|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
CHUYỆN SỐ MỆNH
-
(Một câu chuyện lý thú ngộ nghĩnh)
-
Hòa thượng Thích Thiện Siêu
- --o0o--
-
-
GIỚI THIỆU CHUYỆN
-
Sáng nay một đạo hữu
đem sách này trao tôi, nhờ đọc xem có tham phá Phật pháp không.
Sau khi đọc hết tôi nhận thấy trừ vài chi tiết, phần chủ yếu của
sách chẳng có chi trái nghịch Phật pháp, theo những nhận định
dưới đây:
-
1. Sách đi từ thuyết
Số mệnh an bài, bất khả di dịch và vô căn cứ, đưa dần đến thuyết
Nghiệp báo phát xuất từ vọng tâm chúng sanh và có thể cải biến.
(Tất cả các pháp chỉ do vọng niệm mà có sai biệt, nếu rời vọng
niệm đi thì không có tất cả cảnh giới - Luận Khởi Tín). Nếu do
thuyết số mệnh người ta thường yên trí rằng giàu hay nghèo, sang
hay hèn, sướng hay khổ, thông hay dốt, thọ hay yểu đều do số
định, thì với thuyết Nghiệp báo cũng cho người ta sự yên trí
tương tự: khi gặp lành người ta liền bảo tại trước kia đã ở
hiền, khi gặp dữ người ta liền bảo vì kiếp xưa đã vụng đường tu.
Nhưng xét kỹ nội dung thuyết Nghiệp báo đã không giống với
thuyết Số mệnh ở chỗ có thể thay đổi tùy theo ý muốn của con
người vì số mệnh, hay đúng hơn phải nói là nghiệp báo không phải
ở đâu ngoài năng lực con người. Mỗi người chính là kẻ thụ hưởng
mà cũng chính là chủ nhân sáng tạo ra đời mình, ra số mệnh mình.
Số mệnh (cũng gọi là định mệnh) không phải là một tự nhiên mà là
một chế tạo của nhân duyên tâm hành.
-
2. Sách phân tách rõ
ràng, khúc chiết các điều thiện đã được thi thố xưa nay, nhờ đó
ta có được một nhận định chân xác về tính chất các điều thiện tự
làm hoặc ở người khác làm, để có thể giúp ta bớt phần thắc mắc
đối với lý nhân quả báo ứng lắm lúc như vô căn cứ, mâu thuẫn.
Tại sao có người được thiên hạ cho là hiền lành lại hay lâm tai
họa trắc trở, còn kẻ bạo ngược hung tàn lại thường gặp điều tốt
đẹp thuận lợi?
-
3. Sách chỉ cách
lường công xét tội, đem điều lành trừ tính điều ác để cầu tiến
bộ, làm cho điều lành nhiều hơn điều ác hầu đó biến cải nghiệp
cũ, ảnh hưởng thụ quả mới theo ý chí cố gắng của mình.
-
4. Sách trình bày bốn
mục, toàn là lời tự thuật để khuyến giáo gia đình của ông Liễu
Phàm (người tỉnh Giang Tô, đời Minh, đậu tiến sĩ), song xét ra
tính chất vẫn là lời khuyên nhủ chung cho tất cả mọi người trên
đường hướng thiện với chủ tâm cải tiến cuộc đời mỗi ngày mỗi
xứng đáng hoàn hảo.
-
Đạo hữu lại hỏi: Theo
Thuyết nghiệp báo, người ta có thể thay đổi vận mệnh tùy ý muốn,
song trên thực tế ai cũng cảm thấy mọi người như tuồng phải sống
theo dòng đời đã định sẵn, không tài nào cưỡng chống. Như thế mà
nói không phải do số mệnh định sao chịu vậy, số bắt phong trần
phải phong trần, thì là gì?
-
Tôi đáp: Nghiệp có
định nghiệp và bất định nghiệp. Định nghiệp là nghiệp đã quy
hướng vào một chiều chờ thọ kết quả, hay đã thành quả, như do
bao nhiêu tiền nghiệp nhất định mà một chúng sanh phải sinh làm
người, và đã sinh ra làm người thì không thể biến đổi thành hình
thú hay tướng mạo phi thiên. Trong khi làm người vẫn mang trong
mình bao nhiêu nghiệp nhân chờ hưởng thụ quả báo hoặc giàu
nghèo, thông dốt, thọ yểu v.v... Trong những nghiệp nhân này lại
cũng có định và bất định. Nếu là nghiệp bất định, thì có thể cải
đổi tùy theo nặng nhẹ, cạn sâu, nếu là nghiệp định thì thật khó
lòng cải biến. Do đó dù trên nguyên tắc nghiệp báo có thể biến
cải, song lắm lúc người ta phải nhắm mắt xuôi theo như theo một
quyền năng khắc nghiệt khó cải chống. Nói khó cải bởi vì ít
người có được một tâm hạnh sáng suốt, quyết liệt, sâu xa, bền bỉ
tương xứng hoặc mạnh hơn nghiệp nhân đã đầy đủ sức để cải tạo
nó, vì lẽ đó không làm sao hòng biến cải những hành nghiệp đã
thành cố định? Chính trên phương diện này, khiến người ta khó
thể không lầm nhận nghiệp báo chẳng khác gì số mệnh là bao
nhiêu! Và nếu luận đến biệt nghiệp và cộng nghiệp thì còn có
thêm những lý lẽ để giải đáp cho câu hỏi trên.
-
Đạo hữu lại hỏi: Thế
thì sách này có thể dịch in ra để phổ biến cho nhiều người cùng
đọc được không?
-
Tôi đáp: cứ như ý
kiến vừa trình bày, sách này không ngại phổ biến cho nhiều người
cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ
Chánh pháp, mạnh dạn tiến trên đường hành thiện đúng với nhận
định chính xác luật nhân quả báo ứng hiển nhiên.
-
Đạo hữu lại thiết tha
mong tôi chuyển ra Việt văn. Tôi chấp nhận. Với nội dung khuyến
thiện trên, tôi tin rằng những trang tiếp sau sẽ đem lại cho bạn
đọc nhiều lý thú.
-
Phật lịch 2506 -
1962.
- * * *
-
CHUYỆN SỐ MỆNH
-
1. Cái Học Lập Mạng:
-
Tôi bị mồ côi cha từ
nhỏ. Mẹ tôi cho theo nghề Y học và nói với tôi rằng: Học nghề
làm thuốc vừa có thể nuôi sống vừa có thể giúp người. Vả lại
luyện tập một nghề cho tinh vi có tăm tiếng, chính là sở nguyện
của cha mày khi trước.
-
Sau đó, có một hôm
tôi đến lễ ch?#7915; Vân, nhân gặp một cụ già râu dài tướng đẹp,
dáng mạo phơi phới như tiên, tôi đem lòng kính mộ. Cụ nói với
tôi: "Ta coi cậu là người trong chốn quan trường, sang năm đã
đến khoa thi tấn học, sao cậu không chịu đọc sách?". Tôi trình
bày lý do và hỏi thăm tên họ quê quán của Cụ.
-
Cụ bảo: Ta họ Khổng,
người đất Vân Nam. Ta được chánh truyền phép lý số trong sách
Hoàng Cực của Thiệu Ưng tiên sinh. Ta muốn truyền lại cho cậu.
-
Tôi liền dẫn Cụ về
nhà giới thiệu với mẹ tôi, mẹ tôi dạy tiếp đãi Cụ rất hậu, và
yêu cầu Cụ thử chấm số của tôi xem ra thế nào, thì quả nhiên từ
những việc mảy may đều được Cụ đoán trúng rành mạch. Từ đó tôi
nảy sanh ý muốn đọc sách, và đem chuyện bàn với người anh cô cậu
là Trầm Sinh. Anh ấy bảo tôi: hiện nay có Úc Hải Cốc tiên sinh
đang mở khóa giảng tại nhà ông Trầm Hữu Phu, để anh gởi em tới
đó học, rất tiện. Sau đó tôi trở thành học trò của thầy Úc Hải
Cốc.
-
Khổng tiên sinh chấm
số tôi như vầy: Lúc nhỏ thi huyện đậu thứ 14, thi phủ đậu thứ
71, thi tỉnh đậu thứ 9. Quả nhiên năm sau tôi đi thi cả ba nơi
đều có tên đậu đúng như lời đoán.
-
Cụ lại đoán cả việc
lành dữ trong suốt đời tôi, rằng năm nào thi đậu thứ mấy, năm
nào được bổ Bẩm sinh năm nào được bổ chức Cống sinh, sau đó năm
nào được bổ Tri huyện tỉnh Tứ Xuyên, nhưng làm tri huyện đủ ba
năm rưỡi lại nên cáo thối và thọ đến 53 tuổi, chết vào giờ sửu
ngày 14 tháng tám. Chỉ đáng tiếc số người không con. Các lời
đoán này tôi đều ghi lại và nhớ cẩn thận. Từ đó về sau, phàm mỗi
lần thi cử, tên tuổi đậu đạt đứng trước đứng sau của tôi thế nào
đều đúng như lời tiên sinh dự đoán, duy có điều này làm tôi hơi
nghi là tiên sinh đoán tôi ăn lộc trong thời gian Bẩm sinh đủ số
91 thạch 5 đấu gạo thì được bổ Cống sinh, nhưng cập kỳ tôi mới
tiêu hết số gạo 71 thạch, đã được Đồ Tôn sư phê chuẩn cho tôi bổ
Cống sinh, nên tôi nghi điều này tiên sinh đoán sai, không ngờ
sau đó tôi bị quan đại lý Dương Công bác khước, phải kéo dài
thời gian mãi đến nãm Đinh mão mới nhờ Minh Tôn sư thấy quyển
văn thi của tôi tại khoa trường, khen rằng: Năm thiên sách này
chính là năm thiên tấu nghị lên triều đình, người có tài văn bài
thế này há lại để vùi lấp mãi ở chỗ song môn sao? Rồi ông trình
văn bài của tôi lên quan huyện và tôi được phê chuẩn bổ Cống
sinh. Kiểm điểm lại số gạo tiêu trong thời gian này cộng với số
gạo 71 thạch khi trước thì vừa đủ số 91 thạch 5 đấu không sai;
do đó tôi càng tin chắc đời người tiến thối có số mạng, mau chậm
có vận thời, nên tôi cứ dửng dưng không còn để ý mong cầu một
điều gì.
-
Sau khi bổ Cống sinh
tôi phải vào yến đô học tại Quốc tử giám. Suốt một năm lưu lại
kinh đô, tôi chỉ thường ngồi lẳng lặng, không buồn xem văn thư
gì cả. Qua năm Kỷ tỵ dạo Nam Ưng. Trước khi vào Quốc tử giám,
tôi có đến viếng thăm Thiền sư Vân Cốc Hội ở núi Thể Hà. Ngồi
chung với Thiền sư một nhà suốt ba đêm ngày liền, mắt không hề
nhắm. Thiền sư hỏi tôi: người ta ở cõi đời sở dĩ không làm được
Thánh Hiền chỉ vì bị vọng niệm ràng buộc, nay ông ngồi suốt ba
ngày mà không thấy khởi lên một niệm nào, là tại làm sao? Tôi
trả lời: Thưa Thiền sư, tôi được Khổng tiên sinh chấm số, cho
biết mọi điều vinh nhục tử sinh đều do số định, dầu có móng lòng
mơ tưởng điều gì cũng vô ích, vì vậy tôi không cần nghĩ tưởng
điều gì. Thiền sư cười: Lâu nay tôi đãi ông như bậc hào kiệt,
không ngờ ông chỉ là một kẻ phàm phu chay! Tôi giựt mình, hỏi
Thiền sư cho biết lý do, Thiền sư dạy: những người chưa được
"không tâm" mới phải bị âm dương chi phối, số mệnh buộc ràng.
Nhưng số mệnh chỉ câu thúc kẻ phàm phu, không thể câu thúc được
người cực thiện cũng như cực ác, ông suốt 20 năm nay chịu bó tay
trước số mệnh không chuyển đổi được tí gì, như thế, há không
phải phàm phu thì là gì? Tôi hỏi: Thưa Thiền sư, vậy số mệnh có
thể tránh được ư? Thiền sư dạy: Số mệnh do ta gây ra, họa phước
chính ta tìm lấy. Đó là điều sách vở đã dạy đành rành. Kinh Phổ
Môn, Phật dạy: Cần giàu sang được giàu sang, cần con trai con
gái, được con trai con gái, cần sống lâu được sống lâu. Ôi! Vọng
ngữ là một giới cấm nặng của nhà Phật, há lẽ chư Phật Bồ-tát lại
khi cuống người đời mà nói ra câu ấy hay sao! Tôi hỏi tiếp: Thầy
Mạnh Tử nói: Hễ cầu thời được, ấy là nói cầu những điều chính
nơi tâm mình có thể làm được kia, như điều đạo đức nhân nghĩa
thời có thể ra sức mong cầu, còn như công danh phú quí là đều
ngoài năng lực mình, làm sao mong cầu được? Thiền sư nói: Thầy
Mạnh Tử nói không lầm, chỉ tại ông hiểu lầm thôi. Ông không nghe
ngài Lục tổ Huệ Năng nói sao? Ngài nói: Hết thảy phước điền,
không ngoài gang tấc, hễ tâm cầu chi đều cảm thông nấy. Cầu ngay
nơi ta, không những được đạo đức nhân nghĩa, cũng được luôn công
danh phú quý, hễ trong đạt được thì ngoài đạt được, nên càng
thấy rõ hiệu nghiệm của tâm hướng nội mong cầu. Người nào không
chịu khó ngó lui mình để tu tỉnh, cứ như một bề dong ruổi tìm
cầu bên ngoài, tuy họ có lập cách tìm cầu thế nào chăng nữa, kết
quả vẫn tùy số mệnh định đoạt cả thôi. Lối mong cầu này hoài
công vô ích. Những người không chịu hồi tâm tu tỉnh, lo cầu mong
phú quí công danh bằng con đường đạo đức nhân nghĩa, lại chỉ lo
tìm cầu mọi thủ đoạn gian ác, rốt cuộc họ phải bị thiệt thòi cả
hai mặt, là công danh phú quí không thành mà đạo đức nhân nghĩa
cũng hỏng.
-
Thiền sư lại hỏi tôi
về việc chấm số của Khổng tiên sinh, tôi thuật lại đúng cả mọi
điều. Thiền sư hỏi lại tôi: Bây giờ ông thử xét lại ông còn có
hy vọng thi đậu không? Tôi ngẫm nghĩ một hồi lâu rồi trả lời:
Không thể. Người khoa giáp phải là người có phước tướng, còn tôi
chỉ là kẻ bạc phước, lại không biết dồn chứa công hạnh làm nền
tảng phước đức, không chịu khó giúp ai, không khoan dung đại độ,
có khi còn cậy mình tài trí lấn lướt kẻ khác, nghĩ gì làm nấy,
nói năng khinh suất dối trá, chẳng nể vì ai. Đấy toàn là những
tướng của kẻ bạc phước, làm sao tôi mong cầu được khoa giáp! Vả
lại phàm đất nhớp mới có nhiều vi trùng sinh, nước trong thì đâu
có cá lội, thế mà xét lại tính tôi vốn ưa tinh khiết, nên tôi
không con là phải; phàm khí tiết ôn hòa mới nuôi dưỡng muôn vật,
thế mà xét lại tính tôi hay nóng nảy, thế nên không con là phải;
phàm nhân ái là gốc sinh hóa, nhẫn tâm là gốc suy tàn, thế mà
xét lại tính tôi cứ khư khư danh tiết hảo huyền, chẳng hề hy
sinh giúp ai, thế nên tôi không con là phải. Đó là chưa kể tôi
còn có tật nói nhiều làm tổn khí, tật ưa uống rượu làm tán tỉnh,
tật ưa ngồi suốt đêm không biết bảo tồn khí cốt và nếu kể hết
tật xấu của tôi thì hẳn còn nhiều nữa...
-
Thiền sư nói: Không
riêng gì một việc thi cử, chính tất cả mọi việc thế gian này
thảy đều nằm trong lý nhân quả. Những người có được sản nghiệp
trị giá ngàn vàng tức là người có được cái phước hưởng ngàn vàng
đó, những người có được sản nghiệp trị giá trăm vàng tức là
người có được cái phước hưởng trăm vàng đó, những người bị chết
đói, tức là người có cái nghiệp chết đói đó. Thế mà người đời
không nhận rõ lẽ này, cứ đổ dồn cho trời đất xui nên, kỳ thật
trời đất bất quá chỉ gia thêm những điều mình đã tạo sẵn, chứ
trời đất có bao giờ sanh được mảy may họa phúc nào cho ai đâu.
Ngay đến việc sinh con cũng thế. Người nào có công đức trăm đời
thời sẽ sinh con cháu trong mười đời kế tiếp gìn giữ; người nào
có công đức ba đời, hai đời thời sẽ sinh con cháu trong ba đời,
hai đời kế tiếp gìn giữ, còn người nào tuyệt nhiên không con, ấy
là người chỉ có công đức mỏng manh vậy. Nay ông đã biết chỗ
khuyết điểm của mình, ông hãy tận tình gột bỏ cái tướng không
phát khoa giáp và không sinh con kia đi. Và muốn vậy, ông phải
lo tích đức, phải mở lòng bao dung, phải giữ niệm hòa ái, phải
yêu tiết tinh thần, bao nhiêu việc trước đập tan ngày qua đã
chết, bao nhiêu việc sau phát khởi như ngày nay đã sinh, được
vậy tức là ông tự làm một cuộc tái sinh đầy nghĩa lý đó.
-
Cái thân xác thịt còn
có vận số, huống cái thân đầy nghĩa lý này lại không cảm thông
cùng trời đất? Thiên thái giáp trong kinh Thi có câu: Trời làm
ương nghiệt, mình có thể tránh, mình làm ương nghiệt không thể
nào tránh. kinh Thi nói: Thường hay nói phối hợp thiên mạng
chính là nói tự mình cầu được nhiều phước. Trước đây Khổng tiên
sinh đoán số ông không phát khoa giáp, không sinh con, đó là
điều ương nghiệt do trời đất gây ra, nó có thể tránh gỡ. Nếu ông
mở rộng đức tính, gắng làm việc thiện, dồn chứa âm công, mình
gây ra phước, há mình không được hưởng thụ hay sao?
-
Dịch là bộ kinh mưu
tính việc sưu các ty hung giúp cho người quân tử - hạng người
biết phản tĩnh tu đức. Nếu thật có cái thiên mạng cố định, ai
tốt cứ tốt, ai xấu cứ xấu, thì đâu có thể nói đến chuyện mưu
tính sưu các ty hung? Mở đầu kinh Dịch còn có câu: Nhà nào chứa
điều thiện sẽ có thừa điều phúc (tất thiện chi gia tất hữu dư
khánh), ông có tin nỗi điều ấy chăng?
-
Tôi tin lời Thiền sư
nói, nên thành tâm bái lãnh. Tôi liền đến trước Phật đài tận
tình phát lộ sám hối bao nhiêu tội cũ của mình, và dâng một sớ
bạch, trước hết cầu được đăng khoa giáp, tiếp phát nguyện làm ba
ngàn điều lành, để báo đáp ân đức của trời đất tổ tông.
-
Thiền sư đưa bảng
"Công hóa cách" chỉ cho tôi, khiến cứ mỗi ngày có công việc
thiện ghi vào, còn làm ra mấy việc ác thì thối trừ và gắng
chuyên trì chú Chuẩn-đề, như thế sở nguyện của ông tất có hiệu
nghiệm.
-
Thiền sư lại dạy
tiếp: Một nhà Phù lục thường nói rằng: Người họa phù mà không
hiểu cách thức, tất bị quỷ thần chê cười, song bí truyền của
cách họa phù không chi lạ, chỉ cốt giữ tâm không lay động mà
thôi. Khi cầm bút họa phù, điều cần thiết trước tiên phải dũ
sạch muôn mối duyên lự trong lòng, tâm đừng khởi lên mảy may
tưởng nghĩ nào cả. Ngay khi tâm bất động ấy, hạ bút chấm một
chấm gọi là hỗn độn khai cơ, rồi từ đó tiếp hơ bút họa viết,
không để một tư lự nào móng lên, được như thế là điệu phù thành
linh nghiệm. Phàm người kỳ đảo trời đất cầu sửa đổi số mệnh cũng
phải làm như thế, phải do từ cái tâm không vọng động, không loạn
tưởng khởi mới có cảm cách.
-
Khi thầy Mạnh Tử luận
đến cái học lập mạng có câu: yểu và thọ không hai. Thực tế ta
thấy chết yểu và sống lâu hai điều khác xa nhau, tại sao thầy
Mạnh lại nói khác? Nên biết khi tâm không vọng niệm, thì ngay đó
đâu có phân chia số mạng thọ yểu, giàu nghèo, cùng thông... Chỉ
từ tâm móng khởi thiện ác mới tạo nên những số mệnh sai khác
giữa giàu nghèo v.v... Nhưng phàm đã sinh ra ở đời, ai không coi
việc chết sống là quan trọng, nên trên đây chỉ nói đến việc sống
lâu và chết yểu, kỳ thật ý đã bao gồm tất cả mọi sự thuận nghịch
xảy ra trên suốt cả đời người.
-
Đến như câu "Tu thân
dĩ sĩ chi" mà Mạnh Tử đã nêu lên, là cốt nhắc người đời nhớ lấy
điều tích đức tu nhân làm hệ trọng.
-
Hễ tu được nhân đức
thời dầu có mọi tội lỗi vẫn cải bỏ được hết, và nói chờ đợi (sĩ)
tức có ý nói gắng lo tu nhân tích đức đến khi công phu sâu dày,
tự nhiên số mệnh thay đổi, chớ không phải chỉ đem cái hy vọng
suông cầu cho được thế này thế kia mà được kết quả thế này, thế
kia. Người thông đạt đạo lý, dù một mảy may hy vọng cũng chẳng
để dính mắc trong lòng, được như thế mới đạt đến cảnh giới bất
động niệm hồn nhiên, mới đạt đến chỗ thật học cao siêu.
-
Nay Ông chưa được
"không tâm", Ông hãy trì niệm chú Chuẩn-đề, cần niệm mãi không
gián đoạn, không cần kể số ít nhiều, trì niệm đến khi nào được
thuần thục, trong trì niệm mà không trì niệm, trong không trì
niệm mà trì niệm, thì bây giờ được tâm không lay động, mà có sự
ứng nghiệm rõ ràng.
-
Sau khi được Thiền sư
chỉ dạy, tôi liền đổi hiệu Học Hải trước kia để lấy Liễu Phàm,
vì từ đây đã hiểu cái lý nghĩa lập mạng là thế nào, không muốn
để mình rơi vào sào huyệt phàm phu nữa. Từ nay trở đi, suốt ngày
gìn giữ cẩn thận, do đó tôi tự thấy ngày nay khác xa ngày trước.
Ngày trước tôi chỉ là con người lêu lỏng buông xuôi, nhưng từ
nay tôi đã biết lo gìn lòng giữ ý, cẩn thận từng khắc từng giờ,
dẫu ở chỗ kín đáo riêng tư, lòng vẫn sợ lỡ làm điều chi sai
quấy, mắc tội với trời đất, hoặc dẫu gặp ai ganh ghét, phá
phách, tôi cũng cố giữ tánh điềm nhiên hỷ xả.
-
Bước sang nãm sau, bộ
Lễ mở khoa thi, Khổng tiên sinh đoán bộ sẽ khảo thí từ tên đậu
ba trong khóa trước trở xuống, nhưng nay bộ lại khảo thí từ tên
đậu nhất. Thế là lời dự đoán của Khổng tiên sinh lần này không
ứng nghiệm; và Tiên sinh không đoán tôi được đậu Cử nhân thế mà
tôi đã đậu Cử nhân trong kì Hương thí mùa thu!
-
Tuy nhiên tôi tự xét
việc hạnh nghĩa mình làm chưa thuần thục, sai sót còn nhiều.
Hoặc có khi thấy việc lành mà làm không hăng hái, hoặc có khi
cứu giúp người mà tâm còn do dự, hoặc có khi thân gắng làm lành
mà miệng có nói ác, hoặc khi tỉnh thì tháo vác mà khi say lại
phóng dật... tôi đem tội chiết tính bù trừ với công, thì thấy
hẳn có nhiều ngày mình sống uổng! Tôi phát nguyện từ năm Kỷ Tỵ
và mãi đến năm Kỷ mão, suốt 10 năm, mới hoàn thành ba ngàn việc
thiện! Khi rời Lý Tiệm Am tiên sinh để vào Bản bộ Trung Quốc,
tôi chưa kịp làm lễ hồi hướng ba ngàn việc thiện kia, năm Canh
thìn có dịp trở lại Nam Biên, tôi mới thỉnh các Hòa thượng Thánh
Không, Huệ Không đến Đồng tháp Thiền đường chứng minh cho lễ hồi
hướng, nhân đó tôi lại phát nguyện làm thêm ba ngàn điều lành
khác để cầu sinh con, và đến năm Tân ttôi
đã may mắn hạ sinh một quý tử.
-
Mỗi lần làm một việc
gì, tôi liền lấy bút ghi vào sổ, vợ tôi không viết được, nên hễ
làm được việc gì thì lấy nắp bút chấm son ấn vào tờ lịch một
khoanh tròn. Chẳng hạn như bố thí cho người nghèo, mua vật phóng
sinh, tính ra mỗi ngày có đến mười khoanh. Sang tháng tám năm
Quí mùi, tính lại đủ số ba ngàn điều lành, sau khi đã khấu trừ
các điều ác. Tôi lại thỉnh các Hòa thượng Thánh Không, Huệ Không
đến nhà chứng minh lễ hồi hướng. Ngày 13 tháng 9, tôi lại phát
nguyện làm thêm một vạn điều lành, cầu thì đậu Tiến sĩ, quả
nhiên năm Bính tuất tôi thi đậu và được bổ làm Tri huyện Bửu Đê.
-
Trong lúc làm Tri
huyện, tôi sắm sẵn một tập sách để ghi thiện ác, đặt tên là Trị
Tâm Thiền (sách sửa lòng). Cứ mỗi sáng dậy, gia nhân đem nó giao
lính hầu đem đến để trên án làm việc. Nếu trong ngày, tôi làm
được điều lành điều dữ nào dù lớn dù nhỏ đều ghi rõ ràng vào
sách, đêm đến thiết án giữa trời, bắt chước ông Triệu Duyệt Đào
thắp hương cáo với trời đất (1). Vợ tôi thấy đã lâu mà chẳng làm
được bao nhiêu việc lành, mới châu mày buồn bã nói: Trước Ông ở
nhà có tôi giúp sức, nên Ông đã làm đủ ba ngàn điều lành theo sở
nguyện. Nay Ông nguyện làm thêm một vạn điều, nhưng ở tại công
đường chẳng có việc gì để làm, thì biết bao giờ Ông mới làm đủ
số ấy.
-
Đêm đó, mộng thấy một
Thần nhân, tôi mới than thở về lý do khó là đủ các điều lành
minh đã hứa. Thần nhân bảo: Chỉ một việc giảm khinh tiền thuế
cho dân của Ông vừa rồi, cũng đủ sánh bằng một vạn điều lành.
Nghe lời Thần nhân bảo, tôi liền xét lại nhớ mình có làm việc đó
thật. Vì khi trước thuế ruộng của huyện Bửu Đê, mỗi mẫu phải
đóng 2 phân 3 ly 7 hào, xét ra quá nặng đối với muôn dân nên tôi
đã khu xữ làm cho giảm xuống mỗi mẫu chỉ đóng 1 phân 4 ly 6 hào.
Tuy vậy, tôi vẫn hồ nghi không hiểu tại sao việc làm đó lại có
thể sánh bằng một vạn điều lành, may đâu gặp được Huyền Như
Thiền sư vừa từ núi Ngũ Đài đến, tôi đem chuyện nằm mộng ra hỏi
có đáng tin không, Thiền sư trả lời: Hễ có thiện tâm chân thiết,
thì một việc lành có thể đương được muôn việc lành, huống chi
giảm thuế cho cả một huyện, muôn dân đều chịu ơn. Tôi liền cúng
một số tiền lương, nhờ Thiền sư đem về Ngũ Đài trai Tăng một vạn
vị sư, gọi là để làm lễ hồi hướng cho tôi.
-
Khổng tiên sinh trước
kia đoán tôi đến nãm 53 tuổi gặp tai nạn, nhưng đến năm đó chẳng
có gì xảy ra, dù tôi không hề cầu đảo xin tăng thọ, và nay thì
tuổi tôi đã 69 rồi. Trong Kinh Thi có câu: Trời không dễ tin,
mạng không định thường, lại có câu: Vận mạng chẳng nhất định.
Những câu ấy đâu phải là lời dối trá! Do đó tôi biết chắc rằng,
họa phúc đều phải cầu ngay nơi mình, đó mới thật đúng ý của
Thánh Hiền, ngược lại người nào nói họa phúc do mệnh trời, thì
đó là lối suy luận thông thường của kẻ thế tục.
-
Hiện tại số mệnh mỗi
người thế nào chưa dễ biết được. Vậy đang khi được hiển vinh hãy
tưởng như gặp điều không vừa ý, đang khi được thuận lợi hãy
tưởng như gặp điều trái nghịch, đang khi được sung túc hãy tưởng
là thiếu nghèo, đang khi được mọi người ái kính hãy tưởng khi bị
khuất phục, đang khi gia thể trọng vọng hãy tưởng như mình ở
hạng thấp hèn, đang khi có chút học vấn uyên thâm hãy tưởng mình
còn thiển cận. Xa về trước, nghĩ tới công đức tổ tiên để lo kế
tuyên dương, gần hiện tại, nghĩ tới lầm lỗi của mẹ mà tìm cách
bồi bổ, trên lo đền ơn trước, dưới lo tạo phước gia đình, ngoài
thì giúp người tai nạn, trong thì lo ngăn ngừa tà ác chính mình.
Cốt phải ngay thấy chỗ sai quấy của mình để lo toan hối cải. Nếu
một ngày không tự biết mình quấy tức một ngày an lòng tự cho
mình là phải, một ngày không ăn năn hối quá tức một ngày không
tiến bộ.
-
Hạng người thông minh
tuấn kiệt trong thiên hạ đâu phải hiếm, nhưng nếu họ không gắng
lo tu đức, mở mang thiện nghiệp, họ cũng chỉ sống một đời đình
trệ, an phận dật dờ gặp chãng hay chớ mà thôi!
-
Cái thuyết lý an thân
lập mạng của Vân Cốc Hội Thiền sư trao dạy trên đây thật là chí
tình, chí lý, chí chân, chí chánh. Nếu biết ngẫm kỹ và thực hành
sẽ khỏi một đời luống trôi vô ích vậy.
- * * *
-
2. Hối Cải Lỗi Lầm
-
Những quan đại phu
thời Xuân Thu, thường quan sát sự nói năng hành động của mọi
người để đoán định điều họa phúc của họ, phần nhiều đúng nghiệm
cả. Những điều này đều có ghi trong các bộ Tả truyện, Quốc ngữ,
hãy đọc đến tất thấy. Hầu hết những triệu chứng tốt xấu, đều
manh nha từ trong tâm ý rồi hành động ra tay chân. Nếu một người
thiên hẳn về phúc hậu họ thường gặp phước, một người thiên hẳn
về khắc bạc họ thường mang họa. Song người phàm mắt tục ít ai
thấy rõ điều này, mới vội cho họa phúc báo ứng mâu thuẫn khó
lường!
-
Hễ người nào đem tâm
thành tín làm việc thiện tất yếu việc làm của họ hợp cùng chân
lý, mà hạnh phúc sẽ đến với họ, trái lại thì tai họa theo chân.
Cứ xem ở điều lành điều ác của họ làm, người ta cũng biết trước
việc đó. Nhưng những người muốn lánh họa cầu phúc, hãy lo ăn năn
cải quá, trước khi nói tơi việc làm lành.
-
Theo pháp cải quá,
đầu tiên phải có tâm biết hổ thẹn, nghĩ rằng ta cũng là bậc
trượng phu nam tử như cổ Thánh tiên Hiền, thế sao các ngài làm
thầy cả thiên hạ, được muôn đời tôn thờ, còn ta lại cứ lẹt đẹp
thấp hèn một đời ngói bể, cứ lo say đắm dục tình, thầm lén làm
điều bất nghĩa, còn cho là không ai biết, Vễnh mặt ngạo nghễ
không chút thẹn thùng, đến đổi mỗi ngày mỗi sa đọa xuống hàng
cầm thú mà không tự biết, thật chẳng còn chi hổ nhục cho bằng!
Thầy Mạnh Tử nói: Điều lớn lao khẩn yếu nhất đối với con người
là tâm biết hổ. Vì rằng hễ người nào giữ được tâm đó thì trở nên
Thánh Hiền, kẻ nào bỏ mất tâm đó thì chẳng khác chi cầm thú. Cho
biết tâm hổ thẹn là động cơ chính trong việc cải quá tự tâm.
-
Thứ hai, phải có tâm
sợ hãi. Hãy nghĩ rằng mình làm việc gì đều có Thánh thần ở trên
mình, xung quanh mình biết rõ, không dối trá được. Dẫu mình có
phạm tội lỗi nhỏ nào, người đời đều không thấy, Thánh thần đâu
có mù mờ. Hễ tạo tội nặng, có trăm họa kéo theo, gây tội nhẹ thì
giảm mất phước báo hiện tiền. Như vậy sao được không dè dặt sợ
hãi.
-
Chẳng những thế thôi,
ngay lúc nhàn cư, thần linh càng thấy rõ. Mặc dù ta có che dấu
những điều mình làm kín đáo đến đâu, trau chuốt khéo léo thế
nào, oan trường vẫn bị bại lộ, cuối cùng không thể tự dối; huống
chi đã bị mọi người dòm thấy thì dù một chút giá trị chẳng còn,
như vậy há không đáng cẩn thận sao?
-
Vả lại, khi còn hơi
thở, dù có gây ác tày trời vẫn còn mong hối cải, nên lắm người
một đời tạo ác, đến phút lâm chung biết hối ngộ, nhất một niệm
thiện tâm mãnh liệt, họ vẫn có thể hưởng được một cái chết an
lành. Cổ đức nói: Một niệm lành mãnh liệt đủ rửa sạch tội trăm
năm, ví như cái hang sâu tối ngàn năm, chỉ rọi một ngọn đèn, tối
kia liền biến mất. Vậy không kể tội lỗi đã tạo lâu hay mới tạo,
miễn biết thành thật hối cải là tội hết. Trần thế vô thường,
mạng người chẳng mất, khi hơi thở ra không vào, dù muốn hối cải
chẳng kịp nào. Kẻ làm ác đã phải mang tiếng ác suốt trăm ngàn
năm trên dương thế, không con hiền cháu thảo nào rửa sạch, lại
phải chịu ngục báo trầm luân muôn vạn đời, dù Thánh hiền, Phật,
Bồ-tát cũng khó lòng cứu vớt. Như thế là không kiêng sợ được ư?
-
Thứ ba, phát tâm dõng
mãnh: những người không ăn năn hồi quá, phần nhiều là những
người dần dà có tánh thụt lui. Biết vậy, ta cần phải dũng mãnh
hăng hái, đừng nên do dự, đừng nên chần chờ, hãy xem tội nhỏ như
bị mũi nhọn châm làm thúi thịt, mau mau khoét vất, sợ tội lớn
như bị rắn độc cắn tay, mau mau cắt bỏ, không được trì trễ phút
nào. Càng trễ càng nguy, càng mau càng có lợi.
-
Những người có đủ ba
thứ tâm nói trên, dù có tội lỗi đến đâu vẫn cải đổi được như
băng sương gặp ánh mặt trời làm sao không tan biến. Nhưng nên
biết có những tội lỗi được cải đổi do việc làm thực sự, có những
tội lỗi được cải đổi do triệt ngộ đạo lý, có những tội lỗi được
cải đổi do tận tâm. Công phu không đồng nên hiệu quả cũng khác.
Chẳng hạn ngày trước sát sanh nay sẽ răn dè đừng giết, ngày
trước nóng giận nay phải răn dè đừng nóng... đó là cách hối lỗi
do việc làm thực sự. Lối này chỉ mới là lối cưỡng chế bên ngoài,
khó lòng sạch tội, vì bệnh căn còn chất chứa trong lòng, thì tội
dù diệt bên Đông lại mọc bên Tây, nên lối cải quá này chưa phải
là hoàn hảo cứu cánh. Vậy muốn dứt lỗi triệt để, trước khi cưỡng
chế sự việc phải thấu rõ đạo lý. Như muốn chừa bỏ tội sát sanh
trước hãy rõ lẽ này:
-
Trời đất vốn hiếu
sinh, muôn loài đều tiếc mạng, giết vật để nuôi mình, làm sao
yên lòng được. Vật bị giết đã đành phải chịu cắt xẻ, nếu đau đớn
tận xương tủy, ảo não muôn phần, mà ta ăn vào dù béo bổ ngon bùi
đến đâu hễ nuốt khỏi cổ liền trở thành đồ hôi thối rồi tiêu ma,
chi bằng rau dưa vẫn no bụng, còn tránh khỏi cái tội sát sanh
làm tổn phước mình không ít.
-
Vả chăng, phàm là
loài huyết khí đều có tính linh tri, đã có tính linh tri thì
cùng ta không khác (vật ngã nhất thể). Ví bằng không thực hành
nổi những điều chí đức khiến chúng nó kính ta, thân ta, thì cũng
chớ nên mỗi ngày sát phạt sinh linh, khiến chúng nó mãi oán ta
thù ta đời kiếp! Người nào đã nghĩ được như thế thì dẫu muốn
giết vật ăn thịt, cũng thấy thương tâm chẳng ham ăn nữa.
-
Lại nếu muốn trừ bỏ
tật hay nóng giận thì trước hãy suy nghĩ: Người có chỗ hư hỏng
không bằng ta là người đáng thương, còn người trái lẽ xâm phạm
ta, lỗi ấy thuộc về họ, chớ ta can dự gì mà nổi cơn giận dữ.
Huống hồ trong thiên hạ không đáng hào kiệt nào là người nặng
tánh tự thị, cũng không bậc học thức nào là người hay oán trách
tha nhân, vì họ biết rõ việc mình làm không thành là bởi đức tu
của mình chưa thấu đáo, cho cảm ứng chưa tới nơi, họ luôn luôn
phản tĩnh, nên đối với họ dù gặp những điều hủy báng, cũng xem
như cơ hội tốt để mà luyện tâm đức, mà luôn luôn hoan hỷ đón
nhận không hề phẫn nộ. Khi nghe lời hủy báng mà không phẫn nộ
thì dù ngọn lửa bài báng cao ngất trời xanh cũng tự nhiên tắt
biến như phóng lửa đốt hư không. Trái lại hễ nghe lời dèm chê
vội nóng giận thì dù có khôn ngoan xảo biện đến đâu, cũng chỉ
như tằm xuân kéo kén, càng kéo lại càng buộc chặt mình. Nóng
giận, chẳng những vô ích mà còn gây nên tai hại đến thế.
-
Ngoài các tính nóng
giận còn bao nhiêu tính xấu khác đều có thể suy biết, và hễ rõ
thấu lẽ này thì tội lỗi nào cũng trừ diệt được.
-
Thế nào là tội từ tâm
cải? Tội lỗi vô vàn đều do tâm tạo, tâm không vọng động thì tội
lỗi dựa vào đâu phát sinh? kẻ học thức không cần phải phanh tìm
từng bệnh hiếu sắc, hiếu danh, hiếu tài, hiếu nộ, nhưng chỉ cần
nhất tâm hành thiện, giữ gìn chánh niệm tự khắc tiêu tan như
vầng thái dương chiếu giữa hư không, mọi thứ ma mị đều bặt dấu.
Tội lỗi do tâm tạo tất cũng do tâm cải đổi, như muốn chặt cây
độc, chỉ chặt ngay gốc nó, chớ cần chi phải tỉa từng nhánh lá
nhọc công lâu lắc.
-
Đại để cách đối trị
tâm bệnh hay nhất là giữ lòng cho thanh tịnh. Hễ tâm vừa móng
động liền giáo biết, biết tất liền tiêu. Hoặc nó không tiêu, hãy
quán xét lý lẽ nói trên để trừ đoạn, nếu cũng không trừ được,
thì lại lấy sự để cấm chỉ. Trước lo tu tâm sau lo khởi công hạnh
sự. Như thế mới là lối sửa chữa tội lỗi đắc sách nhất.
-
Khi phát nguyện cải
quá cần phải nhờ thiện hữu đề huề, cầu Hiền Thánh chứng tri.
Nhất tâm sám hối ngày đêm không giải đãi, trải qua một thất (bảy
ngày), hai thất, cho đến một tháng, ba tháng, tất sẽ có hiệu
nghiệm rõ ràng, hoặc tự thấy tâm thần thoải mái, trí tuệ mở
mang, hoặc đang trong chỗ phiền toái rối ren mà gặp đâu thông
suốt đó, hoặc gặp oán cừu mà họ bỏ giận làm lành, hoặc mộng thấy
khạc nhổ vật đen, mộng thấy được các bậc Thần, Thánh, Tiên, Hiền
đề huề tiếp dẫn, hoặc mộng thấy bay đi giữa hư không, mộng thấy
tràng phan bảo cái đưa rước, tóm lại là gặp được các chuyện tốt
lành nhờ lỗi tiêu, tội diệt hiện ra. Tuy nhiên, không được cố
chấp lấy đó để tự cao tự đại, lãng quên bề tiến hóa.
-
Xưa ông Cừ Bá Ngọc,
đang lúc 20 tuổi đã biết xét tội lỗi lúc thiếu thời để lo chừa
bỏ, đến lúc 21 tuổi vẫn thấy rõ lỗi trước chưa sạch, đến 22 tuổi
lại thấy lúc 21 tuổi còn như kẻ ở trong mộng. Cứ mỗi năm lại mỗi
năm, ông không ngớt cải đổi, đến lúc 50 tuổi ông còn thấy gì sai
quấy lúc 49 tuổi. Cái lối cải quá của người xưa như thế thật
đáng phục thay! Chúng ta hiện mang thân phàm tục, tội ác dập
dồn, thế mà ít ai xét thấy, đó phải chãng là vì tâm còn thô và
mắt bị lòa? Dù thấy không thấy mặc lòng, hễ đã tạo tội ác sâu
dày tất không tránh khỏi những điều bất hảo, hoặc tâm thần hôn
muội, chưa nhớ đã quên, hoặc thường sinh phiền não dẫu không
việc gì xúc động, hoặc gặp người quân tử thì hoảng sợ mặt đỏ hồn
tiêu, hoặc chẳng ưa nghe lời hay lẽ phải, hoặc giúp người mà lại
bị người oán, hoặc mộng thấy điên đảo, đến nỗi nói cuồng thất
chí... đó toàn là các tướng quái nghiệt của tội ác hiện ra,
người nào gặp cảnh như thế này cố gắng dõng mãnh cải quá tự tân,
may ra mới khỏi điều mê hoặc.
- * * *
-
3. Chứa Đức Làm Lành
-
Kinh Dịch nói: Nhà
nào chứa lành sẽ có dư phúc. Xưa nhà họ Nhan trước khi muốn gả
con gái cho Thúc Lương Ngột đã không quên tra xét công việc chứa
đức của Tổ tông nhà ấy để suy xét con cháu về sau chắc chắn hưng
xương. Đức Khổng Tử có lời khen vua Thuấn là đại hiếu rằng: Ông
Thuấn mà tế Tổ tông thì Tổ tông chứng hưởng, phước để con cháu
thì con cháu được trông nhờ.
-
Ông Thiếu sư Dương
Vinh người đất Kiên Ninh, nhà đã nhiều đời sống với nghề đưa đò,
có một lần xảy ra cơn mưa lụt nước ngập tràn phá hại dân cư,
nhiều người bị trôi theo dòng nước. Trong lúc đó, mọi kẻ khác lo
bơi thuyền vớt của, riêng ông cố và ông nội của Thiếu sư lại lo
tìm vớt người, chẳng chút để tâm tới tài vật, người chung quanh
thấy thế chê là ngu, nhưng từ ngày thân phụ Thiếu sư ra đời, nhà
ông dần dần thịnh vượng. Có một Thần nhân gia hình Đạo sĩ đến
nói với ông rằng: Tổ phụ nhà người có âm đức, con cháu sẽ nên
quý hiển. Quả thật sau sinh Thiếu sư, mới 20 tuổi đã đậu đại
khoa, làm quan tới chức tam công, và cả ông cố, ông nội và thân
phụ của Thiếu sư đều được phong chức quan lớn. Ai cũng biết dòng
dõi nhà này đến nay vẫn phát nhiều người hiền tài xuất chúng.
-
Ông Dương Tự Trưng,
người huyện Cần, lúc đầu được làm huyện Lại, giữ lòng nhân hậu,
xử đoán công minh, nhân một lần ông gặp quan Tri huyện đánh khảo
một tên tù máu tuôn lai láng mà vẫn chưa đã giận. Dương Tự Trưng
mới quỳ gối khuyên giải, ông Tri huyện trả lời: Những kẻ làm
điều vượt pháp trái lẽ thế này, khiến ai không giận được. Dương
Tự Trưng cúi đầu nói: quan trên đã bỏ rơi pháp luật, khiến dân
lý tán lâu ngày rồi, nay giả sử quan huyện xét thấy người kia
quả có tội phạm, động lòng thương xót buồn bã, thế mà xử trị sợ
còn chưa được công minh, huống lại nổi giận đùng đùng, làm sao
công minh được. Nghe câu ấy quan huyện liền dịu lòng thôi giận.
-
Dương Tự Trưng tuy
nhà rất nghèo, nhưng ai tặng biếu gì cũng không nhận. Hễ gặp tù
nhân thiếu thốn ông thường tìm cách giúp đỡ. Một lần nọ có vài
người tù đang đói đến xin, gặp lúc nhà ông thiếu gạo, nếu giúp
cho tù thì người nhà phải nhịn đói, còn để cho người nhà ăn thì
cảnh tù đói đáng thương, ông mới thương lượng với vợ. Vợ ông
hỏi: Các người tù ấy đâu đến? Ông đáp: Từ Hàng Châu đến. Nhận
thấy họ đi xa đói khát, mặt mày xanh xao hốc hác đáng thương, vợ
chồng ông liền đem phần gạo của mình nấu cháo cho họ ăn. Về sau
hai vợ chống sinh được hai trai, một tên Thủ Trần, một tên Thủ
Chí. Cả hai đều làm quan tới chức Lại bộ tả hữu thị lang. Cháu
trưởng làm Hình bộ thị lang, cháu thứ làm chức Liêm hiến tỉnh Tứ
Xuyên, toàn là những vị triều thần tên tuổi còn để tiếng đời
nay.
-
Khoảng niên hiệu
Chánh Thống đời Minh, có Đặng Mậu Thất nổi loạn tại tỉnh Phúc
Kiến, sĩ dân trong xứ theo rất đông, triều đình cử quan Ngự sử
Trương Giai dùng mưu bắt giặc, sau ông này lại ủy quan Bố chánh
họ Tạ làm chức Đô sự tìm giết đảng giặc. Tạ xét trong sổ hễ thấy
người nào nghi không thực sự oan phạm, thì âm thầm trao cho một
lá cờ nhỏ vải trắng, dặn khi nào quân binh đi đến thì cắm cờ ấy
ra trước cửa, đồng thời ra lệnh cho quân lính không ai được giết
càn, nhờ đó hàng vạn người sống sót khỏi bị chết oan. Về sau con
của Tạ là Thiên, thi đỗ Trạng nguyên, làm Tể tướng, cháu Tạ tên
Phỉ, thi đỗ Thám hoa.
-
Nhà họ Lâm ở huyện
Phố Điển, nhiều đời trước trong nhà có một là lão ưa làm việc
thiện. Bà thường lấy bột gạo làm thành từng vắt để bố thí. Hễ ai
đến xin là cho, không hề tỏ vẻ buồn chán. Có một vị Đạo nhơn
hằng ngày đến xin sáu, bảy vắt, bà lão vẫn vui lòng cho, suốt ba
năm liền như thế. Vị Đạo nhân biết bà ta thật có lòng thành, mới
bảo rằng: Tôi ăn của bà suốt ba năm, bây giờ biết lấy gì báo
đáp, thôi tôi chỉ cho bà biết ở sau phủ bà ở có chỗ đất tốt, bà
hãy dặn con cháu say này đem bà đến đó, chôn, tất con cháu sẽ
phát tước lộc lớn. Về sau con cháu y lời dặn chôn bà. Quả thật
đời thứ nhất có tới chín người đỗ đạt, và tiếp tục nhiều đời nhà
này trở thành một nhà thế kiệt trâm anh, đến đỗi tại tỉnh Phúc
Kiến có câu ca dao: Thiếu mặt người họ Lâm thì bảng vàng không
nở.
-
Tóm lại những điều
trên, tuy thi hành với nhiều lối, nhưng rốt lại đồng là việc
thiện. Những việc thiện này nếu gia tâm xem xét kỹ sẽ thấy có
chân có giả, có thẳng có công, có âm có dương, có thị có phi, có
thiên có chánh, có nửa có toàn, có lớn có nhỏ, có khó có dễ. Nếu
làm lành mà không thấu đạt lý lẽ này, nhiều khi khổ công nhọc
trí, chẳng đem lại lợi ích gì.
-
Việc lành có chân có
giả là thế nào? Xưa có mấy Nho sinh đến hỏi Trưởng lão Trung
Phong Hòa thượng rằng: Nhà Phật dạy điều thiện ác báo ứng như
bóng theo hình, nhưng tại sao hiện thấy có những người làm lành
mà con cháu không phát đạt, còn những người làm ác mà gia đình
thịnh vượng, thế Phật nói nhân quả chẳng có bằng cớ gì xác đáng?
Hòa thượng Trung Phong trả lời: Vì phàm tình chưa sạch, chánh
nhãn chưa bày, người đời thường nhận lầm thiện ra ác, ác ra
thiện, ít ai biết tự trách điều thị phi điên đảo của mình. Mấy
Nho sinh nói: Thiện là thiện, ác là ác, làm sao tương phản được?
Hòa thượng bảo họ chỉ cho xem ít việc. Một người nói: đánh mắng
người là ác, kính trọng người là thiện. Hòa thượng nói: không
hẳn như thế. Một người khác nói tiếp: Tham tài vọng phú là ác,
liêm khiết thủ thường là thiện. Hòa thượng vẫn nói: Không hẳn
như thế. Mấy Nho sinh lần nữa nói đủ tướng trạng thiện ác. Hòa
thượng vẫn một mực: Không hẳn thế. Nhân đó mấy Nho sinh cầu ngài
chỉ dạy. Ngài dạy: giúp ích người gọi là thiện, chỉ vì ích mình
gọi là ác. Vì giúp ích người cho nên dù có đánh mắng cũng vẫn là
thiện, trái lại chỉ vì ích mình nên dù có kính trọng người cũng
vẫn là ác (1). Vì vậy người làm thiện đem lại ích lợi cho người
là công, mà công tức là chân, còn vì lợi mình ấy là tư, mà tư
tức là giả. Lại việc thiện tự lòng phát ra là chân, tập theo
thói cũ là giả, không trước tướng mà làm chân, trước tướng mà
làm giả...
-
Việc lành có thẳng có
cong là thế nào? Thế thường thấy kẻ mềm mỏng lừ đừ không khí
khái quật cường, ai cũng hoan hỉ cho là người lành, nhưng Thánh
nhân lại ưa hạng người có chí khí cao xa, hoặc an phận thủ kỹ,
vì hạng này dễ khai hóa, còn hạng trên tuy được mọi người khen
tặng, xét kỹ họ chỉ là giặc của nền đạo đức tiến bộ. Thiện ác
của người đời tương phản với thiện ác của Thánh nhân như thế, đủ
thấy những điều thiện ác thủ xả theo chỗ nhận xét của thế thường
làm sao không bị sai lạc! Vậy nên người nào muốn tích tập thiện
căn, quyết không thể bằng vào các điều thiện ác bề ngoài mắt
thấy tai nghe, nhưng cốt ở chỗ ẩn nhiệm của tâm tư, lo vun bồi
gột rửa. Nếu quả thật thuần có lòng cứu người giúp đời ấy là
thẳng, còn hễ xen vào mảy may mị thế là cong, thuần một lòng yên
người là thẳng, hễ xen chút ghét giận là cong, thuần một lòng
kính người là thẳng, còn xen vào ý nghĩ cốt làm đẹp lòng người
là cong....
-
Việc lành có Âm có
Dương là thế nào? Phàm làm việc lành mà người ngoài biết được là
dương thiện, làm việc lành mà người ngoài không biết được là âm
đức. Âm đức được phúc báo, dương thiện hưởng danh thơm. Nhưng
danh thơm thường khi là điều đáng húy kì
xưa nay biết bao nhiêu người vì háo danh thành thử bị danh làm
hại, lâm vào cảnh tai họa, ngược lại những người không tội lỗi
mà cứ bị thiên hạ chê oan, thì lắm lúc con cháu họ được phát
đạt. Cái lẽ âm dương như thế, phải để tâm nhiều mới hiểu hết.
-
Việc làm có thị có
phi là thế nào? Nước Lỗ có lệ hễ người nào bỏ tiền chuộc người
nước Lỗ khỏi tay các chư hầu địch thì được lãnh lại số tiền tại
quan phủ. Tử Cống giàu có, bỏ tiền ra chuộc được nhiều người
song không chịu lãnh lại số tiền vì ông thầm nghĩ mình chỉ làm
việc nghĩa mà thôi. Đức Khổng Tử nghe được chê Tử Cống là sai,
vì đại phàm bậc Thánh nhân làm gì cũng cốt hy vọng cải tiến thói
đời thế tục, giúp cho ai nấy làm theo, chớ không phải cốt để
thỏa chí riêng mình. Hiện nay trong nước Lỗ người giàu ít, người
nghèo đông, nếu cho rằng kẻ nào chuộc người rồi còn trở lại lãnh
tiền ở quan phủ là không liêm chính, thì chắc từ này không còn
mấy ai dám nghĩ tới việc chuộc người khỏi tay địch nữa! Thầy Tử
Lộ vớt người bị đắm, được người ta tạ ơn một con trâu. Đức Khổng
Tử nghe được mừng rằng: Từ này nước Lỗ sẽ có nhiều người để ý
vớt kẻ chết chìm.
-
Cứ lấy mắt thường
tình mà xem, việc Tử Cống không nhận tiền bồi thường là cao quí,
Tử Lộ nhận trâu là thấp hèn, nhưng Đức Khổng Tử lại khen Tử Lộ
mà chê Tử Cống. Cho biết khi làm lành không nên kể sự trạng
trước mắt mà nên kể ảnh hưởng lan truyền sâu xa, không nên kể
một thời mà nên kể đến lâu dài, không nên kể một thân mình mà
nên kể cả thiên hạ. Những việc đang làm tuy là thiện nhưng nếu
lưu tệ tại người thì đó là tợ thiện chớ không phải chơn thiện,
những việc đang làm tuy như bất thiện mà lưu ích giúp người thì
nó in tuồng phi thiện mà thật ra là thiện. Cứ thế suy rộng ra
những điều nghĩa phi nghĩa, lễ phi lễ, tín phi tín, từ phi từ,
đều không ngoài cách thức đó.
-
Việc lành có thiên có
chánh thế nào? Xưa ông Lã Công là người đức độ, cả nước đều kính
ngưởng ông như Thái Sơn Bắc Đẩu, sau khi từ chức Tể tướng về ở
quê nhà, một hôm có người say rượu đến mắng ông dữ dội, ông vẫn
thản nhiên và bảo người nhà đóng cửa lại, không nên cạnh tranh
với kẻ say. Năm sau người ấy vì say phạm tội sát nhân bị bắt bỏ
ngục. Lã Công biết được ân hận lắm: Cơ chi năm trước nó đến mắng
ta, ta cho nó vài hèo rồi bắt tống giam quách để trị, chắc nó
được tránh khỏi mối đại họa hôm nay. Nhưng lúc đó chỉ nghĩ việc
bảo tồn tâm nhân hậu, không ngờ đó là cách dưỡng ác cho nó, nên
nỗi ngày nay nó mới ra người phạm trọng tội (1). Đây là một việc
chứng tỏ trong tâm lành mà hành sự ra ngoài ác. Lại có khi đem
tâm ác mà hành sự ra ngoài lành, như có nhà nọ rất giàu, gặp năm
đói khó, đem lúa ra chợ bán, bị dân nghèo cướp ngay giữa chợ,
nhà nọ cáo quan, quan bỏ qua không xử, dân nghèo được thế làm
già, nhà ấy rình bắt ít tên làm khổ nhục, bấy giờ cả bọn mới
chịu yên, nếu không thì đã loạn cả chợ. Cho hay thiện là chánh
mà ác là thiện, điều ấy ai cũng biết, nhưng ít người để ý tới có
khi tâm lành mà hành sự lại ác, thì việc lành đó là thiên trong
chánh chớ không phải chánh trong chánh, có khi tâm ác mà hành sự
lại lành, thì việc lành đó lại là chánh trong thiên chớ không
phải thiên trong thiên.
-
Việc lành có nửa, có
toàn là thế nào? Kinh Dịch có câu: không chứa lành không đủ để
nên danh, không chứa ác không đủ để diệt thân. Kinh Thi nói: Tội
nhà Thương như xâu tiền đầy. Chứa lành chứa ác như chứa vật vào
kho, hễ siêng chứa thì đầy, nhát chứa thì lưng, sư đã quá rõ
ràng vậy. Xưa có người đàn bà vào Chùa, muốn cúng mà nghèo, chỉ
được có hai tiền đem cúng, vị Trú trì thân hành làm lễ kỳ
nguyện, sau bà ấy được đưa vào chỗ sang giàu, lại đem vài ngàn
lượng vàng vào chùa cúng, lần này vị trú trì sai đồ chúng làm
lễ. Bà ta lấy làm ngạc nhiên hỏi: Ngày trước tôi chỉ cúng có hai
tiền mà ngài thân hành lễ sám, nay tôi cúng tới đôi ngàn lượng
vàng sao ngài lại không thân hành lễ sám cho tôi? Vị trú trì
đáp: ngày trước vật tuy đạm bạc mà lòng rất chân thành, phi lão
Tăng lễ sám không đủ để báo đức bà, nay vật tuy hậu song tâm
cúng dường không thiết tha bằng trước, nên người thay lão Tăng
làm lễ cũng đủ rồi. Ấy, ngàn vàng là nửa là lưng, mà hai tiền là
toàn là đầy vậy.
-
Lại, Tiên Chung Ly
khi trao dạy phép luyện đơn cho Lã Tổ có dặn rằng: Khi đơn luyện
thành có thể đem chấm trên tiền thì tiền biến ra vàng, giúp cho
người nghèo khổ tiêu dùng được. Lã Tổ hỏi: cuối cùng nó có biến
mất không? Chung Ly đáp: Sau năm trăm năm nó biến lại tiền như
cũ. Lã Tổ nói: như thế thì hại cho người ở đời sau khoảng năm
trăm năm, tôi thề không làm điều đó. Chung Ly khen: Pháp tu tiên
cần phải chứa đủ ba ngàn công hạnh, nay ngươi nói được câu đó
thì ba ngàn công hạnh ngươi đã đủ rồi. Đây lại một cách xét việc
lành đầy, lưng, nửa, toàn vậy.
-
Lại làm lành mà tâm
không chấp trước thì mỗi việc đều được viên mãn, trái lại tuy
làm suốt đời mà việc lành cũng chỉ có được một nửa. Ví như đem
của giúp người mà trong không thấy mình giúp, ngoài không thấy
người nhận, trung gian không thấy vật đem giúp thì được gọi là
bố thí tam luân không tịch hay nhất tâm thanh tịnh. Bố thí như
vậy, dù một Lon gạo cũng có thể gây vô lượng phước, một đồng bạc
có thể tiêu ngàn kiếp tội. Nhược bằng tâm khư khư chấp trước,
thời tuy bố thì từng thoi vàng, phước đức cũng chỉ có được một
nửa. Đây lại một cách xét việc lành đầy, lưng, nửa, toàn vậy.
-
Việc lành có lớn có
nhỏ là thế nào? Xưa có ông Vệ Trọng Đạt làm quan Hàng Lâm, nhân
một hôm mộng thấy Minh Quan bắt về âm phủ, Phủ quan sai lại dịch
đem trình hai bản ghi thiện ác, thấy bản ghi ác chất một đống
to, còn bản ghi thiện chỉ bằng chiếc đũa, nhưng đem cân thì một
đống to lại nhẹ, mà bằng chiếc đũa lại nặng. Trọng Đạt ngạc
nhiên nói: Tôi chưa đầy 40 tuổi, có đâu đã làm nhiều ác đến thế.
Minh Quan đáp: một niệm bất chính là ác rồi, không đợi phải hành
phạm. Trọng Đạt bèn chỉ cuốn giấy và hỏi: Trong cuốn giấy bằng
chiếc đũa kia ghi gì? Minh Quan đáp: Triều đình hưng đại công
làm cái cầu đá ở Tam Sơn, người đã dám thượng sớ can ngăn việc
ấy. Cuốn giấy này là bản sớ của ngươi. Trọng Đạt nói: Tôi tuy có
sớ can nhưng triều đình bác bỏ, chẳng bổ ích gì thực sự, làm sao
nó có hiệu lực thế kia? Minh Quan nói: triều đình không cứ mặc
dù, song một niệm lành của ngươi đã làm cho muôn dân cảm mến,
giả sử triều đình khi ấy chấp cứ, thời việc tốt của ngươi càng
lớn lao hơn nữa. Cho hay hễ chí để vào thiên hạ quốc gia thời
việc lành tuy nhỏ mà lớn, nếu chí để vào bản thân thời việc lành
tuy nhiều vẫn ít, (việc ác cũng thế).
-
Việc lành có khó có
dễ là thế nào? Tiên Nho thường nói: muốn khắc kỷ phải bắt đầu
khó. Đức Khổng Tử khi luận cập điều nhân cũng nói trước phải khó
khăn, nghĩa là phải trừ khử tư tâm. Chẳng hạn như ở Giang Tây có
Thư Lão Ông làm nghề dạy học, nhân gặp một người nghèo thiếu
tiền quan, vợ người ấy sắp bị quan bắt làm tôi tớ, Thư Lão Ông
liền bỏ số tiền nhập học của học trò mà ông đã dồn được trong
hai năm ra chuộc, nhờ đó vợ chồng người kia khỏi bị ly tán.
Trương Lão Ông ở tỉnh Trực Lệ, nhân gặp một người bị nợ khốn,
phải đem cầm vợ con. Lão Ông liền bỏ số tiền mình dồn được trong
10 năm ra chuộc, nhờ đó vợ con người kia được an toàn. Bỏ tiền
cứu người như hai trường hợp trên thật là hiếm có, ít ai làm
nổi. Những kẻ có tiền tài thế lực, họ làm công đức rất dễ, nhưng
dễ mà không chịu làm ấy là người tự bao tự hãm, những kẻ nghèo
hèn làm được phước rất khó, khó mà gắng làm ấy mới đáng quý.
-
Tuy những cơ hội giúp
người thì vô kể, song ước tóm đại cương thì mười điều này khả dĩ
gọi là lớn: 1. Chung với người làm lành; 2. Giữ tâm ái kính; 3.
Giúp người nên tốt; 4. Khuyên người làm lành; 5. Cứu người nguy
cấp; 6. Gây dựng lợi lớn; 7. Bỏ của làm phước; 8. Hộ trì Chánh
pháp; 9. Kính trọng tôn trưởng; 10. Yêu tiếc sinh vật.
-
Chung người làm lành
là thế nào? Ông Thuấn khi chưa làm vua, nhà ở bên đầm Lôi Trạch,
nhân thấy những kẻ chài cá trai tráng thì đành chài ở chỗ đầm
sâu, nước tụ nhiều cá, còn người già yếu phải chài ở chỗ nước
cạn nước chảy phóng cá, ông Thuấn động lòng thương mới cùng họ
đi chài. Hễ thấy người nào có tánh tranh giành, ông làm thinh
không nói, còn thấy kẻ nào biết tương nhượng thì ông tán dương
và bắt chước. Ông làm như thế suốt một năm, sau đó ai nấy đều
noi gương ông mà tương nhượng nhau để ai cũng được chài ở chỗ
đầm sâu nước tụ. Ôi! Ông Thuấn là bậc minh triết, há lại không
đủ lời để dạy kẻ khác sao, thế nhưng ông đã không dạy bằng lời
mà lại đem thân ra làm để chuyển hóa. Thật là một cử chỉ cao
thượng khó khăn vậy. Xem thế, bọn ta ở đời mạt thế cũng chớ nên
ý chỗ mình hay mà lấn lướt người, ỷ điều mình tốt mà làm khó dễ
người, ỷ mình tài năng mà khốn ức người, hãy nên thâu liễm tài
trí, làm như vụng về, thấy tội lỗi người thì bao dung che dấu,
một mặt khiến họ cải đổi, một mặt họ húy k không dám làm càn.
Hoặc thấy ai có điều gì hay, điều gì tốt dù nhỏ dù lớn hãy nên
hạ mình bắt chước và tán dương phổ biến. Hằng ngày nói lời gì,
làm việc gì chớ nên vị kỷ mà cốt để hay để khéo cho thiên hạ.
Được vậy tức là người có độ lượng, công bằng, lây thiên hạ làm
mình như vị đại nhân vậy.
-
Sao gọi là giữ lòng
ái kính? Cứ xem bề ngoài thì khó biết ai là quân tử, ai là tiểu
nhân, nhưng nếu xét thấu tâm can thì thiện ác đôi đàng cách
tuyệt như đen trắng, thế nên xưa nay thường nói, quân tử sở dĩ
khác người là do chỗ tồn tâm. Cái tâm mà người quân tử bảo tồn
là cái tâm yêu người kính người, vì người quân tử thường nghĩ
rằng dù ở đời có thân, sơ, quý, tiện, có kẻ trí người ngu, người
bất tiếu, vạn vật có sai thù mặc lòng, xét kỹ đều là đồng bào,
cùng ta nhất thể, làm sao ta không kính yêu họ được. Hễ ái kính
mọi người tức là ái kính Hiền Thánh, cảm thông ý chí mọi người
tức như cảm thông ý chí Hiền Thánh. Sao vậy? Vì ý chí Thánh Hiền
không ngoài muốn cho đời cũng như người đều đạt sở nguyện thân
lẫn mạng, nꮠnếu ta hợp với ý chí Thánh Hiền mà an định cho mọi
người tức là ta đã làm việc thay thế Thánh Hiền vậy.
-
Sao gọi là giúp người
nên tốt? Ngọc ở trong đá, nếu không biết mà vất đi thì thành
ngói gạch, biết mà dũa mài thì thành khuê chương, vậy hễ thấy ai
làm được việc lành, có chí tiến thủ, hãy giúp đỡ khuyên dụ họ
mau thành tựu, cố gắng tán trợ duy trì, giải bày hơn thiệt, loại
bỏ sàm láng ký thế nào cho họ nên người tốt đẹp mới thôi. Thế
thường người ta hay ghét kẻ khác không giống mình, người ác
không ưa người lành, thế mà người ác bao giờ cũng nhiều hơn
người lành, nên người lành sống nổi giữa người ác là một điều
rất khó. Vả người lành là người hào kiệt thường có ý chí cương
trực, không ưa trau chuốt bề ngoài, trong khi đó người đời ít kẻ
có kiến thức cao, nên những bậc hào kiệt lắm lúc lại dễ bị chê
bai. Vì thế việc lành thường dễ hỏng, người lành thường bị chê,
chỉ trừ người có lòng nhân, mắt trí mới dám thẳng thắn khuôn phi
người có thiện tâm thiện chí, nên hạng người này cũng được công
đức không ít.
-
Sao gọi là khuyên
người làm lành? Đã sinh làm người ai chẳng có lương tâm, nhưng
vì đường danh nẻo lợi ở đời dễ làm cho vùi lấp, vậy khi cư xử
cùng nhau hay tìm cách mở lời mê hoặc, khiến được giác tĩnh giữa
chốn đêm trường, làm cho thanh lương trong vòng phiền não. Ông
Hàng Dũ nói: dùng lời thì khuyên người được một đời, làm sách
thì khuyên người được trăm đời. Việc khuyên người làm lành ở đây
đem so với việc cùng người làm lành ở trên có phần sút kém, song
theo bệnh cho thuốc, theo thời khuyên răn vẫn thâu được hiệu quả
rất nhiều. Nếu khuyên người mà người không theo, hãy kiểm xét
lại trí tuệ và lời lẽ của mình để lo bồi bổ.
-
Thế nào là cứu người
nguy cấp? Người đời ai chẳng trải qua những lúc hoạn nạn ngã
nghiêng. Vậy khi gặp ai lâm cảnh ách nạn hãy xem như chính mình
lâm nạn mà lo vội vã cứu trừ, hoặc lấy lời biện bạch an ủi, hoặc
dùng phương chước khôn ngoan giải trừ. Thôi Tiên sinh có câu: Ân
huệ không cần phải đợi lớn lao mới làm, chỉ cần cứu kịp người
lúc cấp nạn là quý. Đó thật là lời của kẻ có lòng nhân vậy.
-
Thế nào là gây dựng
lợi lớn? Nhỏ thời trong một làng, lớn thời trong một ấp, một
nước, hễ thấy việc có lợi thì lo hưng công, như khai rạch đào
mương, hoặc đắp đê điều phòng vệ, hoặc xây cầu cống tiện cho
khách bộ hành, hoặc thí nước cơm giúp kẻ đói khát. Cứ tùy duyên
khuyến hóa, hiệp lực hưng tu, chớ nệ hiềm nghi, chớ từ nhọc mệt.
-
Thế nào là bỏ của làm
phước? Trong muôn hạnh của Phật day, hạnh bố thí đứng đầu. Bố
thí là xả bỏ, đem cho. Kẻ đạt ngộ thì trong xả sáu căn, ngoài xả
sáu trần, bất cứ điều gì cũng đều xả được, còn kẻ chưa đạt ngộ
trước hãy tập xả thí tài vật. Người đời ai cũng lấy cơm áo nuôi
sống, nên tiền tài cơm áo là điều tối trọng. Ai xả được tiền tài
cơm áo thì bên trong sẽ phá được lòng xan lẫn, bên ngoài cứu
được kẻ lâm nguy. Lúc đầu tuy làm miễn cưỡng, nhưng lúc sau
thành thói tự nhiên, và kết quả sẽ dũ sạch tính vị kỷ, phát hết
tâm chấp lẫn keo rít sâu dày.
-
Thế nào là hộ trí
Chánh pháp? Pháp là con mắt của muôn loại hàm linh. Pháp có
chánh có tà, thiếu chánh pháp không thể nào tiến hóa cùng trời
đất, dinh dưỡng thành muôn loài, thoát lý ngoài triền phược, và
an bài thế gian, đạt tới xuất thế. Thế nên thấy chùa miếu kinh
sách Thánh Hiền, hãy đem lòng kính trọng tô bồi, và trên hết là
phát tâm hoằng dương chánh pháp, báo bổ Phật ân, là điều càng
nên cố gắng.
-
Thế nào là kính trọng
Tông trưởng? Ngoài Ông, Bà, Cha, Mẹ, Anh, Chị, phàm gặp người
tuổi nhiều, đức lớn, vị cao, kiến thức rộng đều nên để ý kính
nhường. Ở nhà thì thờ cha kính mẹ với niềm thân ái nhu hòa, ra
ngoài thì bất luận làm việc gì, chớ nghĩ không ai biết mà làm
càn, khi đối xử người nào, chớ nghĩ chẳng ai hay mà uy hiếp. Ai
để ý một chút, tất thấy xưa nay những kẻ trung hiếu, bao giờ con
cháu họ cũng được xương hưng, thành người trung hiếu.
-
Thế nào là yêu tiếc
sinh mạng? Người sở dĩ là người chỉ bởi có tâm trắc ẩn. Người
cầu nhân chính là cầu cái tâm đó, người chưa đức cũng chính là
chứa cái tâm đó. Sách Châu Lễ có câu: Tháng giêng tế lễ không
dùng con nái làm vật hy sinh (con nái là con vật mẹ đang nuôi
con). Thầy Mạnh Tử nói: Người quân tử xa chốn bếp núc, sở dĩ để
bảo toàn tâm trắc ẩn. Vì thế các bậc Tiên Hiền thường kiêng kốn
thứ thịt không ăn: nghe tiếng kêu con vật bị giết không ăn, thấy
con vật bị giết không ăn, vật mình nuôi dưỡng không lớn không
ăn, vật chỉ vì mình mà bị giết thịt không ăn. Kẻ thức giả hiền
nhân ngày nay nếu chưa thể đoạn tuyệt nghiệp ăn thịt, hãy gắng
tập theo các điều này. Cứ như thế lần tăng trưởng từ tâm, chẳng
những việc sát sanh nên kiêng k#273;ã
đành, đến việc nấu tằm lấy tơ, bới đất sát trùng cũng toàn là
việc vì cơm áo nuôi mình mà giết lây loài vật. Cho đến để ý đề
phòng khi dơ tay cất chân để khỏi giết lầm vô số động vật. Cổ
Thi có câu: thương chuột thường để cơm, thương nga chẳng thắp
đèn (Ái thử thường lưu phạn, lân nga bất điểm đăng). Đó há không
phải những cử chỉ biểu lộ lòng nhân ư.
-
Việc lành có vô cùng
tận không thể kể hết, nhưng do mười việc trên đây suy rộng ra,
muôn đức đều bao quát trong đó.
- * * *
-
4. Đức Khiêm Hư
-
Kinh Dịch có câu:
Thiên đạo thường làm khuy tổn chỗ dinh kiêu mà ích bồi nơi khiêm
hư, địa đạo làm biến cải chỗ dinh kiêu mà lưu nhận nơi khiêm hư,
quỷ thần thường làm hại trừ chỗ dinh kiêu mà tăng phúc nơi kiêm
hư, nhân đạo thường chán ghét chỗ dinh kiêu mà ưa chinh nơi
khiêm hư. Thế nên trong một quẻ Khiêm mà sáu hào đều tốt. Kinh
Thư nói: người tự kiêu tự mãn thường bị nạn, kẻ khiêm nhượng hư
tâm thường đắc ích. Tôi từng cùng bạn bè nghiệm thử, thường thấy
kẻ hàn sĩ khi sắp hiển đạt, bao giờ cũng có một lúc đức khiêm
tốn hiện trên nét mặt.
-
Khoa thi năm Tân mùi,
tôi cùng mười người bạn ở huyện Gia Thiện đi thi, trong đó có
anh Đinh Kính Vũ, người tuy trẻ mà rất có tính khiêm nhượng hư
tâm. Tôi nói với anh Phí Cẩm Pha, thế nào khoa này anh Đinh Kính
Vũ cũng đỗ. Anh Phí gạn lại: làm sao biết? Tôi đáp: chỉ người có
đức khiêm hư mới được phước. Anh thử xem trong bọn mười người
chúng ta có ai có tính khiêm nhượng bằng anh Đinh Kính Vũ đâu?
Có ai bị chơi chọc mà không đối trả, bị chê bai mà không biện
bạch như anh Đinh Kính Vũ đâu? Người có đức nết như thế, thế nào
cũng được trời đất hộ độ, làm sao không phát được. Quả nhiên lúc
treo bảng thấy có tên anh Đinh đậu cao!
-
Năm Đinh sửu tôi ở
chung với anh Bằng Dữ Chi tại Kinh đô, bỗng thây anh có phong độ
khiêm tốn hư tâm khác hẳn tính tình hồi nhỏ. Bạn anh ta, ông Lý
Tế Nham, là người cương trực mà thành thực, thưởng thẳng thắn
chỉ lỗi anh ngay mặt, nhưng lúc nào cũng thấy anh bình tĩnh nghe
theo chẳng hề thốt một lời cãi cọ. thấy vậy tôi nói thầm phước
có phước hiện ra sau họa có họa phát ra trước, anh này quả có hư
tâm khiêm tốn như thế, anh chắc chắn gặp được điều hay, thế nào
anh ta cũng đậu kỳ này. Sau quả thật đúng như lời tôi dự đoán.
-
Ông Trương Úy Nham
người huyện Giang Âm, học rộng văn hay, có nhiều tiếng tăm trong
vãn giới. Năm Giáp ngọ ông đến thi Hương tại Nam Kinh, nhân ở
lại một ngôi chùa. Khi treo bảng thấy không có tên mình, mới nổi
nóng mắng nhiếc giám khảo là đồ lòa mắt chẳng trông thấy văn
mình. Một vị Đạo nhân gần bên nghe thấy mỉm cười, Trương giận
luôn vị Đạo nhân.
-
Vị Đạo nhân nói: Văn
của tướng công chắc không hay lắm.
-
Trương càng giận, nộ
rằng: Ông không thấy văn tôi, sao biết văn tôi không hay.
-
Vị Đạo nhân nói: Tôi
từng nghe kẻ làm văn quý hồ tâm khí bình hòa, nay thấy tướng
công nóng giận mắng nhiếc lung tung, không có chút chí hòa khí
thì văn hay vào đâu được.
-
Trương bỗng đổi giận,
tỏ lòng kính phục và xin chỉ giáo.
-
Đạo nhân nói: thi
hỏng hay đậu là do mạng. Mạng không đậu thì dù văn hay cũng vô
ích, vậy ông cần để ý chuyển biến mạng mình.
-
Trương nói: đã là
mạng thì làm sao chuyển biến được?
-
Đạo nhân nói: tạo
mạng do nghiệp xưa, lập mạng do nghiệp nay, nếu ông gắng làm
việc thiện, dồn chứa âm đức, thì có phước gì mà không cầu được.
-
Trương nói: Tôi chỉ
là một tên bần sĩ, làm sao làm được sự này.
-
Đạo nhân nói: việc
lành, âm đức đều do tâm tạo, thường bảo tồn tâm đó thời công đức
vô lượng. Ngay như đức tính khiêm hư đâu phải mất tiền mới làm
được, thế mà ông không biết tự tỉnh để mà làm, lại giận trách
quan trường dốt nát, phải chăng đó chỉ là tự ông không muốn làm
chớ không phải không thể làm?
-
Từ đó Trương để ý
kiềm chế kiêu khí, ngày ngày tu nhân bồi đức. Năm Đinh dậu,
Trương mộng thấy đi đến một căn phòng cao lớn, gặp được một bảng
ký lục chuyện thi, thấy ở giữa có nhiều hàng bỏ trống không tên.
Một người đứng bên nói: đây là bảng ghi chép khoa thi năm nay.
Trương hỏi: sao bỏ trống nhiều chỗ không tên? Người ấy đáp: về
việc thi cử cứ ba năm xét một lần, hễ người nào chứa nhiều công
đức, thì mới có tên vào đó. Chỗ bỏ trống trong bảng ký lục này
là tại trước kia người có công đức đáng đậu, sau vi phạm tội ác
mà tên bị xóa đi. Cuối cùng lại thấy một dòng chữ rằng: người ba
năm lại đây giữ thân cẩn thận, tên ngươi có thể được điền vào
bảng này, hy vọng ngươi cố gắng. Quả nhiên khoa ấy, Trương được
đậu thứ 105 trên bảng vàng.
-
Lời xưa nói: Người có
chí ở công danh tất được công danh, người có chí ở giàu sang tất
được giàu sang. Người có chí như cây có gốc. Khi đã lập chí phải
thường nên tập tính khiêm hư, dè chừng mọi điều hành động, được
như thế tự nhiên cảm động đất trời mà phúc đức đầy đủ nơi ta
vậy.
-
|
|