mới hoàn hảo và tiến ích.
Về Sự Sống Vật Chất
Những sản vật thiên nhiên là cái kho vô tận sẳn có cho con người khai thác ,phát triển nguồn lợi để cung phụng đời sống được dồi dào,tốt đẹp hơn .Thuở xưa ,khi loài người còn sống từng bộ lạc,năm mười người qui tụ ở một khu rừng ,trên một mảnh đất hoang vu ,họ sinh kế bằng những nghề chài lưới ,đốn củi ,săn thú,đói đã có hoa quả ,chim muông ,rét lấy lá cây che thân .Khi không muốn ở khu rừng này họ chuyển đi nơi khác.Sự sống thật giản dị .Về sau ,loài người ngày càng sinh sản nhiều,thấy không thể sống đơn độc cô quạnh ,họ rủ nhau về những miền đồng bằng và lập thành từng làng ,có gia đình riêng .Cuộc sống hàng ngày càng thêm phức tạp :mỗi người đã biết dành dụm ,giữ gìn của cải của mình;từ chế độ du mục chuyển sang chế độ tập quyền .Họ thấy cần phải thay đổi nghề nghiệp ,lối sống như làm ruộng,trồng dâu ,nuôi tầm ,kéo kén để lấy tơ v.v..Tùy thời tiến hóa ,ngày nay nhân loại đã tổ chức thành xã hội có qui củ,lớn mạnh .Vậy như ta thấy ,những thiết dụng cần cho đời sống hàng ngày của con người :không ngoài giải quyết vấn đề cơm ,áo,nhà ở cùng những nhu cầu của một xã hội văn minh.  
Con người muốn đạt được những mục tiêu ,trước hết ,mỗi người phải biết hạn chế lòng tham,tình ích kỷ hẹp hòi ,chúng tôi chưa muốn dùng hai chữ trừ diệt,vì e rằng có quá lý tưởng chăng,chỉ biết nghĩ đến quyền lợi cho mình ,cho đoàn thể mình ,bỏ quên quyền lợi của tha nhân ,của tập thể khác ,do đó(mà)mọi mâu thuẩn phát sinh khiến cho cuộc đời đã rối loạn lại càng loạn thêm và chẳng bao giờ xã hội loài người được yên cả.
Tất cả sự vật hiện hữu trên cỏi đời này đều quan hệ lẩn nhau ,một người nghèo khó có ảnh hưởng đến kẻ giàu sang :làm cho mọi người an vui tức là mình được sung sướng .Với quan niệm rộng rãi ấy ,đạo Phật khuyên con người đừng bao giờ chấp giữ một cái gì gọi theo từ ngữ Phật học là , "chấp ngã và chấp pháp".Tại sao ta lại chấp  "cái này"là của tôi , "cái kia"thuộc về tôi ?Vì chấp mà phát sinh lòng tham lam,giận dữ,si mê.Sự thật thì tất cả sự vật hiện hữu ở đời đều huyển hóa ,vô thường ,vô ngã.Khi ta đã hiểu như thế rồi ,thì tự nhiên lòng mình thanh thản ,chẳng còn chấp có mình ,chấp có người *.Ta thấy ta và vũ trụ vạn hữu đều hòa nhập trong cùng một .Nguồn Sống Bản Thể Vô Biên *và rất tương quan mật thiết với nhau ,do đó con người sẳn sàng   "cho"_xin hiểu chữ cho theo nghĩa 䮧 *_và cho với cả tấm lòng thành kính ,tức là ta biết cách hành động hữu ích cho người ,cho đời với hoài bão hàn gắng những vết thương đau rữa nát của xã hội người .Vậy  "cho"không có nghĩa là  "thí bỏ cho kẻ khó  "bằng đồng tiền ,chén cơm ,manh quần,tấm áo rồi khinh miệt,hắt hủi họ . "Cho"chỉ có nghĩa là san sẽ ,giúp đở lẩn nhau _trong lúc mình có mà tha nhân không có _Người nào chẳng có lúc thiếu thốn (!).Vì giúp người tức là mình làm cho mình vậy.Và mọi người trong xã hội loài người lúc ấy sẽ kết tụ toàn bằng những tinh hoa :khôn ,sáng,thật,vui,đẹp,và với lòng yêu thương rộng mở ,con người ngắm nhìn vũ trụ thiên nhiên là kho tài nguyên vô tận tha hồ dùng vào công cuộc phát triển đã sống ,để tiến hóa không ngừng… ?.
Về Sự Sống Tinh Thần
Cuộc sống về vật chất tuy đã ổn định ,song về mặt tinh thần con người cũng cần phải có thì cuộc sống mới thật hoàn hảo .Mà muốn vậy ,con người phải siêng năng trau dồi học thứcđể mở mang trí tuệ ,phát triển tài năng ;để sống khác với loài muôn thú .Nếu không cuộc sống con người sẽquá ư mộc mạc chẳng còn có nghĩa lý gì!Cây giác ngộ chỉ mọc ở đám đất đau khổ .Tinh thần được triển khai là do trí tuệ ,một động lực vốn là kết quả của sự suy tư mà có .Các nghành văn chương ,nghệ thuật ,khoa học ,triết học,đạo đức học là những môn bổ ích cho tinh thần ,giúp cuộc sống con người thêm tốt đẹp và có ý nghĩa hơn .Con người muốn làm chủ cuộc sống thì tự thân phải biết rèn luyện tâm thức sao cho mỗi ngày thêm mở mang ,phát đạt.Hãy tỏ ra mình là người _một nhân phẩm cao thượng _,có đầy đủ đức tính :thành thật ,lịch sự,đức hạnh ,tài năng ,can đảmvà hết lòng … "Học"chỉ là tri thức ;điều cần yếu phải có "Hạnh"mới gọi được là "chân thức".Học vấn mà không lương tâm,không đức hạnh thì cái học ấy có khác gì bông hoa tuy có sắc mà thiếu hương thơm .Học vấn và đức hạnh cả hai là những vật trang sức cho con người thêm tươi đẹp .Trí tuệ,tài năng chỉ có thể thành đạt đối với  những ai biết thuận theo Lẽ Phải,tôn trọng Sự Thật(chân lý),và người đức hạnh thì không bao giờ chỉ biết có mình ,không bao giờ làm hại tha nhân ,không bao giờ lợi dụng lòng tốt của bất cứ ai .Xã hội hiện tại chẳng thiếu gì những phần tử trá hình ,giả nhân nghĩa ,giả đạo đức,bề ngoài dáng vẽ đẹp đẻ ,nhưng trong tâm địa thì lại xấu xa,độc ác;họ là những con vật mang hình ảnh nhân dạng Đừng thấy đỏ ngờ chín .Muốn hiểu con người có chân đạo đức hay không ,ta cần phải gần họ ,sống bên họ ,để hiểu họ .Ta không thể nhẹ dạ đặt tin tưởng một cách dể dãi vào bất cứ một ai ,nếu ta chưa hiểu rỏ người ấy ,để khỏi mang lấy hối hận về sau .Nói tóm,sự sống về tinh thần gồm có hai mặt học vấn và đức hạnh.Tuy nhiên, ngoài các môn học ngoài đời như về triết học ,khoa học v.v..ta còn cần có học Phật,mới mong đạt tới đích giác ngộ và giải thoát toàn triệt .Đấy là những đảm bảo tốt đẹp cho cuộc số⮧ của con người ,ở hiện tại và tương lai. 
 "Hãy tinh tiến để tự giải thoát"
3. Giá Trị Con Người
Đạo Phật với nguồn giáo lý cao diệu,bao hàm về cả ba phương diện :tình cảm ,lý trí và hành xữ,là đạo lấy CON NGƯỜI(Nhân Bản)làm cứu cánh và đối tượng chính để phục vụ và  triển khai ,bằng cách dạy cho con người thoát mọi ràng buộc khổ đau mê tối của nhân giới ,tâm giới và nhiên giới ;đồng thời đặt con người trước trách nhiệm của chính mình :Cuộc đời hay hay dở là do con người  "Tự tác tự thụ";chẳng có thần thánh nào can thiệp hay thưởng phạt cả .Đức Phật dạy: "Mọi người đều là những vị Phật trong tương lai ,vì mọi người đều có Phật tính (Buhhdata)và có khả năng thành Phật".Con người chỉ cần làm hiển lộ được Phật tính(chân lý)ấy,tức sẽ thành Phật.
Đạo Phật rất gần gủi với con người,và là đạo của con người,của xã hội loài người.Trong kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka sutra)chép: "Con người là hơn cả,vì có thể thực hiện được mọi sự tốt đẹp ở đời".Đạo Phật xác quyết rằng :Con người là một trong các sinh động vật,như có tình cảm trong sáng,tư tưởng linh hoạt,hành động quả cảm,mặc dầu con người cũng mang trong mình bao thú tính =dục vọng,lầm lỡ,tội ác…,nhưng nếu xét theo khả năng và giá trị đặc biệt của nó thì,trong tất cả các loài,con người đủ điều kiện trở thành ưu việt . 
 "Hoàn cảnh con người không quá khổ như địa ngục,không quá vui như thiên đường,và không ngu si như các loài thú vật".Vì vậy ,giá trị con người trong đạo Phật bao giờ cũng được đề cao,và được nhìn nhận là một chủng loại có đặc tính vạn năng .
a. Con Người Là Hơn Cả
Trong tất cả các loài,con người là hơn cả.Nhà bác học Pháp Alexis CARREL(giải Nobel 1912)viết trong cuốn L Homme,cet inconnu=   "…Ta không biết rõ giới hạn của con người trong không gian là chừng nào .Song ta có lý do để tin rằng con người vượt ra ngoài cái xác thân .Hình như mỗi chúng ta lớn rộng hơn cái xác thân này nhiều".*Tuy nhiên ,nếu đứng trong phạm vi loài người để nhận xét thì,về phương diện tổ chức cơ thể,con người có đầy đủ đức tướng của bậc trượng phu;Con người có một dáng vóc uy nghiêm,đĩnh đạt ;nói năng linh lợi ;đi,đứng,nằm, ngồi khoan thai ,nhất cử nhất động đều hợp với tư cách đặc thù của nó,không dữ tợn,hình thù không xù xì như các loài muôn thú …;về phương diện sinh hoạt tâm linh,con người vẫn giàu khả năng tính hơn muôn loài _Con người là sáng tạo _**Vì, 1. Bản thểcon người bản lai sáng suốt ; 2. Con người là trung điểm của mọi vấn đề.Mọi vấn đề do con người phát sinh và đều phát sinh vì con người. "Con người là thước đo vạn vật =l homme est la mesure de toute chose".Con người với những đức tính như :
            Đạo Đức thanh khiết,
Ý chí tự cường,tự lập.
Chỉ bấy nhiêu sự thể đủ nâng cao giá trị và địa vị con người vưượt trên và ngoài tất cả.Có những đặc tính ấy con người sẽ dễ dàng tiến hóa trên nấc thang tu chứng,để tự giải phóng mình thoát khỏi mọi tù hãm về tâm lý,tình cảm sâu kín …;đồng thời ý thức rõ được những hoàn cảnh phức tạp bao phủ chung quanh,để tự thắng trong tiến thắng vinh quang .
Trên lý thuyết cũng như trên thực tế,ảnh hưởng của xã hội hôm nay và ngày mai có được tốt đẹp hay không là do con người tự quyết định lấy :
Con người Thiện thì xã hội tốt đẹp ; 
Con người A?#7869; tạo cho xã hội xấu xa,đổ nát.
"Đời sống con người vui tươihay đau khổ,đều do con người tự quyết định và tạo lập lấy"_Mahaparinibbanasutta_
Chúng ta hãy mạnh dạn cải tạo đời sống mình,và cùng đứng cả dậy để tự vứu và cứu lấy giống nòi,cứu nhân loại.Chỉ có con người can đảmmới làm nổi công việc vĩ đại ấy.Công cuộc tự cứu mình và giải thoát đời đòi hỏi nơi con người phải có :đó là tinh thần vô ngã,vị tha,NIETZSCHE,một triết học gia Đứ,nổi danh ở hậu bán thế kỷ XIX,đã nói: "Bạn hãy trở thành người,mà bạn phải trở thành".Nhà đạo học kiêm tư tưởng gia AᮠĐộ Swami VIVEKANANDA cũng nói: "Con người cao cả hơn các loài vật,hơn các vị thiên thần.Con người cao quí hơn cả.Ngay đến các vị thiên thần cũng phải giáng sinh làm người mới mong chứng đạo giải thoát.Chỉ có con người mới đạt được sự hoàn toàn giác ngộ"._Con người khôn,sáng hơn các loài vật (Nhân vi vạn vật chí linh).
Giá trị con người quả là siêu việt hơn muôn loài…
b. Nhưng Phải Là Con Người Với Đầy Đủ Ý Nghĩa Của Nó
Đã biết con người là giá trị hơn cả,thì con người đừng bao giờ làm phá sản những khả năng sẳn có,phải luôn luôn nhớ:ta là người hằng sống trên mặt đất.Ta phải làm một việc gì hữu ích cho đời .Nếu không, cũng đừng bao giờ có ý niệm làm tổn thương đến tính mệnh, tài sản,danh dự của bất cứ ai trên cõi đời này.Không được như vậy,thì dù rằng con người ấy vẫn mang hình thể người,nhưng kỳ thực cái cốt cách trong con người họ đã mất đi tự bao giờ mà không còn là con người nữa.Aldous HUXLEY(1894_1963)đã phải thốt lên lời than vãn là: "Người ta xin chúng ta một điều là" "Trở nên người". Một người mà ta nên nhớ,là không phải thần linh cũng không phải quỉ sứ".
Đạo Phật rất kính trọng con người và từng khuyên con người hãy tự tiến lên,đừng bao giờ lùi xuống . "Một phen mất thân người,muôn kiếp khó trở lại =Nhất thất nhân thanh,vạn kiếp nan phục".Đáng thương biết bao cho những ai thường giong ruổi chạy theo dục vọng ảo huyền,mê man trong trường danh lợi …tự dắt mình xuống hố sâu vực thẳm,chẳng tìm được lối ra!Khi nào một con người bắt đầu tự khinh mình,thì con đường trụy lạc của họ cũng bắt đầu.Đối với một quốc gia cũng thế.Trách vụ trước tiên là ta đừng tự khinh mình,vì muốn tiến thắng,ta phải tự tin ở ta.Con người là trung điểm của xã hội loài người.Tất cả hoạt động ,tác động hiện có trong xã hội đều do con người quyết định.Nếu từ xưa đến nay,con người đều hiểu rằng:" "Ta là người.Ta là một phần tử trong xã hội loài người,cũng sinh sống trên trái đất,cùng có một giá trị như nhau,và có sự quan hệ mật thiết với nhau về mọi mặt.Ta phải dạy bảo nhau,giúp đở nhau.Ta đem những tư tưởng sáng kiến của ta tạo thành những khí cụ phá rừng núi,khai khẩn hầm mỏ,điền địa,đem lại nguồn kinh tế sung túc cho xã hội.Ta chế tạo nhiều máy móc tối tân,để thay thế cho sức người bớt nặng nhọc,được hưởng sung sướng tự do …,nếu hiểu thế thì đâu còn nạn giai cấp đấu tranh,đâu còn lao tù khổ sở,đâu còn khí giới nguyên tử,khinh khí để giết hại,khiến cho sự chết chóc điêu linh quá sức tưởng tượng như ngày nay,mà vẫn cứ dám khoác màu áo: Dân chủ,Nhân Quyền, Hòa Bình, Tự Do, Hạnh Phúc?"
Con người là khí cụ sắc bén, rất "lợi"và cũng rất "hại".Sự ích lợi (sẽ) trông thấy chỉ khi nào con người biết rèn luyện tâm trí,như:hiểu biết nghĩa vụ tôn trọng sự thật (chân lý)sáng suốt hành động .Nhưng sự tác hại của con người cũng sẽ rất ghê gớm,khi mà con người chỉ sống (bưng bít)trong những bức tường thành kiến,tập quán,di truyền hủ bại,đam mê thuốc xái,cờ bạc,rượu chè,chơi bời phung phí :đó là những người sống đời không lý tưởng,mục đích.
Giáo lý đạo Phật là dạy cho con người nhiều phương pháp làm người,và chỉ có đạo lý Từ Bi,trí tuệ,bình đẳng,giải thoát và tự chủ mới xóa bỏ được mọi mê tối,khổ đau của cuộc đời phiền tạp,nhiểu nhương này.
c. Giá Trị Đặc Biệt Của Con Người Trong Xã Hội Loài Người
Giá trị con người là hơn muôn loài.Trong các kinh điển đức Phật từng nhắc đi nhắc lại nhiều lần câu : "Ta là Phật đã thành .Chúng sinh là Phật sẽ thành"_Kinh Phạm Võng.
Để ra ngoài những giáo lý uyên áo,ở đây,ta chỉ xét nội câu nói trên cũng đủ diễn tả hết mọi khía cạnh giá trị và địa vị đặc biệt của con người nhưng con người lên ngang hàng với chư Phật.Sự bình đẳng tuyệt đối của đạo  Phật là ở đó,chứ không như các tôn giáo khác,chỉ biết đặc tôn vị giáo chủ duy nhất mà mình thờ,ngoài ra không muốn cho một ai được ngang hàng với địa vị ấy.Họ cố ý dìm con người xuống ,không muốn cho con người tiến lên.Quan niệm của đạo Phật rộng rãi hơn,đức Phật dạy : "Con người là hơn cả nhân thị tối thắng!"Có con người là có tất cả.Muốn cải tiến xã hội,trước hết phải cải thiện con người. "Đời chỉ đáng sống nếu người ta có được một lý tuởng,nghĩa là có những ưu tư khác với chăm lo ăn cho ngon,uống cho thỏa và thụ hưởng cho nhiều lạc thú".
Tư tưởng,ý chí và hành động của con người quyết định hết thảy.Con người tốt hay xấu,giàu hay nghèo,sang hay hèn,ngu tối hoặc thông minh,và xã hội có mở mang hay thoái hóa,nguyên nhân chính vẫn là con người.Chỉ e con người có làm chủ đuợc mình hay không ?_ "Muốn làm chủ được thời cuộc,phải làm chủ được người chung quanh.Muốn làm chủ người chung quanh,phải làm chủ lấy chính mình".Thực ra,đời sống phức tạp trong xã hội không đáng kể ;đáng kể là,khi con người có biết điều khiển xã hội phức tạp hay không.Nếu con người biết cách điều khiển cuộc sống mình,mọi việc sẽ tốt đẹp,khác nào như đợt sống trên sông ngòi,chỉ một cơn gió lốc thổi ào ạt cũng đủ đánh tan tất cả đợt sống nhỏ làm thành làn sống vĩ đại cuồn cuộn chảy về biển cả.Cũng như thế,nếu con người tách rời cuộc sống mình ra khỏi phạm vi xã hội loài người thì cuộc sống ấy quả là vô nghĩa,không đáng kể.Và như thế,con người ấy đã tự chối bỏ giá trị cũng như địa vị cao quí của mình trong cuộc sống hằng ngày…Giá trị nhân bản đích thực có tính cách vĩnh cửu,chỉ có thể biểu lộ ở những con người mang ý nghĩa toàn vẹn của nó.Đạo Phật khuyên chúng ta hãy tự quên mình để được yêu vũ trụ rộng lớn,mà đạo lý "vô ngã,vị tha"là đọng cơ thúc đẩ?n người dũng tiến trong công cuộc phụng sự nhân loại,phụng sự chúng sinh.Nên nhớ:sự biểu hiện cùng tận của lẽ sống là ở chổ hoạt động minh động và phát triển con người toàn vẹn .Hãy vương lên và làm việc .
            Đó là giá trị đặc biệt của con người trong xã hội loài người.
 
--o0o--