|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Dẫn Vào Kinh Lăng Nghiêm
-
Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
-
--o0o--
-
-
Trước khi giảng kinh Lăng Nghiêm, tôi xin sơ lược về
sự liên hệ của Kinh với Tam tạng, với sự phán giáo và với cách
lập tông. Đây là cách mà các vị cao tăng ở Trung hoa giảng kinh
thường hay phân tích, phân biệt giáo nghĩa trong mỗi bộ kinh
thuộc về tạng nào, giáo trình nào và cách lập tông như thế nào.
Bởi ngoài 5 bộ Nikàya, A Hàm còn rất nhiều kinh khác, mà nghĩa
của nó trùng trùng điệp điệp làm cho ta khó hiểu, nên các Ngài
mới phân tích giáo nghĩa trong các kinh đó, tức là hệ thống nó
thành từng hệ. Sự phân chia giáo lý ra thành từng hệ mới nhìn
tưởng như có sự tách biệt, nhưng nghiên cứu kỹ nó không tách
biệt hẳn, tuy vậy nó cũng có một đường ranh giới nhất định nào
đó giữa giáo lý này với giáo ý khác.
-
Ví dụ
trước đây ta nói Ngũ thừa giáo là thuần chỉ về Nhân thừa, Thiên
thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ tát thừa. Nhưng khi
đọc kinh Đức Phật dạy thì chúng ta thấy không có sự phân chia
tách biệt như vậy, tuy nhiên các Ngài phán giáo thì thấy có giáo
lý Nhân thừa khác, Thiên thừa khác, Thanh văn thừa khác, Duyên
giác thừa khác, và Bồ tát thừa khác nhau. Từ đó các Ngài mới
phân định ranh giới về từng thừa. Ví dụ như nói về Nhân thừa thì
chủ yếu của nó là cái gì, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác
và Bồ tát thừa chủ yếu là giáo lý gì? Lẽ tất nhiên đây là nói
giáo lý chủ yếu chứ không phải nói giáo lý hỗ trợ, bởi vì trong
giáo lý cũng như trong pháp môn tu thường có chánh pháp và pháp
trợ.
-
Ví dụ
như Lục độ, là nói về cách tu 6 độ mà trong đó lấy một độ chính
còn các độ khác là phụ. Tu bố thí độ thì bố thí là chính còn các
độ khác hỗ trợ cho bố thí độ. Tu Bát Nhã độ thì lấy Bát nhã làm
chính còn các độ khác hỗ trợ cho Bát nhã, chứ không tu riêng một
Bát nhã độ mà thành tựu được. Trong giáo lý của đức Phật cũng
vậy, lời đức Phật dạy là xuyên suốt cốt đưa chúng sinh đến giác
ngộ nhưng áp dụng thực tế nó tùy thuộc theo căn cơ khác nhau của
chúng sinh, vì thế giáo lý cũng tùy căn cơ khác nhau để áp dụng.
Nói cách khác chia theo Ngũ thừa giáo là một cách chia một cách
phán. Tựu trung các Ngài có nhiều cách phán giáo tùy theo cách
nhìn nhận giáo lý của riêng từng Ngài .
-
Vậy
trước khi đi vào kinh, tôi muốn nói sự liên hệ giữa Kinh Lăng
Nghiêm với Tam tạng giáo. Tam tạng là Kinh tạng, Luật tạng và
Luận tạng. Kinh tạng nói về Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Vô
thường, Vô ngã, Tịch tịnh, Niết bàn, Tam pháp ấn v.v... Như vậy
tức khi nói về Kinh tạng là nói về tính tướng của sự vật hay là
nói về giáo lý chân đế tục đế. Luật tạng là kho tàng chứa những
điều răn cấm, những điều giới luật, tức là những điều thực hành,
cốt giữ gìn thân khẩu ý cho thanh tịnh đó là Luật tạng. Còn Luận
tạng là kho tàng chất chứa những bộ luận, mà các bộ luận đó nhắm
tới giải thích Kinh và giải thích Luật. Ví dụ như Thiện Kiến
luận là giải thích Luật chứ không phải Kinh. Ngoài ra cũng có
nhiều bộ luận khác chỉ giải thích kinh, giảng giải kinh nên nó
thuộc Luận tạng, vì nó có lý luận. Trong kinh tạng cũng có khi
Phật có lý luận nhưng rất đơn sơ, phần nhiều Ngài chỉ nói xuôi
như vậy thôi, tính cách của Kinh là như vậy .
-
Vậy
Kinh Lăng Nghiêm này đối với Tam tạng đó thuộc Tạng nào? Tất
nhiên là Kinh tạng chứ không thuộc Luận tạng hay Luật tạng được.
Nhưng thật ra trong kinh Lăng Nghiêm cũng có đoạn nói về 4 Ba la
di, như vậy kinh Lăng Nghiêm cũng dính đến Luật tạng. Trong đoạn
đề cập 7 chỗ gạn tâm, 10 phen chỉ bày tính thấy, trong đó Phật
diễn giải có tính cách đối đáp, lý luận giữa Phật và A Nan nên
nó cũng có dính đến Luận tạng. Tóm lại Lăng Nghiêm thuộc Kinh
tạng đồng thời cũng dính Luật tạng và Luận tạng .
-
Bây giờ
nói về phán giáo. Phán giáo là thế nào? Khi xưa các Cao tăng Aán
Độ không có phán giáo mà chỉ có các vị ở Trung hoa nhìn giáo lý
Phật theo tầm hiểu biết của mình mà phán giáo lý Phật ra mấy
loại nào nên gọi là phán giáo, tức là phán định giáo pháp một
đời thuyết pháp của đức Phật gồm có những phần gì. Cách phán
giáo này có nhiều vị phán .
-
Đầu
tiên là Ngài Bồ đề lưu chi phán rằng: "Một đời giáo pháp của
Phật là "nhất âm giáo", giáo lý của Phật chỉ từ một viên âm của
Phật thuyết ra, chứ không có giáo lý này giáo lý khác. Nhưng vì
căn cơ của chúng sinh nghe và hiểu khác nhau thành ra giáo lý
khác nhau". Đó là sự phán giáo của Ngài Bồ đề lưu chi gọi là
nhất âm giáo. Y ٠của ngài Bồ đề lưu chi là căn cứ nơi câu kinh
Duy ma cật "Phật dĩ nhất âm diễn thuyết pháp, chúng sinh tùy
loại các đắc giải".
-
Như
trong kinh Pháp Hoa nói giáo lý của Phật là thậm thâm vi diệu,
là bất khả ngôn thuyết. Nhưng bất khả ngôn thuyết thì làm sao mà
cứu độ chúng sinh, nên Phật tùy nghi phương tiện "chủng chủng
ngôn từ, chủng chủng nhân duyên để thuyết pháp". Vậy trong khi
đức Phật tùy nghi phương tiện thì đó là theo căn cơ của chúng
sinh thành ra thuyết như thế này hay thế khác, chứ thật ra Phật
muốn đem "Nhất thừa giáo thuyết" mà thôi .
-
Thứ hai
là ngài Huệ Viễn lập luận rằng: trong đời thuyết giáo của đức
Phật có hai:"một là đốn giáo và hai là tiệm giáo", đốn giáo
chính là kinh Hoa Nghiêm. Đức Phật nói lý trùng trùng duyên
khởi, nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất. Đó là đốn giáo.
Ngay nơi chữ "tức" chúng ta thấy đốn giáo rồi chứ không có từ
từ, "văn tức ngộ", nghe tức ngộ liền. Phiền não tức Bồ đề, sanh
tử tức Niết bàn, chính chữ "tức" là có nghĩa đốn rồi. Nhưng
chúng sanh không đủ căn cơ nghe đốn giáo nên Ngài mới nói tiệm,
ví dụ người lãng tai Ngài nói chậm rãi từ từ, ai không lãng tai
Ngài nói nhanh hơn, tùy theo căn cơ của chúng sanh mà có tiệm,
có đốn. Nên Ngài nói giáo pháp của Phật có 2 phần: 1.Đốn giáo,
2.Tiệm giáo .
-
Thứ ba
là ngài Vô Sấm, lập ra hai giáo là "mãn tự giáo" và "bán tự
giáo". "Bán tự " là giáo lý ngài nói mới có nửa chữ, chưa nói
trọn chữ nên gọi là bán tự giáo, còn "mãn tự giáo" là giáo lý
của ngài đã nói trọn cả chữ, cả câu. Vậy thì "bán tự giáo" là
giáo lý gì? Là giáo lý phá trừ nhân ngã, là giáo lý nói về nhân
không, như vậy là chưa trọn, phải nói nhân không, pháp không hay
là sinh không, pháp không thì mới trọn tất cả là không. Nói rằng
ngũ uẩn vô ngã chứ chưa nói chính ngũ uẩn là vô ngã, là không,
cho nên nói nhân không là mới nửa chữ, phải nói pháp không mới
gọi là trọn chữ "mãn tự giáo" . Như vậy phân chia giáo lý đoạn
trừ kiến tư hoặc thì chưa đủ nên gọi là "bán tự giáo", đến khi
nói pháp không mới phá trừ được trần sa hoặc, vô minh hoặc rốt
ráo, phá trừ tất cả 3 hoặc, bấy giờ mới diệt sạch vô minh chứng.
Vô thượng Bồ đề, thì giáo lý này gọi là "mãn tự giáo", là giáo
lý trọn cả chữ. Đó là phán giáo của ngài Đàm Vô Sấm .
-
Thứ tư
là Tín Hạnh Pháp sư cũng lập ra hai giáo:"Tam thừa giáo" như
trên và "Nhất thừa giáo" như kinh Pháp Hoa .
-
Thứ năm
là ngài Huyền Trang lập "Tam giáo":
-
1.
Chuyển pháp luân: là giáo lý của Phật như Tứ đế, 12 nhân duyên .
-
2.
Chiếu pháp luân: là nói về kinh điển Phương đẳng Đại thừa như:
Lăng Nghiêm, Duy Ma cật, Giải thâm mật tà .
-
3. Trì
pháp luân: như kinh Hoa Nghiêm, Niết bàn, Pháp Hoa .
-
Thứ sáu
là Cát Tạng cũng lập ra "tam luân giáo". Tam luân giáo là: Căn
bản pháp luân, Chi mạt pháp luân, Nhiếp mạt quy bổn pháp luân.
Căn bản pháp luân là ý Ngài muốn nói: Phật nói kinh Hoa Nghiêm,
lý trùng trùng duyên khởi, nhất chân pháp giới đó là giáo lý căn
bản của Phật, Phật nói thì nhiều nhưng rốt cuộc cũng quy về giáo
lý căn bản, cho nên nói căn bản pháp luân. Nhưng vì chúng sinh
không ngộ được giáo lý căn bản đó nên Ngài tuỳ căn cơ mà nói ra
các kinh điển, các giáo lý khác. Và các giáo lý tuỳ căn cơ mà
nói, đó là Chi mạt pháp luân .
-
Giáo lý
cuối cùng là Nhiếp mạt quy bổn, đưa giáo lý Chi mạt trở về cái
gốc, đó là chỉ cho kinh Pháp Hoa. Thành ra trong 3 cái pháp luân
của ngài Cát Tạng đây, thì kinh Pháp Hoa thuộc Nhiếp mạt quy bổn
cuối cùng, so với ngài Huyền Trang trên kia, ngài nói Trì pháp
luân cũng chỉ ra kinh Pháp Hoa là kinh cuối cùng. Vì vậy cho nên
kinh cuối cùng với kinh tối sơ mà đức Phật thuyết, đều là căn
bản .
-
Thật ra
giáo lý như nhau, kinh Pháp Hoa và kinh Hoa nghiêm xét về tính
cách đạo lý của 2 kinh đó giống như nhau chỉ là một giáo lý
thuyết ban đầu và một giáo lý thuyết cuối cùng. Đây cũng là sự
phán giáo của ngài Thiên
Thai.
Phần nhiều các vị ở Trung hoa đều chấp nhận sự phán giáo đó,
nhưng căn cứ vào lịch sử, người ta không cho rằng kinh Hoa
Nghiêm nói ra ban đầu bởi vì căn cứ vào Sơ chuyển pháp luân tại
Lộc Uyển thì trước đó Phật chưa thuyết pháp, vậy kinh Hoa Nghiêm
Phật nói lúc nào? Hay là Phật nói kinh Hoa Nghiêm cho hàng
thượng căn Bồ tát và Chư Thiên khi ở trong Định? Đây là cách
nhìn theo Đại thừa.
-
Dẫu sao
lý trùng trùng Duyên khởi Phât cũng đã nêu lên từ đầu trước khi
chuyển pháp luân "Tứ đế". Sau khi Thành đạo, còn ngồi tại cội Bồ
đề, Phật nói:"Pháp này do ta chứng ngộ rất thâm diệu, khó hiểu
khó thấy, siêu lý luận, chúng sinh phàm phu chấp trước ái dục,
tham đắm ái dục, làm sao thấy được định lý Duyên khởi pháp"(kinh
Ái Tận Niết bàn). Khi đức Phật đến Lộc Uyển vì 5 vị Tỳ kheo mới
chuyển pháp luân. (Có thuyết nói sau khi thành đạo thì Ngài đã
thuyết kinh Hoa Nghiêm tại cội Bồ đề. Nhưng vì căn cơ của chúng
sanh không hiểu được nên Ngài phải làm thinh để chờ đến Lộc Uyển
thuyết Tứ đế pháp luân cho 5 anh em Kiều Trần Như).
-
Tôi
nghĩ rằng ý của kinh Hoa Nghiêm diễn bày hết sức rộng rãi sâu xa
lý Duyên khởi chứ không chỉ nói đơn giản một hay hai câu như lý
Duyên khởi mà đức Phật nói đầu tiên:"Pháp này do ta chứng ngộ
thậm thâm sâu vi diệu, siêu lý luận, hạng người đang tham ái
dục, khoái ái dục không thể hiểu được lý Duyên khởi". Hay
nói:"Cái này có nên cái kia có". Thế thì câu này đâu phải đức
Phật đã nói rộng lý Duyên khởi đâu, chính ở kinh Hoa Nghiêm, lý
Duyên khởi mới diễn dịch rộng ra. Nhưng dù có sâu hay rộng đều
bắt nguồn từ chỗ đức Phật chứng ngộ mà ra. Vậy cứ lấy lý mà nói
thì ta có thể hiểu rằng cái lý trùng trùng Duyên khởi là cái lý
đức Phật giảng đầu tiên, đó là giáo lý căn bản và cũng tuỳ theo
căn cơ của chúng sanh mà Ngài nói hẹp hay nói rộng mà thôi .
-
Thứ bảy
là Cấp Đa pháp sư lập "tứ giáo". Tứ giáo là gì?
-
1. Hữu
tướng giáo: tức là trong khi Phật nói về A Hàm, nhằm phá cái si
ngã chấp ố chủ yếu phá cái nhơn ngã chấp chứ chưa phá cái pháp
ngã chấp. Cũng như trước đây đã nói về ngũ uẩn là cốt đem ngũ
uẩn để chỉ cho người ta thấy ngũ uẩn kết hợp, không có cái ta
nào trong đó, nếu ai chấp rằng ta là ta, tạo ra tham sân si, tạo
ra nghiệp thì đó là kiến chấp của họ. Còn bản tánh ngũ uẩn là hư
không, hư dối, như huyễn, tánh không, thì trong A Hàm Phật chỉ
có nói một bài kệ: "Quán sắc như tụ mạc, thọ như thủy thượng
bào, tưởng như dương thời diệm, chư hành như ba tiêu, chư thức
pháp vô ngã " mà thôi. Cho nên ngài Cấp Đa cho giáo lý đó gọi là
Hữu tướng giáo.
-
2. Vô
tướng giáo: tức là chỉ về kinh Bát nhã, nhất thiết giai không,
nghĩa là nhơn cũng không mà pháp cũng không.
-
3. Đồng
quy giáo: chỉ cho kinh Pháp Hoa tức là nhiếp mạt quy bổn, đồng
quy về nhất thừa chứ tam thừa là giả định, là hoá thành là
phương tiện mà phải đồng quy về nhất thừa.
-
4.
Thường trú giáo: kinh Niết bàn, Phật chỉ về Phật tánh thường
trú. Thường thường Phật dạy chúng sanh có 4 điên đảo: Vô thường
mà chúng sanh chấp thường gọi là điên đảo. Vô ngã mà chấp ngã là
điên đảo. Bất tịnh mà chấp tịnh là điên đảo. Khổ mà chấp lạc là
điên đảo, phải hiểu là vô thường, khổ, bất tịnh, vô ngã mới
không điên đảo. Thế mà trong kinh Niết bàn chủ trương Niết bàn
có 4 đức tính: Thường, lạc, ngã, tịnh. Ta phải hiểu thường, lạc,
ngã, tịnh trong Niết bàn là cái thường khác chúng sanh chấp
thường, cái ngã khác chúng sanh chấp ngã, cái lạc khác chúng
sanh chấp lạc, cái tịnh khác chúng sanh chấp tịnh mà danh từ thì
giống nhau .
-
Thường
thường ta nói giáo lý đức Phật chỉ cho chúng sanh thấy thực
tướng của sự vật là vô thường, khổ, bất tịnh, vô ngã. Quán Tứ
niệm xứ cũng quán vậy: thân bất tịnh, thọ thị khổ, tâm vô
thường, pháp vô ngã ố Quán Tứ niệm xứ muốn được đắc đạo thì phải
quán như vậy, chứ quán thường, lạc, ngã tịnh thì làm sao mà đắc
được ! Trong kinh Niết bàn thì nói có 4 đức tính: Thường, lạc
ngã, tịnh, đó là mượn cách diễn tả Niết bàn. Đức Phật không chỉ
nói Niết bàn là diệt hết tham sân si mà Ngài còn nói Niết bàn
phải ly danh ngôn, tưởng tướng mới hiểu Niết bàn. Như trong kinh
Nikàya đức Phật cũng có nói:"Niết bàn là nơi không có không
gian, không có thời gian, không có sanh, không có tử, nếu không
có nơi như vậy thì làm sao mà giải thoát được sanh lão bệnh tử".
Trong nghĩa như vậy thì ta phải hiểu Niết bàn một cách tích cực
hơn. Hiểu như vậy là để ta thông thương giáo lý trong kinh này
với giáo lý trong kinh khác. Nhiều khi cái danh từ tuy khác
nhưng nếu ta tìm cách so sánh thì sẽ hiểu sự tương quan ở giữa
chúng khi đó sẽ tìm ra nội dung tương ứng. Trong kinh Nikàya đức
Phật nói sự chứng ngộ của ta chính tự do ta chứng ngộ chứ không
do thầy dạy, tức là Vô sư trí như Thiền tông diễn tả các danh từ
vô sư trí, tự nhiên trí hay bản lai diện mục. Ôủ đây ta thấy, từ
ngữ tuy khác nhưng ý không khác. Vô sư trí nếu không chỉ bản lai
diện mục thì chỉ cái trí gì? Tự nhiên trí là cái trí như thế
nào? Là cái tự chứng ngộ, là do ta chứng ngộ chứ không do ai chỉ
dạy, không dựa vào trí ai hết. Trong Nikàya đức Phật chỉ rất rõ
nhưng ở trong kinh chữ Hán cũng có từ Tự nhiên trí, Vô sư trí
cũng ý nghĩa như vậy thôi, không khác. Ta phải hiểu tinh thần
chung như vậy để không gặp trở ngại giữa giáo lý này và giáo lý
khác.
-
Thứ tám
là ngài Hiền Thủ quốc sư, lập "tam thời ngũ giáo". "Tam thời" là
gì? Là thời:"Nhật xuất tiên chiếu cao sơn". Đây là lấy ví dụ
thời gian mặt trời mọc lặn để diễn tả thời gian thuyết pháp của
đức Phật. Thời thứ nhất là nhật xuất tiên chiếu cao sơn (mặt
trời khi mọc trước tiên chiếu trên núi cao) chứ thấp là không
chiếu. Thời đó là thời Đức Phật nói kinh Hoa Nghiêm. Cao sơn đây
là nói căn cơ cao. Thời thứ hai là "Nhật thăng phổ chiếu đại
địa": nghĩa là mặt trời đã lên cao chiếu khắp đại địa tức là chỉ
thời Phương Đẳng. Phật nói các kinh Đại thừa sau này chiếu khắp
cả mọi căn cơ, đại địa là chỉ các căn cơ có cao, có thấp, có vừa
vừa, núi cũng có, sông cũng có, bình nguyên cũng có, thung lũng
cũng có, chiếu khắp hết. Tức là thời chính giữa, đức Phật nói đủ
các kinh như A Hàm, Phương Đẳng, Đại thừa. Đến thời cuối là
"Nhật một hoàn chiếu cao sơn" là khi mặt trời sắp lặn nó chiếu
lại trên núi cao, đây thời Pháp Hoa là thời nói kinh để cho hạng
căn cơ cao cũng như núi cao .
-
Ngũ
giáo là phân chia ý nghĩa giáo lý của Phật ra làm 5 tính cách:
-
1. Tiểu
thừa giáo: Giáo lý như Tứ đế.
-
2. Thỉ
giáo: có 2 mặt là Không thỉ giáo là chỉ Bát nhã, và Tướng thỉ
giáo là nói về Duy thức tức là nói về pháp tướng của tất cả
thức, pháp tướng thức biến là tướng thỉ giáo. Vì sao gọi là thỉ?
Vì giáo này mới chỉ bắt đầu giáo lý Đại thừa nên gọi là thỉ.
-
3.
Chung giáo là giáo lý cuối cùng của Đại thừa. Chung giáo đây là
chỉ cho các kinh như Lăng Già, Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Niết Bàn
là chung giáo.
-
4. Đốn
giáo: là giáo lý không có thứ lớp, chỉ nói thẳng về chân tính,
hễ lìa được các duyên tức Như Như Phật "Đản ly chư duyên tức Như
Như Phật", chỉ lìa các duyên tức là Phật Như Như.
-
5. Viên
Giáo: đây chỉ về giáo lý nhứt thừa là của kinh Hoa Nghiêm. "Nhứt
tức nhất thiết, nhứt thiết tức nhất". Như nói cây thì bất kể
khía cạnh dù cành lá nào tròn, méo, cao, thấp, dài, ngắn, đen,
trắng, lớn, nhỏ đều tròn trong nghĩa cây, nên gọi là viên .
-
Nói vậy
thì kinh Lăng Nghiêm này thuộc giáo lý nào trong đó? Trong kinh
Lăng Nghiêm có những lời dạy: "Thường trú chơn tâm tánh tịnh
minh thể", đó là chung giáo tức là lời dạy trọn vẹn, cuối cùng.
Hoặc có những câu "cuồng tâm đốn kiệt, kiệt tức bồ đề"; không có
đợi thời gian, không có cách biệt thời gian, không gian, giờ
phút nào mà sạch hết tâm cuồng loạn thì giờ phút đó là tâm bồ
đề, đó là Đốn giáo. Trong kinh Lăng Nghiêm cũng có những
câu:"Nhất vi vô lượng, vô lượng vi nhất, ư nhất mao đoan, hiện
bảo trần sát", nhất là vô lượng, vô lượng là một, ở trên một mảy
lông hiện ra bao nhiêu cõi nước thì đó là ý nghĩa Viên giáo.
Nhứt vi vô lượng vô lượng vi nhứt là cái nghĩa "Nhứt tức nhất
thiết, nhứt thiết tức nhất". Đây chính là nghĩa Viên Giáo mà
cũng là ý nghĩa trong kinh Lăng Nghiêm, nói để biết trong kinh
Lăng Nghiêm có những giaó đó .
-
Thứ
chín là phán giáo của ngài Thiên Thai Trí Giả. Đa số các vị
giảng kinh bên Trung Hoa phần nhiều dựa theo phán giáo của ngài,
ngài Thiên Thai Trí Giả lập ra "Ngũ thời Bát giáo". Ngũ thời là
gì? Hoa Nghiêm là thời thứ nhất:"Hoa Nghiêm tối sơ tam thất nhật
(Hoa Nghiêm đức Phật nói lần đầu trong 21 ngày). Nó cũng như
nhật xuất tiên chiếu cao sơn, nghĩa là giáo lý Hoa Nghiêm Phật
thuyết đầu tiên chiếu lên hàng thượng căn. Thời thứ hai: "A hàm
thập nhị" là thời Phật nói kinh A Hàm trong 12 năm. Thời A Hàm
ví như nhật thăng thứ chiếu hắc sơn, mặt trời lên cao chiếu vào
những chỗ núi tối. Thời thứ ba là thời Phương Đẳng Đại thừa, như
Phật nói các kinh Bảo Tích, Lăng Già, Lăng Nghiêm, cho các căn
cơ vừa, trong 8 năm như nhật thăng chuyển chiếu cao nguyên (mặt
trời lên cao chuyển chiếu cao nguyên). Thời thứ tư là thời Bát
nhã, "Nhị thập nhị niên Bát nhã đàm"; (22 năm Phật nói về Bát
nhã) như Nhật thăng phổ chiếu đại địa, mặt trời lên cao chiếu
khắp quả đất. Thời thứ năm: là thời "Pháp Hoa Niết bàn cọng bát
niên". Trong 8 năm nói kinh Pháp Hoa, Niết Bàn cho hàng thượng
căn, ví như nhật một hoàn chiếu cao sơn, khi mặt trời lặn trở
lại chiếu núi cao. Đó là năm thời do ngài Thiên Thai lập, có bài
kệ về 5 thời giáo:
-
"Hoa
Nghiêm tối sơ tam thất nhựt,
-
A hàm
thập nhị, Phương Đẳng bát,
-
Nhị
thập nhị niên Bát nhã đàm,
-
Pháp
Hoa, Niết bàn cọng bát niên "
-
Còn Bát
Giáo là gì? Nội dung của bát giáo? Bát giáo đây có bốn hoá nghi
và bốn hoá pháp. Bốn hoá nghi là gì? Là bốn nghi thức giáo hoá
là đốn, tiệm, bí mật, bất định. Chữ đốn như trên đã nói, tiệm là
giáo lý tuần tự mà ngộ, căn cơ đó chỉ đi theo tiệm giáo chứ
không đi theo đốn giáo được . Căn cơ đó phải tuần tự tu, đoạn
hoặc dần dần chứ không theo như đốn giáo được. Còn "bí mật giáo"
là đức Phật nhằm căn cơ nào nghe được thì Ngài nói với căn cơ đó
nghe, còn căn cơ khác thì không nghe được nên gọi là bí mật. Thứ
tư là "bất định" nghĩa là cũng một thứ giáo lý đó nhưng mỗi
người một cách hiểu khác nhau. Ngoài bốn cách giáo hoá này là
bốn hoá pháp: Tạng, thông, biệt, viên. Nội dung trong 4 hoá pháp
này là những lời đức Phật thuyết pháp. Tạng giáo là nói về Tứ đế
phân ra 4 loại: Tứ đế nói theo ý sanh diệt khác, nói theo ý vô
sanh diệt khác. Tứ đế nói theo ý vô lượng khác, nói theo ý vô
tác khác. Y ٠nói rằng, từ khi đức Phật Chuyển pháp luân ở vườn
Nai đến khi nói kinh Pháp Hoa cũng chỉ nói lý Tứ đế chứ không gì
khác. Nhưng tính cách giai tầng Tứ đế có khác nhau mà thành ra
bốn: tạng giáo, thông giáo, biệt giáo, viên giáo. Sanh diệt Tứ
đế ví dụ như tham ái là Tập đế, tu đạo đế thì diệt được tham ái,
chứng được Diệt đế, như vậy là diệt Tập đế sanh Diệt đế, cái này
diệt cái kia sanh, nên gọi là sanh diệt Tứ đế. Nhưng đến khi đức
Phật nói tất cả do duyên sanh, như vậy khổ, tập, diệt, đạo cũng
là duyên sanh, duyên sanh là vô tánh,vô tánh là vô sanh, nên nói
vô sanh Tứ đế. Vô lược Tứ đế là không phải khổ chỉ có 8 khổ mà
thôi, mà còn bao nhiêu cái khổ khác nữa nên gọi là vô lượng. Tập
đế không chỉ nói tham ái, kiến hoặc tư hoặc mà thôi mà còn vô
lượng. Diệt Đế cũng vô lượng: Tự tánh Niết bàn, vô trụ xứ Niết
bàn, hữu dư Niết bàn, vô lượng Niết bàn nên nói vô lượng Tứ đế
và Tứ đế bản lai tịch tịnh không có tác khởi, nói về bản tính nó
là vô sanh, khổ, tập, diệt, đạo đều vô tác, nên gọi là vô tác Tứ
đế .
-
Tóm lại
tất cả giáo lý của Phật đều nói về Tứ đế không nói gì khác,
nhưng Tứ đế đó có những bất cập khác nhau. Nên khi nói viên giáo
thì Tứ đế trở thành "sanh tử tức Niết bàn, phiền não tức Bồ đề"
trong 4 hoá pháp đó. Trong Nikàya có nói "không, vô tướng, vô
tác" mà vô tác là "sanh tử tức Niết bàn" chứ có tác gì nữa.
-
Nói như
vậy để biết kinh Lăng Nghiêm ở trong chỗ phán giáo nào của các
Ngài? Kinh Lăng Nghiêm thuộc kinh tạng là chắc chắn, nhưng nội
dung kinh Lăng Nghiêm có nói về tứ trọng giới, nên kinh Lăng
Nghiêmcũng thuộc một phần Luật và chính trong bảy chỗ gạn tâm
thấy rõ sự lý luận đối đáp giữa Ngài và A Nan, vậy nó cũng có
phần của Luận tạng. Đó là về tam tạng, còn về phán giáo thì cũng
cách như vậy, nhưng do mỗi người hiểu một cách chứ Phật pháp
không khác .
-
Nếu xét
ngay vào ý kinh thì chúng ta thấy Phật ngay nơi sự thấy nghe hay
biết thường ngày của chúng sanh mà chỉ ra thế nào là vọng tâm,
thế nào là chơn tâm. Khi đã ngộ được chơn tâm ngay nơi chỗ nghe
thấy hay biết của mình thì gọi là viên ngộ; y cứ theo Viên ngộ
mà tu hành thì gọi là Viên tu; tu hành thành tựu thì gọi là Viên
chứng; chứng được viên thông, là chứng tánh pháp giới viên mãn
dung thông vô ngại, thành vô thượng giác. Đây coi như phần dẫn
vào của Lăng Nghiêm .
-
(Tập
văn Vu Lan số 48 / 2000)
-
- --o0o--
|
|