|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Ý Nghĩa Nghi Lễ Phật Giáo
-
Thích Viên Giác
-
--o0o--
-
-
I. LỜI NÓI ĐẦU :
-
Các nhà nghiên cứu tôn giáo cho rằng một tôn giáo phải có đủ 3
yếu tố : Triết học , nghi lễ , và thần thoại . Phật giáo là một
tôn giáo nên cũng có đủ 3 yếu tố trên . Tuy nhiên , là một tôn
giáo không có thượng đế nên yếu ot61 nghi lễ và thần thoại của
Đạo Phật mang sắc thái và ý nghĩa khác . Mặt khác hai yếu tố này
đối với Phật giáo không được nhấn mạnh .
-
Thời Đức Phật còn tại thế , bàlamôn giáo rất chú trọng nghi lễ
tế tự được coi là hàng đầu . Nghi lễ là đặc quyền của tu sĩ . Ý
nghĩa của nghi lễ là sự giao tiếp giữa các tu sĩ với Thượng Đế ,
Thần linh , điều mà mọi người bình thường không với tới được
.Đức Phật là người đã công kích một cách mạnh mẽ vào thành trì
nghi lễ ấy , rõ ràng từ thuở ban đầu Đạo Phật đã từ bỏ một ý
nghĩa nghi lễ như vậy .
-
Sau khi Đức Phật nhập diệt , đời sống của Tăng đoàn có thay đổi
, do sự thích nghi với phong tục tập quán , đáp ứng nhu cầu của
quần chúng để tồn tại và phát triển , vấn đề nghi lễ được đặt ra
.
-
Đạo Phật Việt
Nam
chịu sự ảnh hưởng Đạo Phật Trung Hoa và chế độ phong kiến nên đã
du nhập học thuật của Khổng , Lão và tín ngưỡng dân gian . Do đó
, khía cạnh nghi lễ của Phật giáo khá phức tạp và phát triển khá
mạnh mẽ . Nhất là thời kỳ phong kiến kéo dài nghi lễ tế tự được
ưa chuộng khuyến khích . Vì vậy , triết lý đạo Phật cao siêu và
trong sáng mà vẫn không khống chế hay giới hạn nổi sự phát triển
của nghi lễ . Nói cho công bằng thì nghi lễ cũng là góp phần một
cách thiết thực và hiệu quả trong công cuộc hoằng pháp lợi sanh
, điều mà bậc tiền bối , Tổ sư thường nhấn mạnh rằng : nghi lễ
dù quan trọng vẫn chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sinh vào đạo
, chứ không phải là con đường thật sự đạt đến giác ngộ .
-
II. ĐỊNH NGHĨA :
-
*Nghi : là dáng , mẫu , nghi thức , nghi lễ , khuôn phép …
-
* Lễ : là lễ giáo , lễ bái , cúng tế , tôn thờ , cung kính …
-
- Nghi lễ như vậy có ý nghĩa rất rộng , bao trùm hành vi , thái
độ , tín ngưỡng , văn hoá ngôn ngữ, phong cách của con người và
xã hội . Trong nghĩa hẹp thì nghi lễ là nghi thức hành lễ tụng
niệm mang tính tín ngưỡng thờ phụng của một tôn giáo .
-
Nghi lễ thường đi đôi với nhạc , lễ và nhạc là triết lý chủ yếu
của nho giáo có tác dụng chuyển hoá con người và xã hội . Đức
Khổng Tử coi lễ rất quan trọng để kiểm soát hành vi , ước muốn
bất thiện của con người , còn nhạc để điều hoà cảm hoá lòng
người . Nhạc và Lễ của nho giáođã ăn sâu vào đường lối cai trị
của quốc gia và quan niệm sống của xã hội thời xưa . Nó ảnh
hưởnh nhất định vào nếp sống của con người và xã hội Á Đông ngày
nay .
-
Nghi lễ Phật giáo cũng có hai phần lễ và nhạc , tuỳ theo truyền
thống văn hoá nghệ thuật của mỗi miền mà phần lễ nhạc Phật giáo
sẽ ảnh hưởng và biểu hiện theo truyền thống ấy , Nghi lễ Phật
giáo mang màu sắc lễ nhạc cổ truyền của dân tộc , là một mảng
của nền văn hoá truyền thống cần phảimtôn trọng bảo tồn .
-
III. Ý NGHĨA CỦA NGHI LỄ :
-
1. Nghi Lễ Biểu Hiện Lòng Tôn Kính Tam Bảo :
-
Để bày tỏ niềm tin , lòng thành kính của mình đối với Đức Phật ,
chánh pháp và chúng Tăng , người phật tử đảnh lễ cúng dường , ca
ngợi Tam bảo . Niềm tin Tam bảo sâu sắc sẽ tạo một sự chuyển hoá
trong tâm hồn con người . Người tu tập dựa vào đức tin cũng có
những tiến bộ tâm linh nhất định . Trong Kinh Trung Bộ , Đức
Phật đề cập đến 7 quả vị tu chứng , trong đó quả vị :" Tuỳ tín
hành" là một ; quả vị này thuộc về tình cảm hay niềm tin vững
chắc đối với Tam bảo .
-
Trong ý nghĩa tôn giáo , nghi lễ là một món ăn tinh thần cần
thiết của tín đồ .
-
Khi mà tâm hồn con người chưa được khai phóng triệt để , nói
cách khác là trình độ nhận thức của tín đồ chưa đạt đến tầm cao
, chưa tự giãi thoát đối với mọi hệ lụy của cuộc đời . Nghi lễ
biểu lộ lòng thành kính trong sạch của tín đồ đối với bậc Đạo sư
, đối với Pháp , đối với Tăng , qua hành vi ngôn ngữ tất nhiên
được coi trọng và khuyến khích , vì đó là hành động tăng thượng
tâm , thiện pháp củng cố , ác pháp tổn giảm .
-
Có người cho rằng , nghi lễ là hình thức không cần thiết họ chỉ
tu tâm thôi , tâm mới quan trọng . Thực ra , tâm có tu hay không
phải coi tướng có ổn định hay không . Trong nghĩa rộng của nghi
lễ thì 3.000 oai nghi , 8 vạn tế hạnh đều là nghi lễ cả .
-
2. Nghi Lễ Nghệ Thuật Hoá Triết Lý :
-
- Nền triết lý của đạo Phật rất cao siêu đối với quần chúng bình
dân khó thâm nhập . Thông qua nghi lễ , đạo lý cao siêu được cảm
nhận bằng trái tim hơn là bằng trí óc . Triết lý được nghệ thuật
hoá có vẻ như nghịch lý; tuy nhiên , cách thể hiện của nghi lễ
lại dựa trên cơ sở triết lý . Điều đó có nghĩa là nội dung và ý
nghĩa nghi lễ không xa rời giáo lý Phật dạy . Có điều mà chúng
ta có thể cảm nhận được bằng trực giác hay bằng tình cảm mà
không thể diễn tả bằng ngôn từ ý niệm . Có những bài tán , kệ
tụng rất thâm thuý , rất hay làm ta xúc động mạnh , làm tâm hồn
ta sáng lên nhưng ta có thể không hiểu hết ý tứ của nó . Đó là
lý do tại sao có những vị thích những bài kệ tụng bằng chữ hán
hơn là dịch ra tiếng việt . Khi nghi lễ chuyên chở được đạo lý
cao siêu thì tín ngưỡng của người Phật tử trở thành pháp môn tu
tập và phương pháp hành đạo
-
- Có những vị thầy chuyên môn về nghi lễ cho rằng nhạc Phật giáo
là một nghệ thuật diễn đạt đời sống tâm linh vượt thoát khổ đau
phiền muộn cũng như mộ thi sĩ sáng tác một bài thơ hay đem đến
cho người thưởng thức một niềm vui nhẹ nhàng và thanh thoát .
Với quan điểm này , họ gợi ý cho ta có cái nhìn về nghi lễ như
là một bộ môn nghệ thuật mà mục tiêu là đem lại an lạc cho tâm
hồn . Ví dụ : Khi ta đi vào một ngôi chùa cổ kính ẩn hiện dưới
những tàn cây râm mát , không gian yên tỉnh , tiếng chuông ngân
nga dìu dặc tiếng mỏ ấm áp vọng đều , những âm điệu của lời kinh
, tiếng kệ , khi thì cao vút , khi thì trầm hùng , vỗ về lắng
dịu ; tất cả những điều ấy làm cho ta lắng dịu tâm hồn , tan
biến những tư dục , những cuồng vọng âu lo phiền muộn. Quả thật
, nghi lễ là một nghệ thuật chuyên chở triết lý vào lòng người .
-
3. Nghi Lễ Là Phương Tiện Độ Sanh :
-
Trong các phương tiện dẫn dắt người vào đạo , nghi lễ là một
phương tiện phổ biến , hiệu quả rất cao , có nhiều người không
bao giờ đi chùa , nhân dịp cha mẹ , ông bà qua đời , quý thầy
giúp đỡ lễ tang , từ đó , họ đi chùa quy y . Nhu cầu về tinh
thần của con người rất lớn . Cầu nguyện là một phương pháp tốt
nhất khi những bất an xảy đến cho họ mà không thể giải quyết
được bằng các phương tiện khác . Không ai có thể nắm chắc những
gì mình có , không ai có thể biết được bao giờ tai nạn sẽ đến ,
mình sẽ chết hay chia tay với người thương . Mặt khác , thể hiện
tình cảm với người đã khuất hay bày tỏ những ước mơ thầm kín đối
với cuộc đời … người ta thường hướng về cầu nguyện bằng những
nghi lễ tôn giáo . Vì nghi lễ đáp ứng cái nhu cầu tinh thần tình
cảm nên dễ thuyết phục quần chúng hơn những bài thuyết pháp đầy
triết lý .
-
Đã là phương tiện thì chúng không phải là chân thật . Vì vậy vị
thầy xử dụng nghi lễ cần có những giới hạn nhất định và nên có
thái độ vô chấp đối với nghi lễ . Nhất là cần tạo cho nghi lễ có
những ý nghĩa giải thoát khổ đau .
-
4. Nghi Lễ Làm Trang Nghiêm Tâm Và Đạo Tràng :
-
Một cuộc lễ đúng cách có tác dụng làm cho tâm hồn định tỉnh ,
chuyên chú trang nghiêm con người rất dễ bị ngoại cảnh tác động
, nên một khung cảnh trang nghiêm có nghi lễ , quy cũ, làm cho
lòng người có những run cảm và ứng xử thích hợp. Nghi lễ sẽ tạo
thành không khí lễ nghĩa , làm cho con người có tập quán đạo đức
hướng về điều tốt điều phải một cách tự nhiên . Ở chổ có mồ mả
thì có cái không khí bi ai ; ở chổ có đền miếu chùa chiền thì có
cái không khí tôn kính . Nhờ nghi lễ mà mọi người tự khép mình
vào trong cái không khí ấy , và điều quan trọng là nghi lễ tạo
ra không khí đạo đức .
-
Khi tiến hành một cuộc lễ, người chủ lễ hay những người tham dự
lễ thân , khẩu, yý , đều thanh tịnh, chuyên chú vào nội dung
cuộc lễ. Như vậy tâm của mọi người đều được trang nghiêm . Ngay
cả những người không theo tôn giáo, hay không thích nghi lễ tôn
giáo, khi họ đứng vào hàng ngũ hay đạo tàng thì tự họ trở nên
cung kính một cách tự nhiên. Nếu một khóa lễ không đảm bảo được
tính nghi lễ thì sẽ không có tác dụng tốt như thế mà nó có thể
phản tác dụng .
-
IV. TÁC DỤNG CỦA NGHI LỄ :
-
Nghi lễ có tác dụng rất lớn đối với các tôn giáo . Phật giáo dù
không coi trọng nghi lễ nhưng nó vẫn chi hối phần lớn các sinh
hoạt phật sự , đôi khi còn là hoạt động chính của một ngôi chùa
; bởi lẽ để đáp ứng nhu cầu của quần chúng và nhu cầu hoằng pháp
.
-
1. Đối Với Quần Chúng
:
-
Phần đông quần chúng đến với đạo Phật qua nhu cầu nghi lễ ,
nghĩa là đến với đạo bằng con đường tình cảm . Một khóa lễ đúng
mức có tác dụng cảm hoá rất lớn không thua một thời pháp hay .
Có nơi nghi lễ lại tác dụng hơn thuyết giảng . Nhu cầu phục vụ
nghi lễ vừa cao rộng vừa gắn bó với các sinh hoạt tinh thần ,
tình cảm , ước muốn , của nhân dân .
-
Chúng ta biết rằng , xã hội Á Đông chịu ảnh hưởng nền văn hoá
nho , Phật, Lão, nhất là Nho giáo. Trong đó, Nhạc lễ là phương
cách chính để cải hoá con người và xã hội. Nhạc lễ đã ăn sâu vào
đời sống tinh thần và đạo đức của con người. Vì vậy, Phật giáo
đã có một gia tài nghi lễ rất phong phú và chiếm một vị trí quan
trọng trong tiến trình duy trì và phát triển đạo pháp .
-
Mối liên hệ của con người trong xã hội rất phức tạp . Trong đó ,
các mối liên hệ tình cảm chiếm phần lớn như là : cúng k#244;ng
bà , cha mẹ tổ tiên , ma chay, hiếu hỷ , âm binh cô hồn , thờ
cúng thần thánh , cầu an , cầu siêu , cưới hỏi , xây dựng nhà
cửa , chúc thọ … Các nghi lễ tôn giáo và lễ hội truyền thống như
: Tết nguyên đán , rằm tháng giêng , lễ Phật Đản , lễ vía Phật,
Bồ tát , Tổ sư , lễ vu lan , rằm tháng mười … Những lễ như vậy
chi phối mạng mẽ đến các sinh hoạt tinh thần , văn hoá của đời
sống nhân dân . Quý thầy được quần chúng coi trọng và ngôi chùa
là nơi diễn ra hầu hết các buổi lễ ấy . Thông qua nhu cầu nghi
lễ , chúng ta tạo được mối quan hệ gắn bó giữa đạo và đời , giữa
người tu hành với quần chúng nhân dân . Qua đó , chúng ta có thể
chuyển hoá họ bỏ ác làm lành , sống có đạo đức , an lạc .
-
2. Đối Với Đạo Pháp
:
-
Duy trì và phát triển đạo pháp là nhiệm vụ của người Phật
tử,phát triển tín đồ là nhiệm vụ của cán bộ Giáo hội, nhất là
các vị trụ trì. Để làm tốt nhiệm vụ đó, người trụ trì phải nắm
vững nghi lễ.Thực hành nghi lễ đúng mức sẽ là phương tiện sắc
bén để hoằng pháp.Tuy nhiên, nếu không vững vàng bản lĩnh, ta có
thể biến nghi lễ thành mê tín dị đoan, biến Đạo Phật thành tà
đạo. Nhu cầu nghi lễ của quần chúng rất khó kiểm soát, có những
yêu cầu về nghi lễ rất phi lý nhưng không ai hướng dẫn hoặc mạnh
dạn bác bỏ nên chúng tồn tại một cách có hại. Người trụ trì vững
chãi về nghi lễ và hiểu rõ ý nghiã của nó sẽ dễ dàng hướng dẫn
quần chúng đi vào chánh pháp. Bằng ngược lại, mình sẽ làm công
không cho tà đạo, tuyên truyền giùm họ những nghi lễ vốn không
được chấp nhận trong đạo Phật, điều đó dẫn đến sự pha loãng phẩm
chất tốt đẹp của đạo Phật.
-
Sử dụng nghi lễ như là phương tiện độ sanh cần phải có định
hướng rõ và nhất quán, nghĩa là nghi lễ phải có ý nghĩa và nội
dung đúng chánh pháp.Như vậy nghi lễ mới có ích cho đạo pháp.
-
V. MẶT TRÁI CỦA NGHI LỄ :
-
Yếu tố nghi lễ đối với Phật giáo không được coi trọng mấy so với
yếu tố triết lý hay tu tập , thiền định . Bởi lẽ , nghi lễ thoả
mãn nhu cầu cảm xúc mang tính sơ khai của một người mới vào đạo
. Vì vậy , nghi lễ dễ bị đi lệch hướng , dẫn đến hạ thấp giá trị
của nghi lễ . Nghĩa là cũng có những tác dụng tiêu cực , có thể
có 3 phương diện tiêu cực như sau :
-
1. Nghi Lễ Là Phương Tiện Kiếm Sống :
-
Có một bộ phận Tăng Ni hành nghề cúng bái để sinh sống ; họ đáp
ứng mọi yêu cầu về nghi lễ của quần chúng với điều kiện giá cả
thoả thuận có chùa còn niêm yết bảng giá của một khoá lễ là bao
nhiêu , tuỳ theo thời kinh dài hay ngắn, lễ lớn hay nhỏ . Vai
trò của họ một mặt nào đó cũng góp phần vào công việc hoằng pháp
nhưng chủ yếu là lợi ích về kinh tế . Họ không cần phải thực
hành nghi lễ đúng chánh pháp mà tuỳ thuộc vào đối tượng cần cái
gì theo tiêu chuẩn của kinh tế thị trường :" Khách hàng là
thượng đế". Vì vậy , lễ nào cũng đáp ứng sẽ làm cho giá trị của
nghi lễ bị hạ thấp . Qua đó , một bộ phận nhân dân ngoài xã hội
nhìn vào đạo Phật qua khía cạnh nghi lễ của các vị này , và họ
xem đạo Phật như là một loại tín ngưỡng dân gian thấp kém .
-
Một vị tu sĩ trở nên một thầy cúng , thường thì không cần phải
tinh chuyên giới luật hay học hành kinh luận gì , chỉ cần nắm
một ít nghi lễ là được . Đó là tai hại của nghi lễ trong ý nghĩa
tiêu cực .
-
2. Nghi Lễ Và Mê Tín Dị Đoan :
-
Vấn đề nghi lễ chân chính, đúng chánh pháp và nghi lễ không đúng
chánh pháp ít ai đặt ra cho phân minh . Sự mập mờ của nó làm cho
nghi lễ dễ bị lệch lạc . Nhu cầu nghi lễ của quần chúng rất đa
dạng và phức tạp . Tuỳ theo tín ngưỡng địa phương , phong tục
tập quán văn hoá của từng vùng mà yêu cầu nghi lễ trở nên phức
tạp đa dạng . Tiêu chuẩn của nghi lễ chân chính không rõ , chỉ
dựa vào trình độ của một vị thầy mà sắc thái nghi lễ của nơi ấy
đúng hay sai . Ngày xưa có một số người ngoài xã hội , họ hành
nghề bối toán thiên văn , địa lý , ngày giờ tốt xấu , trừ tà ,
trừ quỷ , rước hồn vớt xác , cúng hình nhân thế mạng , đốt vàng
mã … Ngày nay các loại nhu cầu ấy đều nằm ở trong chùa . Có nhu
cầu đương nhiên phải giải quyết nhu cầu . Nếu vị trụ trì không
vững chãi , không đủ trình độ thì dễ dàng biến chùa thành nơi
hoạt động mê tín dị đoan .
-
Mê tín hay chánh tín khác nhau căn bản ở chổ ý nghĩa đạo lý của
nghi lễ ấy , nội dung phải phù hợp với đạo lý nhân quả , nghiệp
báo , duyên sinh . Nếu người chủ lễ thông suốt về nội dung và
mục đích của cuộc lễ , có thể biến tà đạo thành chánh đạo . Như
chàng Sigala theo ngoại đạo lễ bái lục phương với ý nghĩa cầu
thần 6 phương phù hộ Đức Phật chỉ cho anh ta ý nghĩa khác mang
tính đạođức hơn . Đó là 6 mối quan hệ trong gia đình và xã hội .
Nhờ vào sự hướng dẫn sáng suốt của các vị trụ trì , quần chúng
sẽ dần dần chuyển hướng đúng theo chánh pháp .
-
3. Nghi Lễ Làm Cho Đạo Phật Thuần Tuý Tín Ngưỡng :
-
Nghi lễ nếu được coi trọng thực hành thường xuyên và không có gì
thêm nữa thì nó sẽ đưa đạo Phật trở thành tín ngưỡng thuần tuý .
Nghĩa là đạo Phật sẽ đánh mất phần cao siêu và giá trị là trí
tuệ và giải thoát . Niềm tin vào thần thánh , cúng tế cầu nguyện
là tín ngưỡng phổ thông . Nếu không có phần triết lý đạo học ,
thì đạo Phật sẽ đứng ngang hàng với các tín ngưỡng dân gian khác
. Nghi lễ như vậy không còn là phương tiện nữa mà trở thành mục
đích cứu cánh .
-
Có nhiều người nhìn Đạo Phật qua các khía cạnh tín ngưỡng , coi
những người phật tử là những người chuyên :" Cầu trời khẩn Phật"
và những ông thầy tu chỉ biết quỳ gối lạy lục cầu xin . Tín
ngưỡng dù là một loại hình văn hoá nhưng nó không biểu hiện sự
giải thoát giác ngộ và thoát khổ được Đạo Phật chỉ coi tín
ngưỡng là bước đầu tiên mà thôi . Do đó , nghi lễ dễ biến đạo
Phật thành một loại tín ngưỡng thuần tuý .
-
VI. KẾT LUẬN :
-
Nghi lễ Phật giáo là một pháp môn tu tập cũng có tác dụng chuyển
hoá khổ đau , làm giảm áp lực của tham lam , sân hận , si mê .
Mặt khác , đó là một phương tiện hoằng pháp lợi sanh rất có hiệu
quả . Suốt gần 2.000 năm , đạo Phật có mặt trên đất việt , nghi
lễ Phật giáo đã tạo thành những dấu ấn tín ngưỡng văn hoá , đã
xây dựng nền đạo đức và truyền thống văn hoá tâm linh của dân
tộc việt .
-
Để tiếp tục thực hiện tốt đẹpchức năng của nghi lễ Phật giáo ,
trong thời hiện đại , chúng ta cần phải quan tâm hơn việc thay
đổi những gì không còn phù hợp , để làm cho nghi lễ vẫn là nét
văn hoá đẹp của xã hội và đáp ứng nhu cầu hoằng pháp trong thế
kỷ mới ./
-
- --o0o--
|
|