|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
PHẢI CÓ CON MẮT
-
TRẠCH PHÁP KHI XEM KINH
-
Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
-
--o0o--
-
-
Khi dịch xong kinh Trường A-hàm năm 1962 tôi cảm thấy có một vài
thắc mắc tuy thông thường nhưng sẽ không tránh khỏi xuất hiện
một cách mau lẹ đến ít nhiều quý vị đọc kinh này. Để giải thích
phần nào những thắc mắc đó hầu tránh khỏi cái nạn vì nghẹn bỏ
ăn, ở đây xin nêu vài ý kiến theo trường hợp này:
-
1. Thuyết pháp độ sanh là bản hoài của Phật, vậy tại sao khi
Thành Đạo rồi Ngài lại không muốn thuyết pháp, đợi đến khi Phạm
vương thưa thỉnh, Ngài mới thuyết?
-
- Xin thưa: Như kinh đã nói đến, không phải Phật nhất định không
muốn thuyết pháp, song Ngài còn ngần ngại giữa một bên là giáo
lý giác ngộ quá cao siêu, một bên căn tính chúng sanh quá thấp
kém, sợ đem giáo pháp ấy nói cho chúng sanh ấy có hại hơn có
lợi. Trong lúc Phật đang quán xét phải thuyết pháp cách nào mới
đưa đến nhiều lợi ích, thì Phạm vương đến thưa thỉnh. Như vậy
việc thưa thỉnh này chỉ đáng xem là một việc làm đúng lúc chớ
không phải một quyết định tối hậu, mở đầu cuộc thuyết pháp của
Phật. Vả lại, thời bấy giờ dân Ấn Độ tin thờ Phạm thiên vương là
chúa tể. Nay thấy Phạm thiên vương thỉnh Phật thuyết pháp như
vậy thì họ sẽ tôn kính Phật mà lắng tai nghe, trừ bỏ lòng tự tôn
vào giáo pháp của Bà-la-môn xưa nay. (Muốn hiểu rộng hơn xin xem
Luận Đại Trí Độ quyển 7).
-
2. A Nan không thỉnh Phật ở đời lâu thêm vì tâm trí bị Ma vương
ám. Nhưng sau đó Ngài nhận lời Ma vương nhập Niết-bàn, như thế
phải chăng Phật thiên vị Ma vương?
-
- Xin thưa: Phàm ở đời việc gì đến nó phải đến. Khi cơ duyên hóa
độ đã mãn tất nhiên Phật vào Niết-bàn, dù khi đó có hay không có
Ma vương thưa thỉnh. Trái lại, khi cơ duyên hóa độ chưa mãn, lúc
Ngài ở bên sông Ni-liên-thuyền, lúc Ngài vừa Thành Đạo, dù Ma
vương có đến thỉnh Phật vẫn không vào Niết-bàn. Vậy việc Phật
nói với Ma vương sau ba tháng sẽ vào Niết-bàn chỉ là một dịp
Phật thổ lộ ý định của mình mà thôi.
-
3. Phật là bậc tự tại tự chủ, sao Ngài không duy trì xác thân ở
đời mãi mãi để làm lợi ích cho chúng sanh? Nếu Phật còn phải
chịu sự sống chết như mọi người, thì sao gọi Phật là tự tại tự
chủ?
-
- Xin thưa: Chân lý muôn đời của vũ trụ là hễ có sinh thì có
diệt, có hiệp thì có ly, không một ai có thể làm cho khác đi
được. Nhưng chúng sanh vì vô minh thường có tham vọng đi ngược
lại chân lý nên phải đau khổ đời đời. Trái lại chư Phật Bồ -tát
giác ngộ, thể nhập chân lý nên thường được tự tại như chân lý,
một sự tự tại siêu tuyệt: Ở nơi sinh mà bất sinh, ở nơi diệt mà
bất diệt; bất sinh bất diệt tức giải thoát tự tại ngoài vòng chi
phối của bất cứ điều gì, dù là sinh là tử. Cho nên cùng một hình
thức sinh tử, ta thấy về xác thân mà ở nơi chúng sanh thì là
luân hồi đau khổ, ở nơi Phật thì lại tự tại giải thoát.
-
Còn sự lợi sự hại theo Phật thì chúng sanh lắm lúc không đồng
nhau. Cùng một chuyện chúng sanh thấy lợi, Phật thấy không lợi,
chúng sanh thấy hại, Phật thấy không hại. Do đó, dù Phật diệt độ
mà Ngài vẫn thấy chúng sanh còn được nhờ giáo pháp Phật để lại,
để nỗ lực tu hành mà không sanh tâm ỷ lại vào sự tế độ của Phật.
Mỗi người phải lo tự giác ngộ chứ không ai giác ngộ thế cho ai
được. Hễ ai giác ngộ được, người đó hết đau khổ, dù Phật còn ở
đời, mà chúng sanh không chịu tự lo giác ngộ theo phương pháp
Phật chỉ dạy cũng không ích gì.
-
Một câu chuyện tương tự dưới đây, tuy đơn giản nhưng có thể làm
một tiêu chuẩn cho ta suy nghiệm đến đường lối cứu đời của Phật
khác xa thường tình nghĩ tưởng: Lúc Phật còn tại thế, có một
người đàn bà không may phải làm dâu trong một gia đình ác độc,
bà ta bị hất hủi, bạc đãi đủ điều, nên chỉ còn biết đặt hy vọng
vào đứa con độc nhất của mình. Nhưng cũng rủi luôn cho bà, đứa
con ấy vừa lên ba thì mệnh yểu. Bà đau khổ điên cuồng ôm thây
con đến mấy vị bác sĩ, nhờ cứu chữa. Bác sĩ, lương y nào cũng
lắc đầu bó tay. Cuối cùng có người vẽ cho bà tìm đến đức Thế
Tôn, may ra Ngài có thể cứu được con bà. Một tia hy vọng cuối
cùng lại vụt sáng giữa lúc tâm thần đang bối rối đau khổ, bà ôm
xác con chạy gấp đến chỗ Phật, sau khi vái chào, bà liền cầu xin
Phật cho đứa con bà sống lại, Phật dạy: Được, Bà hãy đi kiếm cho
Ta một nắm hạt cải ở nhà nào từ xưa nay không có người chết, đem
về đây Ta sẽ cứu cho". Bà mừng rỡ lật đật chạy đi kiếm. Khi bà
đến nhà thứ nhất, được người đem cho nắm hạt cải. Bà liền hỏi
chủ nhà: "Nhà này xưa nay có ai chết không?" Chủ nhà trả lời:
"đã có mấy người chết". Bà ta nói đức Thế Tôn dặn kiếm thứ hạt
cải ở nhà nào xưa nay không có người chết, nên bà ta đem trả lại
nắm hạt cải. Bà ta cũng hỏi và cũng không nhận như nhà trước. Cứ
như thế bà ta đi từ nhà nọ đến nhà kia khắp vùng mà vẫn không
kiếm ra một nắm hạt cải đúng như lời Phật dặn. Bỗng nhiên một
giây phút tỉnh ngộ, lý vô thường bật sáng trong tâm bà, phá tan
bao điều sầu khổ, u ám, bà lặng lẽ đem con đi chôn rồi trở lại
tinh xá bạch Thế Tôn: "Việc Ngài dạy con đã làm xong". Rồi bà
đảnh lễ Phật xin quy y làm đệ tử.
-
Khi đọc chuyện này, không khéo lại có người đặt lời phê phán:
"Thế Phật có hơn gì mấy ông bác sĩ, lương y? Phật còn không bằng
các đạo sĩ, giáo chủ khác dùng phép lạ cứu người chết rồi sống
lại? Tình thương của Phật như thế tỏ ra một tình thương quá lạt
lẽo đến phũ phàng, một tình thương không thực tế! "Nhưng không,
nếu cứ ôn tồn suy nghĩ chắc người ta sẽ không phê phán một cách
quá nông nỗi và sai lầm đối với lòng từ bi quá thâm thúy và
thiết thực như trên của Phật. Đối với Phật, Ngài đã thấy rõ, sở
dĩ chúng sanh đau khổ chỉ vì không giác ngộ được chân lý thực
tại vô thường, lại muốn bám chặt vào những mảnh vô thường và
nhận chắc đó là ta và của ta, vì vậy tình thương của Ngài là cốt
làm thế nào phá trừ vô minh đưa chúng sanh đến nơi giác ngộ tức
hết đau khổ, nếu không như vậy, dù có làm cách nào, cũng chỉ là
cách cứu chữa tạm thời, đôi khi còn vì nó gây thêm đậm nét đau
khổ là khác. Ví dụ như ông thầy thuốc không chịu tìm chữa từ
bịnh căn, chỉ nghe con bịnh nói đau mắt, đau đầu bừa, không tìm
nguyên nhân thì không bao giờ hết bịnh, vì bịnh căn là mầm mống
chưa trừ. Như vậy đến đây, ta hiểu được rằng tại sao Phật không
dùng phép lạ cứu sống đứa con người đàn bà kia. Chúng ta cũng
biết rõ rằng dù Phật có cứu sống đứa nhỏ bằng phép lạ đi nữa rồi
một ngày kia nó cũng vẫn già, vẫn bịnh, vẫn chết và người đàn bà
mẹ nó, cũng vẫn đau khổ như từ bao giờ không hơn không kém, nếu
bà không một lần tỉnh ngộ như trong khi đi xin hạt cải: chết
sống không phải là khổ mà khổ vì không giác ngộ lẽ chết sống.
-
4. Chúng sanh đau khổ nhưng kém hèn không tự cứu lấy mình được
mới chạy đến Phật cầu cứu. Thay vì phải soi sáng, cứu độ cho họ,
Phật lại dạy: "Các ngươi hãy tự thắp đuốc lên mà đi". Như thế
nghĩa là sao? Nếu chúng sanh tự thắp đuốc lên mà đi được thì
phỏng có lợi ích gì mà họ phải chạy đến Phật?
-
- Xin thưa: Phật dạy mỗi người phải tự giác ngộ lấy mình chớ
không ai giác ngộ thế cho được, đó là lời dạy chí lý hiển nhiên
đúng thật không thể chối cãi được, và câu "Các ngươi hãy tự thắp
đuốc lên mà đi" đã nằm trong ý nghĩa tự giác ngộ đó. Tuy nhiên,
nếu suốt một đời giáo hóa của Phật, thỉ chung Ngài chỉ dạy có
một câu ấy bất cứ đối với ai và bất cứ lúc nào, thì cũng đáng
cho ta sự thắc mắc trên, bởi nếu như vậy, chúng ta sẽ không hiểu
gì là cái đuốc. Tại sao phải tự thắp, làm thế nào để thắp và đi
về đâu. Nhưng đằng này khác hẳn, sau giáo pháp Phật đã dạy, giáo
pháp đó không ích lợi gì cả nếu chúng sanh không chịu khó học
hỏi kinh nghiệm thực hành, nương giáo pháp để tự tạo lấy sự giác
ngộ chính trong lòng mình. Phật vì thương chúng sanh cho nên
Ngài lại phải nhắc nhở chúng sanh lo thực hành với lời dạy trên.
-
Giáo pháp như ngón tay chỉ, chân lý ví như mặt trăng, Phật
truyền dạy giáo pháp khác nào như Phật đã đưa tay chỉ mặt trăng
(đây là Phật khai hóa cứu độ cho chúng sanh), người muốn thấy
mặt trăng, tất phải định thần mở mắt nhìn theo hướng tay chỉ,
không phải chờ ai nhìn thế mà cho thấy được. Nếu Phật có nhìn
thấy hay người khác có nhìn thấy, cũng chỉ là Phật thấy, mấy
người kia thấy, chớ không phải mình thấy. Giáo pháp lại có thể
ví như những điều kiện bên ngoài để tạo ra hạnh phúc chân thật
bên trong; khi một người có đủ các điều kiện ấy mà vẫn thấy mình
chưa đủ hạnh phúc thì họ phải lo tự tạo lấy hạnh phúc cho họ,
chớ không ai bên ngoài xen vào hay mang lại một hạnh phúc chân
thật trong lòng họ được.
-
Để hiểu rõ hơn, ta cần xác nhận thời gian tính lời dạy trên
trong quá trình thuyết giáo của Phật. Theo như trong kinh này
thì câu "Các ngươi hãy tự thắp đuốc lên mà đi" đã được Phật dạy
vào lúc sắp nhập Niết-bàn và lúc nhiều giáo pháp đã được Phật
nói ra. Như thế có theo Phật ta mới hiểu rõ đường lối tu hành,
mới thoát khỏi các ý nghĩ ỷ lại sai lầm rằng ta có thể nhờ người
khác đem lại giác ngộ và hạnh phúc chân thật cho ta, và mới hiểu
tại sao phải tự thắp đuốc lên mà đi và thắp bằng cách nào để
khỏi bị ở mãi trong chốn tối tăm đau khổ.
-
5. Đạo Phật chủ trương lý trí, chú trọng thực tiễn, tại sao
trong kinh còn có những chỗ nói đến các vị thần, như thiên thần,
lâm thần, thọ thần v.v... Như thế Phật giáo cũng tin có quỷ
thần, mơ hồ? Phật giáo cũng là một đa thần giáo?
-
- Xin thưa: Phật giáo không hề lấy việc tin quỷ thần, cầu khấn,
thầm làm phương châm giải khổ, nhưng Phật giáo quan niệm giữa vũ
trụ có vô lượng thế giới và vô số chúng sanh xuất hiện dưới vô
số hình thức sai khác, lớn có, bé có, ở hư không có, ở dưới biển
có, hữu hình có, vô hình có, tùy theo căn thức và nghiệp cảm.
Mỗi chúng sanh cũng chỉ là mỗi chúng sanh, không chúng sanh nào
có thể sáng tạo và cai quản chúng sanh nào, ngoại trừ tánh cách
tương quan hỗ thành theo luật nhân duyên nhân quả. Do đó, Phật
không bao giờ khuyên dạy người ta cầu xin phúc họa nơi quỷ thần,
mà dạy người ta lo cầu xin họa phúc ngay nơi mình. Khác với đa
số người thế gian và đa thần giáo xem quỷ thần như những vị sáng
tạo và có quyền phép ban phước giáng họa và người ta cần đến đó
cầu xin hoặc sợ sệt kính lễ, trong khi Phật giáo dù nói đến thần
này thần kia chỉ có nghĩa tại chỗ kia chỗ nọ mà thôi, có với
không có nó không là việc bận rộn đến tinh thần của những Phật
tử chân chánh.
-
6. Người ta nói "Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách", một
thường dân còn có bổn phận đối với quốc gia xứ sở, huống những
người cầm quyền trị vì, thế nhưng trong kinh có đoạn kể chuyện
vua tôi nước nọ đều xuất gia cả. Xuất gia như thế có hại cho
quốc gia không? Có thụ động, trốn trách nhiệm không?
-
- Xin thưa: giá trị của sự xuất gia ở chỗ khác đã có nói nhiều,
ở đây xin tóm tắt rằng sự xuất gia chân chính bao gồm một ý
nghĩa từ bỏ dục vọng, tham lam, ngã chấp, để khuôn mình trong
lối sống đạo đức với chí hướng cầu chân thiện mỹ và ban phát
chân thiện mỹ. Xuất gia như thế đâu phải là một hành vi thụ
động, trốn đời, hại đời? Và đâu dễ có mấy người xuất gia, khiến
đến nỗi quốc gia phải suy yếu vì họ? Vả chăng việc nước là việc
chung, không người này còn người khác, một số rất nhỏ người xuất
gia có thấm vào đâu với đại đa số dân chúng. Một điều mà thiết
tưởng ai cũng thấy rõ, nước mạnh không nhất thiết phải dân đông
nhưng cốt phải muôn dân nhất trí, và muốn cho muôn dân nhất trí
là phải có đạo đức, hy sinh, công chính. Mọi người dân trong khi
cố công kiến thiết, họ cũng phải cố công xây dựng ở họ, ở người
khác một sức mạnh đạo đức, biết hy sinh, không ích kỷ, không cố
vị tham quyền mới duy trì được nền an lạc chung. Như thế suy đến
chuyện xuất gia của vua tôi nước nọ, thay vì nói đó là yếm thế,
trốn trách nhiệm, ta hãy nói đó là một cử chỉ cao thượng hiếm
có, đã nêu một gương sáng không tham cố quyền lợi, không cố thủ
địa vị là điều xưa nay thật khó tìm thấy ở trong bao nhiêu người
có địa vị trong tay. Tuy vậy, thật ra việc xuất gia như trên rất
hiếm có trong lịch sử và giả sử có ta cũng thấy rõ đâu có làm
hại cho quốc gia, xã hội bằng những con người bất nhân vô đạo,
cố vị tham quyền kết tụ lại trong quốc gia hay thế giới, mà xưa
nay đâu đâu cũng có. Cứ xem nhân loại ngày nay ta cũng đủ thấy
là hiện đang đau khổ vì dục vọng hay những lời dạy ly dục và sự
xuất gia như trên?
-
Tóm lại, trong khi xem kinh, nên có con mắt trạch pháp để nhận
định những lời nào Phật quyền thuyết, những lời nào Phật thật
thuyết, những lời nào là chính yếu, những lời nào là phụ yếu, và
suy nghiệm lối thuyết pháp tất đàn của Phật mới mong học được
những chỗ đáng học, nắm được chỗ chính yếu của giáo lý để khỏi
kẹt vào những thắc mắc không trọng hệ nhưng lắm lúc làm trở ngại
những giáo lý trọng hệ cần được chú tâm suy tầm tu niệm nhiều
hơn.
-
- --o0o--
|
|