|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Mười Hai Nhân Duyên
-
(Thập Nhị Nhân Duyên)
- Thích
Tâm Hải
- --o0o--
-
A) DẪN NHẬP
-
Mười hai nhân duyên
(Thập nhị nhân duyên) là cách trình bày đặc biệt của giáo lý
Duyên khởi (Paticcasamuppada) (1). Giáo lý này do chính Bổ tát
Tất Đạt Đa (Siddhartha) thể chứng dưới cội bổ đề sau 49 ngày tư
duy thiền định, từ đó Ngài trở thành một bậc Giác ngộ hoàn toàn.
-
Mười hai nhân duyên,
hay Duyên khởi, là một giáo lý rất đặc thù, là điểm xác định sự
khác biệt giữa Phật giáo với các tôn giáo khác. Nó là cốt lõi
của nhân sinh quan Phật giáo, được đề cập nhất quán trong tất cả
các kinh điển. Nhận thức rõ về giáo lý mười hai nhân duyên sẽ
giúp người học Phật hiểu cặn kẽ hơn về các vấn đề khác như
nghiệp, luân hổi tái sinh, nhân quả... đổng thời gợi mở một
hướng sống tích cực cho mổi cá nhân trong hiện tại.
-
B) NỘI DUNG :
-
I/
Định nghĩa :
-
1- Thế
nào là nhân duyên ?
-
Nhân là yếu tố quyết
định, điều kiện chính làm sinh khởi, có mặt của một hiện hữu.
Duyên là điều kiện hôrợ,
tác động làm cho nhân sinh khởi. Ví dụ : hạt lúa là nhân của cây
lúa ; các yếu tố như đất, độ ẩm, ánh sáng mặt trời, người
gieo... là duyên để hạt lúa (nhân) nảy mầm phát triển thành cây
lúa. Mối quan hệ nhân - duyên thực ra phức tạp và vi tế hơn
nhiều, đặc biệt là trong thế giới tâm thức ; và, nhân duyên nói
cho đủ là nhân - duyên - quả.
-
"Nhân duyên" trong
"mười hai nhân duyên" hàm ý nghĩa "nhân duyên khởi" : sự nương
tựa vào nhau mà sinh khởi, sự tùy thuộc phát sinh, nói chính xác
là "do cái này có mặt, cái kia có mặt ; do cái này không có mặt,
cái kia không có mặt ; do cái này sinh, cái kia sinh ; do cái
này diệt, cái kia diệt".
-
2- Mười
hai nhân duyên là gì ?
-
Trong kinh Tương Ưng
Bộ II (Samyutta Nikàya), Đức Phật đã thuyết minh về mười hai
nhân duyên (Duyên khởi) như sau : "Do vô minh, có hành sinh ; do
hành, có thức sinh ; do thức, có danh sắc sinh ; do danh sắc, có
lục nhập sinh ; do lục nhập, có xúc sinh ; do xúc, có ái sinh ;
do ái, có thủ sinh ; do thủ, có hữu sinh ; do hữu, có sinh sinh
; do sinh sinh, có lão tử, sầu, bi, khỗ, ưu, não sinh, hay toàn
bộ khỗ uẩn sinh. Đây gọi là Duyên khởi".
-
"Do đoạn diệt (2)
tham ái, vô minh một cách hoàn toàn, hành diệt ; do hành diệt
nên thức diệt ; do thức diệt nên danh sắc diệt ; ... ; do sinh
diệt nên lão tử, sầu bi, khỗ, ưu, não diệt. Như vậy là toàn bộ
khỗ uẩn đoạn diệt. Này các Tỷ kheo, như vậy gọi là đoạn diệt".
(tr 1-2)
-
Mười hai nhân duyên
được Đức Phật định nghĩa gổm hai chiều hướng : chiều hướng sinh
khởi (còn gọi là lưu chuyển : do vô minh, hành sinh...) và chiều
hướng đoạn diệt (còn gọi là hoàn diệt : do đoạn diệt tham ái, vô
minh một cách hoàn toàn nên hành diệt...). Khi mười hai nhân
duyên được thành lập (tập khởi), nghĩa là năm uẩn (3) tập khởi,
và đây là chiều hướng của khỗ đau, luân hổi. Khi mười hai mắc
xích này bị phá vỡ (đoạn diệt) thì cấu trúc năm uẩn cũng tan rã,
và đây là con đường của an lạc, giải thoát. Năm uẩn chính là cấu
trúc của con người và cuộc đời. Sự hiện hữu của con người tự nó
nói lên mười hai nhân duyên đang vận hành theo chiều tập khởi.
-
Theo cách trình bày
trên, vô minh được xem như là căn nguyên, nguổn cội, cốt lõi của
mười hai nhân duyên. Tuy nhiên, không nên hiểu nhầm vô minh là
nguyên nhân đầu tiên của chuổi liên kết đó. Bởi Đức Phật dạy, vô
minh cũng do nhân duyên sinh, là duyên khởi. Khi có nhân duyên
(tích cực) thì vô minh cũng sẽ chuyển hóa thành trí, tuệ ; đây
là ý nghĩa "vô minh diệt, minh sinh".
-
Cũng cần lưu ý đôi
chút về số mục (12 chi phần) của dạng thức Duyên khởi này. Định
nghĩa được nêu trên, trích từ kinh Trung Bộ II, là một cách
trình bày tiêu biểu nhất, gổm đầy đủ cả 12 chi phần. Trong một
số bản kinh khác, như kinh Đại Duyên (Trường Bộ kinh II), kinh
Đại Bỗn Duyên (Trường A Hàm I)... Đức Phật trình bày chỉ gổm 5,
8 , 10, 11 và đầy đủ nhất là 12 chi phần. Vấn đề này được các
nhà nghiên cứu Phật học có thẩm quyền phân tích rất tỉ mỉ, và
tất cả đều thống nhất, số mục 12 chi phần được xác định qua nội
dung thiền quán của Đức Phật dưới cội bổ đề. Đây là dạng thức
chính xác, đầy đủ và phù hợp nhất với tư duy của con người. Sự
sai khác về số mục các chi phần chỉ là thể hiện phương pháp giáo
hóa linh động của Đức Phật, Ngài tùy thuộc vào trình độ của
người nghe mà nói vắn tắt hoặc đầy đủ. Điều này sẽ được làm sáng
tỏ ở phần nói về sự vận hành của mười hai nhân duyên.
-
Đối tượng nghe giáo
lý mười hai nhân duyên là con người, vì nặng về tâm luyến ái và
chấp thủ, nên Đức Phật luôn nhấn mạnh đến các chi phần này, đặc
biệt là trong chiều hướng, con đường đoạn diệt - giải thoát. Khi
ái (hay bất luận một chi phần nào) sinh khởi, lập tức cấu trúc
12 nhân duyên hình thành ; và ngược lại, khi chi phần ái hay thủ
(hoặc một chi phần bất kỳ) đoạn diệt, lập tức chuổi mắc xích 12
nhân duyên tan rã. Đây cũng là ý nghĩa, mà trong luận Đại Tỳ Bà
Sa ghi rằng, nói Duyên khởi có một chi phần cũng được, hai, ba,
... cho đến 12 chi phần cũng được.
-
II) Ý
nghĩa của mười hai chi phần nhân duyên :
-
1- Vô minh (Avijjà) :
sự mê mờ, cuổng si của tâm thức ; hay nói cách khác là sự không
hiểu biết như thật về hiện hữu là duyên sinh, vô thường và không
có một tự thể độc lập, bất biến.
-
2- Hành (Sankhàra) :
động lực, ý chí hành động tạo tác (ý hành) của thân, miệng và ý.
-
3- Thức (Vinnana) :
tri giác của con người về thế giới thông qua các cơ quan chức
năng như mắt (nhãn thức), tai (nhĩ thức), mũi (tỉ thức), lưỡi
(thiệt thức), thân (thân thức) và ý (ý thức).
-
4- Danh sắc (Nàma -
rùpa) : sắc là phần vật lý và sinh lý, danh là phần tâm lý. Với
con người, sắc là cơ thể vật chất, các giác quan và chức năng
của chúng ; danh là các tâm phụ thuộc (tâm sở), như xúc, tác ý,
thọ, tưởng và tư.
-
5- Lục nhập
(Chabbithàna) : có nơi gọi là sáu xứ, là sự tương tác giữa 6 căn
(= 6 nội xứ : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) và đối tượng của
chúng là 6 trần (= 6 ngoại xứ : hình thể, âm thanh, hương vị,
mùi vị, xúc chạm và ý tưởng - pháp).
-
6- Xúc (Phassa) : sự
gặp gỡ, tiếp xúc, giao thoa giữa các căn (chủ thể) và trần (đối
tượng). Nói rõ hơn, xúc chính là sự tiếp xúc giữa con người và
thế giới thông qua 6 cơ quan tri giác. Lưu ý là, khi có thức
phát sinh do mắt tiếp xúc với hình thể (sắc trần), thì sự nhận
biết đó mới gọi là nhãn thức... Vậy, xúc là sự gặp gỡ, giao thoa
giữa căn, trần và thức.
-
7- Thọ (Vedanà) : sự
cảm thọ. Nói khác đi là các phản ứng tâm lý phát sinh khi mắt
tiếp xúc với hình thể, tai tiếp xúc với âm thanh... ý tiếp xúc
với ý tưởng (pháp).
-
Cảm thọ có ba loại :
cảm thọ dễ chịu (lạc thọ), cảm thọ khó chịu (khỗ thọ) và cảm thọ
trung tính (phi khỗ phi lạc). Đây là chất liệu mà con người
thường lấy để xây dựng những giá trị gọi tên là hạnh phúc và khỗ
đau, bất hạnh. Thực ra, chúng là do duyên sinh, luôn thay đỗi,
không hề có một tự tính cố định.
-
8- Ái (Tanhà) : gọi
đủ là ái dục hay khát ái : sự vướng mắc, yêu thích, tham luyến;
gồm có dục ái, sắc ái và vô sắc ái.
-
9- Thủ (Upadàna) :
gọi đủ là chấp thủ : sự kẹt vào, bám víu, đeo chặt của tâm thức
vào một đối tượng.
-
10- Hữu (Bhava) :
tiến trình tương duyên để hình thành, gổm dục hữu, sắc hữu và vô
sắc hữu.
-
11- Sinh (Jati) : sự
ra đời, tạo nên, xuất hiện. Sinh ở đây không phải là sự sinh ra
em bé, mà là sự thành tựu các bộ phận cấu thành (năm uẩn), thành
tựu các xứ (các cơ quan tri giác và chức năng của chúng).
-
12- Lão tử
(Jaramrana) : sự suy nhược, tàn lụi, tuỗi thọ lớn, tan rã, tiêu
mất, tử vong. Với sinh mạng con người, lão tử được biểu hiện
dưới các hiện tượng : răng lung, tóc bạc, da nhăn, các cơ quan
tri giác suy yếu và chết.
-
III)
Sự vận hành của mười hai nhân duyên :
-
Thông qua ý nghĩa của
các chi phần mười hai nhân duyên, đặc biệt là chi phần lục nhập,
một lần nữa khẳng định rằng, dạng thức duyên khởi này là giáo lý
nói về con người, bởi vì chỉ ở con người mới có đầy đủ 6 cơ quan
tri giác. Do vậy, khi nói về sự vận hành của mười hai nhân duyên
cũng chính là nói về sự vận hành con người.
-
Vì không nhận biết
hiện hữu (con người và thế giới) là do nhân duyên hòa hợp mà
sinh khởi, luôn biến dịch và không có một tự thể thường hằng,
nên con người ảo tưởng về một tự ngã : đây là cái tôi và đây là
cái của tôi (Vô minh). Chính ảo tưởng và sự bất giác này quấy
động tâm thức, làm sinh khởi lòng tham ái, chấp thủ... Và đó là
động cơ cho các hành động của thân, lời và ý (Hành). Mổi khi ý
niệm về một tự ngã sinh khởi thì Thức có mặt. Sự hiện hữu của
Thức tất yếu đòi hỏi sự có mặt của chủ thể nhận thức và đối
tượng nhận thức (Danh sắc, Lục nhập). Khi căn, trần và thức gặp
gỡ nhau (Lục nhập), thì Xúc sinh khởi. Cảm thọ (Thọ) có mặt ngay
khi căn, trần và thức giao thoa nhau ; cảm thọ sẽ tuôn chảy như
một dòng thác mà không một năng lượng nào có thể ngăn cản được,
vì bản chất của cảm thọ là thế. Thọ bao gổm những phản ứng tâm
lý trước đối tượng như là buổn, vui, yêu, ghét, trung tính...
Cảm thọ dễ chịu sẽ làm phát sinh luyến ái (Ái). Trong Ái đã bao
hàm chấp thủ và nó được biểu hiện dưới nhiều hình thức tương ứng
với các cảnh giới của tâm thức (Hữu). Hữu tạo ra Sinh, và mổi
khi đã có Sinh, thì tiến tình suy yếu, tan rã, mất đi sẽ vận
hành như một hệ quả đương nhiên : nghĩa là lão tử, sầu, bi, khỗ,
ưu, não ; hay khỗ đau có mặt. Đó là sự vận hành của mười hai
nhân duyên theo chiều sinh khởi (lưu chuyển) - chiều vận hành
này có động lực là vô minh, tham ái và chấp thủ. Nói khác đi,
đây là con đường của khỗ đau, luân hổi được dẫn dắt và chi phối
bởi vô minh.
-
Trong phần thuyết
minh về mười hai nhân duyên, Đức Phật không chỉ nêu lên con
đường tập khởi, như đã phân tích ở trên, mà Ngài đã chỉ ra
nguyên nhân tập khởi và con đường đoạn tận (hoàn diệt). Mổi khi
đoạn diệt bất kỳ một chi phần nào trong chuổi 12 mắc xích (nhân
duyên), thì lập tức nó tự tan rã. Tuy nhiên, với con người, tham
ái và chấp thủ là nặng nề nhất ; nên đoạn tận tham ái hoặc chấp
thủ thì vòng xích mười hai nhân duyên không còn lý do để hiện
hữu. Đó là ý nghĩa của lời Phật dạy : "Ái diệt tức Niết bàn".
-
Sự vận hành của mười
hai nhân duyên không chỉ đơn giản là tiến trình hình thành một
sinh mạng (từ ý niệm tối sơ về hiện hữu đến hơi thở cuối cùng),
mà sự vận hành của nó (chiều thành lập - lưu chuyển) nói lên căn
nguyên có mặt của con người (và cuộc đời) ; nó không bị giới hạn
bởi thời gian và không gian. Bao giờ tham ái, chấp thủ hoặc vô
minh chưa được đoạn tận thì con người vẫn bị chi phối bởi sự vận
hành của mười hai nhân duyên - nghĩa là vẫn luẩn quẩn trong luân
hổi, khỗ đau bất tận - khi 12 nhân duyên đoạn diệt, đổng nghĩa
với toàn bộ khỗ uẩn đoạn diệt.
-
IV)
Một số cách giải thích về mười hai nhân duyên :
-
Mười hai nhân duyên,
hay Duyên khởi, là nguyên lý của mọi hiện hữu. Nó là sự thật nên
không bị giới hạn trong không gian và thời gian. Đức Phật khẳng
định rằng : "Duyên sinh là thực tính của mọi hiện hữu, sự thật
này không thay đỗi dù Như Lai có xuất hiện hay không xuất hiện".
Một hiện hữu dù nhỏ như hạt nhân của nguyên tử đến to lớn như vũ
trụ cũng không nằm ngoài nguyên lý này. Với đặc tính đó, giáo lý
mười hai nhân duyên có thể dùng để soi sáng nhiều vấn đề khác
trong cuộc đời như luân hổi, nhân quả... tùy thuộc theo góc quan
sát của người giải thích. Ở đây chỉ giới thiệu 4 cách giải thích
phỗ biến.
-
1- Dạng
thức tổng quát :
-
"Do cái này có mặt,
cái kia có mặt ; do cái này không có mặt, cái kia không có mặt ;
do cái này sinh, cái kia sinh ; do cái này diệt, cái kia diệt".
(Tiểu Bộ kinh, tr.291). Dạng thức này là cách trình bày khái
quát, tóm tắt và đơn giản nhất do chính Đức Phật nói. Nó được
xem như là một nguyên lý cho mọi hiện hữu trong thế giới hiện
tượng. Nói chính xác hơn, nếu mười hai nhân duyên là dạng thức
duyên khởi riêng về con người, thì dạng thức tỗng quát nói về
bản chất của thế giới hiện tượng, đặc biệt là thế giới không có
tình thức (khí thế giới).
-
2- Ba
đời hai tầng nhân quả (Tam thế lưỡng trùng nhân quả) :
-
Ba đời là quá khứ,
hiện tại và tương lai (vị lai). Theo cách giải thích này, vô
minh và hành thuộc về quá khứ ; hiện tại gổm có 8 chi phần (từ
thức đến hữu) ; sinh và lão tử thuộc về vị lai. Mặt khác, thức,
danh sắc, lục nhập được xem là quả hiện tại của nhân quá khứ là
vô minh và hành, đây là tầng nhân quả thứ nhất. Các chi phần
thọ, ái, thủ và hữu là nhân hiện tại cho quả vị lai là sinh và
lão tử ; đây là lớp nhân quả thứ hai. Sự phối hợp giữa 2 lớp
nhân quả này với các duyên tạo nên một mối quan hệ có vẻ chặt
chẽ, tương tục của dòng chảy thời gian : quá khứ - hiện tại - vị
lai. Qua cách giải thích này, ý đổ dùng giáo lý mười hai nhân
duyên để giải thích luân hổi đã thể hiện rõ. Tuy nhiên, cách
phân chia như trên sẽ dễ đưa đến một ngộ nhận, như là vô minh và
hành chỉ có ở quá khứ, 8 chi phần tiếp theo chỉ có ở hiện tại,
sinh và lão tử thì thuộc về tương lai (!). Thực ra, trong hiện
tại (và ngay trong mổi chi phần) đã có mặt vô minh. Khi một chi
phần hiện hữu thì lập tức có sự hiện hữu của mười một chi phần
còn lại. Nếu một chi phần bất kỳ vắng mặt thì mối liên kết 12
chi phần nhân duyên tự sụp đỗ. Như đã phân tích, mười hai nhân
duyên là một dòng tương tục, chằng chịt, không hề lệ thuộc vào
thời gian (quá khứ, hiện tại hay tương lai). Cách giải thích này
vô tình làm thô thiển và đơn giản hóa giáo lý mười hai nhân
duyên - một giáo lý vốn được xem là rất thâm áo và tinh tế.
-
3- Nhân
quả đồng thời :
-
Khi nói "Do vô minh,
hành sinh...", không nên hiểu là hành do vô minh sinh ra. Giữa
vô minh và hành... là mối quan hệ nhân quả tuyến tính, đơn
phương ; nghĩa là các chi phần trong mười hai nhân duyên hiện
hữu tùy thuộc vào yếu tố thời gian (trước - sau). Cách giải
thích này nói rằng, ngay trong một sát na (4) đã có sự hiện hữu
đầy đủ của cả 12 chi phần. Khi ý niệm lệch lạc về một cái tôi và
cái của tôi (tự ngã) có mặt, lập tức có mặt chuổi nhân quả tương
tục : ý chí tạo tác (hành), tri giác phân biệt và chấp thủ
(thức)... đến lão tử, sầu, bi, khỗ, ưu, não. Mổi một chi phần
vừa là quả vừa là nhân cho các chi phần khác, chúng nuôi dưỡng
lẫn nhau.
-
4- Sự
hiện hữu của một đời sống con người (mạng căn) :
-
Một trong 3 yếu tố
quyết định để hình thành một thai nhi là có sự hiện hữu nghiệp
thức đi đầu thai. Nghiệp thức này là kết quả của vô minh và hành
trong quá khứ. Giai đoạn tượng thai chính là thời điểm danh sắc
có mặt. Lục nhập là giai đoạn thai nhi hình thành đầy đủ các
căn. Giai đoạn trẻ bú mớm là giai đoạn của xúc. Trẻ từ 3-5 tuỗi
là lúc thọ hình thành. Từ đây trở về trước, theo lối giải thích
này, là biểu hiện của nghiệp quá khứ, trẻ chưa tác ý thiện ác để
tạo nên nghiệp hiện tại. Khi trẻ biết vui, buổn, ưa, ghét... là
lúc ái, thủ, hữu hình thành và chính đây mới là giai đoạn mà trẻ
tạo nghiệp để đưa đến hình thành một thân mạng mới ở tương lai
(sinh, lão tử).
-
V) Một
số hệ luận từ giáo lý mười hai nhân duyên :
-
1- Con người (và cuộc
đời) là hiện hữu của cấu trúc mười hai nhân duyên, nên không hề
có một tự ngã độc lập và thường hằng. Con người chính là chủ
nhân của cuộc đời mình, bởi giáo lý mười hai nhân duyên cho thấy
sự thật : "Không thể tìm ra một đấng sáng tạo, một Brahman, hay
một vị nào khác, làm chủ vòng luân chuyển của đời sống ; chỉ có
những hiện tượng diễn tiến, tùy thuộc vào những điều kiện" (5).
-
2- Con người và cuộc
đời là vô ngã, không có một tự tính thường hằng (vô thường), nên
bên trong mổi người luôn tiềm ẩn một khả năng giác ngộ, và cuộc
đời luôn có cơ hội để xây dựng trở nên tốt đẹp.
-
3- Khi một chi trong
mười hai nhân duyên vận hành nghĩa là mười một chi phần còn lại
cũng vận hành. Điều này nói lên sự dung thông giữa cái "một" và
cái "tất cả", vượt ra ngoài khái niệm không gian, thời gian, từ
đó có thể khẳng định có sự hiện hữu của các loại thần thông.
-
C) KẾT LUẬN :
-
1- Mười hai nhân
duyên là giáo lý về con người và nói cho đối tượng nghe là con
người. Vì con người bị vướng nặng vào vô minh, ái và chấp thủ
nên Đức Phật đặc biệt nhấn mạnh đến các chi phần này khi hướng
dẫn con người tu tập vì mục đích giải thoát, giác ngộ.
-
2- Mười hai nhân
duyên, hay duyên khởi, không phải là một giáo lý dùng để đối trị
chấp ngã hay nhằm giải thích thế giới ; mà đây là sự thật và là
một pháp tu tập vì giải thoát thiết thực cho con người. Do vậy,
giáo lý này là căn bản của chánh kiến (thứ nhất trong Bát chánh
đạo). Nói khác đi, chánh kiến là cái nhìn toàn diện, như thật về
các pháp là do duyên sinh.
-
3- Vô ngã hay giải
thoát, Niết bàn không phải là một trạng thái trống trơn, mà là
sự trống rổng
ý niệm về một tự ngã thường hằng. Nói cách khác, đó là trạng
thái không có mặt vô minh, tham ái và chấp thủ.
-
4- Mọi giá trị trong
cuộc đời đều mang tính tương đối, bởi cuộc sống là duyên sinh,
luôn trôi chảy và không thể nắm bắt.
-
5- Hiện hữu hay cuộc
sống là hiện hữu của các mối tương quan đa phương giữa con người
với con người, giữa con người với môi trường xã hội, môi trường
tự nhiên... Khi một cá nhân sống tốt là đang góp phần xây dựng
một xã hội tốt đẹp, và ngược lại. Mổi người phải có trách nhiệm
với cộng đổng, bởi xây dựng cộng đổng chính là đang bảo vệ cá
nhân mình.
-
6- Mười hai nhân
duyên, hay giáo lý duyên khởi nói chung, là một giáo lý vô cùng
tinh tế và khó hiểu, bởi con người vốn đã quen với nếp tư duy
hữu ngã từ vô thỉ. Muốn có một nhận thức đúng về giáo lý này đòi
hỏi phải có sự quán sát và tư duy thường xuyên về nó. Suy tư và
thực tập giáo lý mười hai nhân duyên (theo chiều đoạn diệt),
chắc chắn rằng sẽ từng bước mang đến cho hành giả một cuộc sống
độ lượng, vị tha, giải thoát và an lạc trong hiện tại. Bởi như
lời Phật dạy : "Ai thấy Duyên khởi là thấy
-
Pháp, ai thấy Pháp là
thấy Phật (Ta)". Thấy Phật là thấy được thực tại tối hậu, vượt
ra ngoài mọi ràng buộc của thế giới ngã tính - bị giới hạn bởi
vô minh, tham ái và chấp thủ này.
-
Chú
thích:
-
(1) Còn gọi là Duyên
sinh, Y tha khởi : sự nương tựa vào các yếu tố khác mà sinh
khởi, hình thành, hiện hữu ; tùy thuộc phát sinh.
-
(2) Diệt trừ, xả bỏ,
chuyển hóa (Pàli : uccheda)
-
(3) Hình thể (sắc),
cảm thọ (thọ), ấn tượng của tri giác (tưởng), ý chí tạo tác
(hành), và tri giác hiện hữu (thức).
-
(4) Khoảng thời gian
rất ngắn giữa 2 biến cố, nhỏ hơn rất nhiều so với đơn vị thời
gian là giây (Pàli : khana).
-
(5) Thanh tịnh đạo
luận (Visuddhimagga)
-
CÂU HỎI :
-
1) Định nghĩa về các
chi phần trong mười hai nhân duyên.
-
2) Trình bày mối liên
hệ và sự vận hành của các chi phần nhân duyên đối với đời sống
của con người.
-
3) Từ giáo lý mười
hai nhân duyên, bạn có suy tư gì về đời sống tu tập của cá nhân?
-
|
|