|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Giáo
- Một Nguồn
Hạnh Phúc
- Hòa
Thượng Piyadassi
-
Phạm Kim Khánh dịch Việt, Sài gòn 1972
-
--o0o--
-
-
Vài lời cùng bạn đọc
-
Chúng ta hiện đang
sống trong thời đại khoa học - thời đại mà con người có khuynh
hướng chỉ chấp nhận điều gì là chơn lý sau khi đã thận trọng
quan sát và thí nghiệm, hơn là vì tin tưởng suông. Với những
tiến bộ mới đây của khoa học, lối nhìn của con người càng ngày
càng trở nên thuần lý, và đức tin mù quáng đã nhanh chóng biến
tan.
-
Nói chung, khoa học
đã phần nào là mối đe dọa đối với tôn giáo. Từ thời Copernicus,
Galileo và Bruno (thế kỷ thứ 17), con người đã làm suy giảm ít
nhiều ý niệm sai lầm về vũ trụ, sự đe dọa nầy đã trổi lên chống
lại nhơn sinh quan và vũ trụ quan của tôn giáo. Học thuyết về sự
tiến hóa và về khoa tâm lý của thời hiện đại không trùng hợp với
quan niệm đã được chấp nhận của các tôn giáo, về con người và
tâm linh, ghi chép trong các "văn phẩm có tánh cách thiêng
liêng".
-
Phật giáo có chịu
chung một số phận với các tôn giáo không? Khoa học hiện đại có
nhìn Phật Giáo với cái nhìn bất thân thiện không? Dầu các nhà
phê bình Phật Giáo có thể nói như thế nào, người đọc Giáo Pháp
nguyên thủy của Đức Phật sẽ nhận định rằng những nguyên tắc căn
bản của đạo Phật luôn luôn hòa hợp với các phát minh hiện đại
của khoa học.
-
"Khi đề cập đến các
vấn đề tôn giáo và luân lý, Phật Giáo nhấn mạnh đến tầm quan
trọng của lối nhìn khoa học. Những "tín điều" Phật Giáo được cho
biết là có thể kiểm nhận. Và lối giải thích bản chất con người
và vũ trụủa Phật Giáo hòa hợp với những phát minh khoa học, hơn
là có sự khác biệt....
-
"Lẽ dĩ nhiên, trong
kinh điển Phật Giáo không có lý thuyết đề cập đến sự tiến hóa
sinh lý. Tuy nhiên, con người, xã hội, cũng như thế gian, được
mô tả là luôn luôn biến đổi và tiến triển theo định luật nhân
sanh quả.
-
"Sau đó, về phần tâm
lý, chúng ta thấy Phật Giáo xem con người như một đơn vị
tâm-vật-lý trong đó phần tâm linh không phải là một linh hồn bất
biến mà là một sự trôi chảy liên tục di động gồm tâm thức cùng
với tiềm thức chứa đựng những xúc cảm còn tiềm tàng trong ký ức,
đi dài trở về thời niên thiếu, cũng như về các kiếp sống quá
khứ. Một cái tâm như thế ấy được cho biết là hoạt động do ảnh
hưởng của ba loại ái dục - ái dục đeo níu theo nhục dục ngũ trần
(kama-tanha), ái dục đeo níu theo sự tự bảo vệ lấy mình
(bhava-tanha), và ái dục đeo níu theo sự hoại diệt
(vibhava-tanha). Ngoại trừ niềm tin có sự tái sanh, một quan
niệm như thế ấy nghe rất tân thời. Và ta không thể không chú ý
đến lối so sánh giữa ba loại ái dục của Phật Giáo và quan niệm
của Freud về eros, libido, và thanatos". (Dr. K. N. Jayatileke,
Religion and Science)
-
Ta phải ghi nhận rằng
lối sống của Phật Giáo, phương pháp của Phật Giáo để vói tay đến
và nắm lấy chơn lý cao thượng nhứt, từ vô minh, thức tỉnh, và
đạt đến tri kiến đầy đủ, không tùy thuộc nơi sự phát triển trí
thức suông, hay khoa học, mà tuỳ thuộc ở một giáo lý thực tiễn
dẫn hàng tín đồ đến giác ngộ và giải thoát. Đức Phật quan tâm
đến chúng sanh, sanh linh, hơn là đến các vật vô tri vô giác.
Chủ đích duy nhất của Ngài là rọi sáng những bí ẩn của kiếp sinh
tồn - cái gì có liên quan đến chúng sanh - và như thế để giải
quyết vấn đề trở thành. Và Ngài làm điều nầy bằng cách thấu
triệt đầy đủ và tận tường Tứ Diệu Đế⬠những chơn lý vĩnh cửu của
đời sống. Sau khi đã thấu đạt, Đức Phật sẵn sàng chia sớt tri
kiến ấy cho những ai tìm hiểu biết và không hề cưỡng bách ai.
Ngài không bao giờ lôi kéo ai, bởi vì thúc đẩy và lôi kéo là
việc làm xa lạ, không có trong phương pháp giáo huấn của đạo
Phật. Phật Giáo không đòi hỏi ở tín đồ một đức tin mù quáng.
Trong buổi sơ thời, người còn hoài nghi sẽ hoan hỉ được nghe lời
kêu gọi, khuyến khích quan sát và suy gẫm. Giáo Huấn của Đức
Phật luôn luôn được mở rộng cho tất cả những ai có mắt muốn thấy
và có tâm trí muốn hiểu biết. Thay vì khuyến khích hàng thiện
tín nhắm mắt tin càng, Đức Phật khuyên dạy họ quán xét giáo huấn
của Ngài, và chính lời dạy ấy là lời mời "Hãy đến và thấy"
(ehipassiko). Đó là thấy và hiểu biết, chớ không phải mù quáng
tin càng. Đức Phật muốn như vậy.
-
Hiện nay, người ta
đang gia công trong mọi chiều hướng để cải thiện thế gian. Những
nhà khoa học theo đuổi các phương pháp và các cuộc thí nghiệm
với một lòng nhiệt thành và một ý chí quyết định không hề suy
giảm. Những phát minh của thời hiện đại và những tiến bộ của
ngành giao thông vận tải đã thành đạt nhiều kết quả kinh ngạc.
Tất cả những cải thiện ấy đã đem lại nhiều lợi ích. Tuy nhiên,
bản chất thật sự của những lợi ích ấy hoàn toàn thuộc về vật
chất, và nằm ở lớp ngoài của đời sống. Nhà khoa học đặt thế gian
bề ngoài vào phạm vi hoạt động của mình và hình như hứa hẹn sẽ
biến đổi nó thành một cảnh thiên đàng. Nhưng con người chưa kiểm
soát được tâm của chính mình, mặc dầu đã thành đạt những bước
tiến khá dài về mặt khoa học. Dầu sao, bên trong sự cấu hợp vật
chất và tâm linh của con người còn rất nhiều kỳ quan chưa được
khai phá, và nhà bác học sẽ còn mất nhiều năm nữa để nghiên cứu
tìm tòi.
-
Đối với nhà khoa học,
hiểu biết là cái gì càng ngày càng thắt chặt con người vào kiếp
sinh tồn thiên về nhục dục ngũ trầ và luôn luôn biến đổi này.
Như vậy, đó không phải là thứ hiểu biết có khả năng cứu vãn. Với
người có lối nhìn thế gian và những gì nằm dưới sự chi phối của
thế gian trong bối cảnh thích đáng của nó, mối quan tâm đầu tiên
của đời sống ắt không phải là khảo sát suông, hay vô ích du hành
sâu vào các thâm cung bí hiểm của trí tưởng tượng cao siêu mà
chính là thành đạt cho kỳ được hạnh phúc thật sự và siêu thoát
ra khỏi đau khổ và bất toại nguyện (Dukkha). Đối với hạng người
này, sự hiểu biết thật sự tùy thuộc ở câu hỏi nồng cốt: Học thức
nầy có thích hợp với thực tế không? Nó có giúp được ta chinh
phục trạng thái vắng lặng của nội tâm, trạng thái an tịnh, và
hạnh phúc thật sự không?
-
Những ai không thấu
hiểu tầm quan trọng của giới đức, tánh cách cấp bách phải có tác
phong trong sạch, và sự cần thiết phải áp dụng tri kiến vào đời
sống thì, dưới ánh sáng của Phật Giáo, dầu là bác học hay không,
cũng chỉ là những người chưa trưởng thành, những người còn phải
vượt qua nhiều rào cản nữa mới thắng được cuộc đua của đời sống
và đoạt giải thưởng trường tồn bất diệt của Niết-Bàn, trạng thái
châu toàn tối thượng, và vượt ra khỏi mọi trói buộc.
-
Người muốn học Phật
mà không thể đọc nhiều về Đức Phật và Giáo Pháp của Ngài có thể
tìm thấy quyển sách nhỏ nầy thích thú và hữu dụng. Những vị
khác, thiên về công trình nghiên cứu Phật Giáo sâu rộng và chi
tiết hơn có thể đọc quyển "The Buddha's Ancient Path (Con Đường
Xa Xưa của Đức Phật)" cùng tác giả, do nhà Rider anh Company,
London, xuất bản vào năm 1964.
-
Đức Phật
-
Đức Phật, người sáng
lập tôn giáo to lớn gọi là Phật Giáo, đản sanh ở miền Bắc Ấn-Độ,
vào thế kỷ thứ sáu trước D. L. Tên Ngài là Siddhattha (Bắc Phạn
là Siddhartha), ta âm là Sĩ-Đạt-Ta hay Tất-Đạt-Đa. Gotama, hay
Gautama (Cồ-Đàm) là tên tộc Ngài. Đức phụ hoàng, Suddhodana
(Tịnh Phạn), trị vì toàn thể lãnh thổ của dòng Sakya (Thích-Ca)
tại Kapilavatthu (Ca-Tỳ-La-VệA), vùng ranh giới Nepal. Mahamaya
(Ma-Ha Ma-Da), công chúa của hoàng tộc Koliya, là hoàng hậu của
vua Tịnh-Phạn. Bà chỉ hạ sanh một hoàng nam duy nhất là Thái Tử
Sĩ-Đạt-Ta trong vườn Lâm-Tỳ-Ni (Lumbini), ngày nay là Rummindei,
nằm vào khoảng một trăm dặm Anh, phía Bắc Varanasi (Benares). Từ
nơi này ta có thể nhìn thấy đỉnh núi Hi-Mã-Lạp-Sơn (Himalaya)
phía xa, phủ đầy tuyết trắng. Tại địa điểm lịch sử này - nơi đản
sanh của hoàng tử, vị Phật tương lai - và sau diễn biến hi hữu
này, đức Hoàng Đế A-Dục (Asoka) của xứ Ấn Độ có kiến tạo một
thạch trụ hùng vĩ, đến nay vẫn còn.
-
Năm dòng chữ, gồm
chín mươi ba mẫu tự Brahmi, loại chữ thông dụng vào triều đại
A-Dục đã được ghi tạc vào trụ đá. Trong những dòng chữ này có
câu: "Hida Budhe Jate Sakyamuni", "Đây là nơi đản sanh của Đức
Phật, bậc hiền thánh dòng Thích-Ca".
-
Theo phong tục thời
bấy giờ, lúc mười sáu tuổi hoàng tử kết duyên cùng một công chúa
xinh đẹp cùng tuổi, tên Yasodhara (Da-Du-Đà-La). Ngài có tất cả
những gì tốt đẹp trong đời và không hề biết thiếu thốn hay phiền
não. Tuy nhiên, càng trưởng thành, càng thuần thục, hoàng tử
thoáng nhìn thấy nỗi khổ đau của thế gian. Càng tiếp xúc với đời
sống bên ngoài những bức tường của cung điện. Ngài càng nhận
định rõ ràng thật không thể tìm ra chơn hạnh phúc trong thế gian
này.
-
Rồi đến khi lên hai
mươi chín, giữa lúc xuân xanh như hoa gấm của thời niên thiếu,
Ngài từ giã đền đài cung điện ngay trong ngày công chúa
Da-Du-Đà-la (Yasodhara) hạ sanh người con trai duy nhất, Rahula
(La-Hầu-La).
-
Từ bỏ ngai vàng cùng
với bao nhiêu hứa hẹn và quyền lực và vinh quang, Ngài rút vào
ẩn dật đơn độc ở chốn rừng sâu vắng vẻ để khép mình vào nếp sống
của hàng tu sĩ và tìm một giải đáp cho bài toán phức tạp của đời
sống. Và mục đích cuối cùng của Ngài là thoát ra khỏi mọi trói
buộc, đạt đến mức châu toàn tối thượng, Niết-Bàn. Đây là một
khước từ vĩ đại.
-
Tự dấn thân vào nhiệm
vụ vô cùng cao cả, cố tìm ra phương thuốc cứu chữa chứng bịnh
phổ thông của đời sống. Ngài đi đó đây trong thung lũng của sông
Hằng (Ganges)
và tự đặt mình dưới sự hưóng dẫn của những đạo sư trứ danh thời
bấy giờ, ước mong rằng các thiền sư lỗi lạc này sẽ vạch ra cho
Ngài con đường giải thoát. Tuy nhiên, trình độ hiểu biết và mức
độ chứng ngộ của các vị này không thể đem lại những gì mong mỏi,
Ngài không thể thỏa mãn được với bất luận thành đạt nào mà không
đưa đến giác ngộ tối thượng. Rồi giã từ, Ngài lại ra đi, cố tìm
cái chưa từng được biết. Năm vị đạo sĩ khác lấy làm khâm phục
đức hạnh của Ngài cũng cùng đi theo, đồng tu với Ngài.
-
Ở Ấn Độ thuở bấy giờ,
và đến nay vẫn còn, có nhiều đạo sĩ tin tưởng mãnh liệt rằng
muốn thanh lọc thân tâm và thoát ra khỏi mọi phiền não của đời
sống, không có cách nào khác hơn là ép xác khổ hạnh, và đạo sĩ
Cồ-Đàm quyết định trắc nghiệm chơn lý này. Ngài bắt đầu cuộc đấu
tranh quyết liệt để khắc phục thân xác, với lòng ước mong rằng,
một khi thoát ly ra ngoài những chao động của thể xác, tâm có
thể vượt đến trình độ cao siêu của sự giải thoát. Ngài cố gắng
đến mức cùng tột. Chỉ ăn lá và rễ cây để sống, va thâu gọn vật
thực đến mức tối thiểu, Ngài đắp y may bằng giẻ rách lượm ở các
đống rác, và ngủ trên giường gai, giữa đám tử thi. Trạng thái
thiếu thốn vật thực quá ư khắc nghiệt sớm biến Ngài thành một
người chỉ còn xương với da.
-
"Ta đã sống khắc khổ
trong nếp kỷ cương của người tu ép xác. Ta sống khắc khổ hơn tất
cả các đạo sĩ khác. Tay chơn ta cung như cọng sậy úa tàn, bỏ
đi..." -- (Trung A-Hàm, bài kinh số 36).
-
Ngài mô tả mức độ khổ
hạnh kinh hoàng của những năm tháng đầu tiên như thế ấy, sau khi
đắc quả Chánh Đẳng Chánh Giác.
-
Sau sáu năm trường
chiến đấu cam go như thế, Ngài đã đến tận ngưỡng cửa của thần
chết, nhưng không nhờ thế mà được gần mục tiêu hơn chút nào.
Chính bản thân Ngài đã kinh nghiệm rằng lối tu khổ hạnh khắt khe
quả thật rõ ràng vô ích. Cuộc trắc nghiệm của Ngài đã thất bại.
Tuy nhiên, tâm của Ngài không hư hoại mà vẫn hoạt động tích cực
để tìm một lối đi mới, hầu đến mục tiêu hằng khao khát. Ngài
biết rằng với thể xác hao mòn và tiều tụy đến mức ấy, dầu có
theo con đường nào chăng nữa cũng không thể hi vọng thành công.
Do đó, đạo sĩ Cồ-Đàm từ bỏ lối tu khắc khổ và nhịn ăn uống đến
mức cùng cực. Ngài bắt đầu ăn uống chút ít. Tấm thân gầy còm của
Ngài dần dần bình phục và sức khoẻ vô cùng yếu kém cũng sớm phục
hồi. Bấy giờ đến lượt năm đạo sĩ đồng tu với Ngài rất thất vọng
về quyết định này của Ngài vì các vị ấy lầm tưởng rằng Ngài đã
từ bỏ các cố gắng, để trở về nếp sống dồi dào phong phú như xưa.
-
Tuy nhiên, với tâm
quyết định vững chắc, đặt niềm tin trọn vẹn nơi trạng thái trong
sạch và năng lực của chính Ngài, không có sự hỗ trợ của một vị
đạo sư nào, không đồng tu với bất luận ai, đơn độc một mình, Đức
Bồ Tát cương quyết thành đạt mục tiêu cuối cùng trong khung cảnh
hoàn toàn cô đơn tịch mịch. Ngồi tréo chơn dưới một cội cây mà
sau này được gọi là "Bồ đề", cây giác ngộ, bên bờ sông Neranjara
(Ni-Liên-Thiền), tại Gaya (nay là Buddha-Gaya, Bồ đề Đạo Tràng),
một địa điểm "hữu tình, làm mát dịu giác quan và kích thích tâm
trí". Rồi, nhứt định tập trung mọi nỗ lực cuối cùng, quyết không
mảy may chùng bước.
-
"Dầu chỉ còn lại da,
gân, và xương, máu và thịt đã khô cạn và tan mất, ta sẽ không xê
dịch khỏi nơi nầy cho đến ngày chứng ngộ quả Toàn Giác".
-
Cố gắng không biết
mệt, nhiệt thành không thối chuyển, Ngài quyết chí chứng ngộ
Chơn Lý và thành đạt đạo quả Chánh Đẳng Chánh Giác.
-
Đức Bồ-Tát bắt đầu
chăm chú vào "hơi thở ra - thở vào ', niệm sổ tư'c quan
(anapanasati), nhập và an định trong bốn tầng Thiền, từ Sơ Thiền
đến Tứ Thiền.
-
Trong khi ngồi tham
thiền như thế Ngài chứng ngộ thực tướng của Bốn Chơn Lý Cao
Thượng (Tứ Diệu Đế): 1.- Đây là khổ, hay bất toại nguyện
(Dukkha). 2.- Đây là sự phát sanh cuả trạng thái khổ. 3.- Đây là
sự chấm dứt của trạng thái khổ. 4.- Đây là con đường dẫn đến sự
chấm dứt trạng thái khổ. Ngài thấu đạt đúng như thật: đây là
những ô nhiễm, những hoặc lậu (asavas), đây là sự phát sanh
những ô nhiễm, đây là sự chấm dứt những ô nhiễm, đây là con
đường dẫn đến sự chấm dứt những ô nhiễm.
-
Đến đây Ngài thốt ra
những lời của người chiến thắng:
-
"... Tri kiến và nhãn
quan đã phát sanh đến ta. Tâm siêu thoát của ta không thể lay
chuyển. Đây là kiếp sống cuối cùng của ta. Từ đây ta sẽ không
còn trở thành, không còn tái sanh." -- (Trung A-Hàm số 26).
-
Vậy, trong ngày trăng
tròn tháng Năm D.L., Đức Bồ Tát Cồ-Đàm đắc quả Vô Thượng, Chánh
Đẳng Chánh Giác, bằng cách thấu đạt trọn vẹn và đầy đủ Bốn Chơn
Lý Cao Quí (Tứ Diệu Đế), những chơn lý vĩnh cửu, và trở thành
Đức Phật, bậc Toàn Giác. Lúc ấy Ngài ba mươi lăm tuổi.
-
Hai tháng sau ngày
thành đạo, Đức Phật quyết định hoằng dương Giáo Pháp (Dhamma),
những chơn lý mà Ngài đã chứng ngộ, đến năm vị đạo sĩ trước kia
đồng tu với Ngài. Được biết rằng lúc bấy giờ năm vị ấy đang ở
tại Varanasi (Benares), nơi vườn Lộc Uyển, trong Isipatana (hiện
là Sarnath) và đang ép mình sống đời khổ hạnh vô cùng khắc khe.
Ngài liền rời Đạo Tràng (Gaya), đi từng nhiều chặn, đoạn đường
dài 150 dậm Anh đến Thánh địa này. Đến đây Ngài gặp năm đạo sĩ
trong vườn Lộc Uyển.
-
Trong ngày trăng tròn
tháng bảy D.L., vào buổi hoàng hôn, khí mặt trăng bắt đầu ló
dạng giữa bầu trời ấm áp của phương Đông thì Đức Bổn Sư truyền
dạy năm đạo sĩ như sau:
-
"Này chư Tỳ-Khưu, có
hai cực đoan mà hàng xuất gia phải tránh. Hai cực đoan ấy là gì?
Một đàng là dể duôi trong cực lạc, và đàng khác là thiết tha gắn
bó trong lối tu khổ hạnh. Cả hai đều thấp hèn, không xứng phẩm
hạnh của bậc Thánh, Nhơn và không dẫn đến giải thoát. Từ bỏ cả
hai cực đoạn ấy, Như-Lai đã chứng ngộ con đường Trung Đạo, đem
lại nhãn quan và tri kiến và đưa đến an tịnh, trí tuệ cao siêu,
giác ngộ và Niết Bàn. Và, này chư Tỳ-Khưu, con đường Trung Đạo
là gì? Chính là Bát Chánh Đạo: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh
Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh
Định".
-
Như thế, Đức Thế Tôn
đã công bố Giáo Pháp và vận chuyển "Bánh xe Giáo Pháp" vô song
(Anuttaram dhammacakkam).
-
Đến khi số người xuất
gia theo Ngài lên đến sáu mươi, Đức Phật ngỏ lời với các vị ấy
như sau:
-
"Hãy ra đi, rày đây
mai đó, vì sự an lành và hạnh phúc của chư thiên và nhân loại,
vì lòng bí mẫn đối với thế gian. Mỗi người hãy đi một ngã. Hai
người không cùng đi về một hướng. Hãy hoằng dương Giáo Pháp,
toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo trong phần khai triển, và toàn hảo
ở đoạn cuối, toàn hảo trong cả hai, tinh thần và văn tự...". --
(Tạng Luật I trang 10 - Tạp A-Hàm câu 420).
-
Và như thế, Đức Phật
bắt đầu sứ mạng cao cả của Ngài. Sứ mạng này sẽ liên tục kéo dài
đến khi Ngài xuất thế. Cùng với chư vị đệ tử, Ngài đi trên các
đường lớn và các nẻo nhỏ của xứ Ấn, bủa rộng vong hào quang từ
bi và trí tuệ vô lượng vô biên của Ngài bao trùm tất cả.
-
Trên đường hoằng
Pháp, Đức Phật không bao giờ có sự phân biệt nào về chủng tộc,
đẳng cấp hay giai cấp. Nam, phụ, lão, ấu, từ những tầng lớp rất
khác nhau trong xã hội - người bần cùng, thiếu kém, kẻ thấp hèn,
người lạc lõng, học thức cùng đinh, bậc hoàng tử, và lớp người
nghèo nàn đói rách - đều lắng tai nghe lời Ngài chỉ giáo về con
đường an tịnh và giác ngộ.
-
Đức Phật chấp nhận
vào Giáo Hội những người từ mọi giai cấp và đẳng cấp mà không có
sự phân biệt nào, mỗi khi Ngài biết rằng các vị này xứng đáng
sống đời thiêng liêng đạo hạnh. Về sau, vài vị trong nhóm này đã
trở nên lỗi lạc. Vào thời bấy giờ, Đức Phật là vị giáo chủ duy
nhứt gia công hàn gắn và pha trộn lẫn nhau trong tinh thần tương
thân đoàn kết và nhân nhượng khoan dung những người mà trước kia
giai cấp và đẳng cấp xã hội đã làm xa cách. Đức Phật cũng nâng
cao quy chế hàng phụ nữ ở Ấn và đối xử với hạng nữ lưu một cách
thanh nhã và xứng đáng. Ngài cũng chỉ dạy cho nữ giới con đường
dẫn đến an tịnh, trong sạch và siêu thoát.
-
Việc làm của Đức Phật
luôn luôn phù hợp với giáo huấn mà Ngài truyền dạy. Vì lẽ ấy,
hành động của Ngài luôn luôn đượm nhuần tánh chất Từ, Bi, Hỷ, Xả
vô lượng vô biên.
-
Đức Phật không khi
nào khuyến khích gây gỗ, tranh chấp, hay thù hạn oán ghét nhau.
Có lần Ngài dạy các vị đệ tử:
-
"Như Lai không cải vả
với thế gian, này chư Tỳ-Khưu, chính thế gian cãi vã với Như
Lai. Một người truyền bá Giáo Pháp không khi nào cải vã với bất
luận ai trong thế gian".
-
"Không bao giờ có
trường hợp Đức Phật nổi giận. Không bao giờ có cơ hội để một lời
nói kèm từ bi thoát ra từ miệng Ngài". Ngài Radhakrishnan nói
như thế.
-
Sau bốn mươi lăm năm
hoằng dương Giáo Pháp một cách rất vẻ vang, Đức Phật nhập
Niết-Bàn vào lúc tuổi thọ được tám mươi, tại Kusinara
(Câu-Thi-La-Nại, hiện nay là Uttara Pradesh, vào khoảng 120 dặm
Anh Đông Bắc Varanasi).
-
Di huấn tối hậu của
Ngài là:
-
"Tất cả các pháp hữu
vi đều có đặc tánh luôn luôn biến đổi. Hãy tinh tấn chuyên cần".
-- (Trường A-Hàm - Kinh Đại Niết Bàn số 16).
-
Mặc dầu chỉ bắt đầu
với sáu mươi vị, Giáo Hội Tăng Già - đoàn thể các đệ tử của Đức
Phật - dần dần nới rộng đến hàng ngàn và do số tỳ-khưu tăng
trưởng, chùa chiền đã được kiến tạo, và về sau, các Đại Học được
mở, như Nalanda và Vikramashilà, trở thành những trung tâm văn
hóa có ảnh hưởng đến toàn thể Á Châu, và xuyên qua văn hóa Á
Châu, đến đời sống tâm linh của nhơn loại.
-
Phật Giáo đã thâm
nhập vào nhiều quốc gia, và ngày nay là tôn giáo của trên sáu
trăm triệu người, hơn một phần năm dân số của toàn thể thế giới.
Hiện nay Phật Giáo đã được thiết lập tại Tích Lan, Miến Điện,
Cam-Bốt, Lào, Việt Nam, Nepal, Tây Tạng, Trung Quốc, Nhựt Bổn,
Mông Cổ, Cao-Ly, Đài Loan, một vài nơi ở Ấn Độ, Chittagong ở Hồi
Quốc, Mã-Lai-Á và một vài nơi ở Nam-Dương. Nhiều quốc gia phương
Tây cũng có thể được thêm vào bảng nầy, với những Giáo Hội
Tăng-Già Phật Giáo mới thành lập.
-
Vài Đặc Điểm của Đức Phật.
-
Đặc điểm nổi bật
nhứt, làm cho Đức Phật khác hẳn tất cả các vị giáo chủ khác là
Ngài chỉ là một con người, không có liên quan gì đến Thần Linh
hay đấng Tối Cao nào. Ngài không phải Thần Linh, không phải hiện
thân của Thần Linh, cũng không phải hiện thân của bất luận nhơn
vật thần thoại nào. Ngài là người, nhưng là một người siêu nhơn,
một người phi thường (acchariya manussa). Bên trong, Ngài vượt
hẳn lên khỏi trạng thái người, mặc dầu bề ngoài Ngài có một đời
sống như tất cả mọi người. Vì lẽ ấy, người ta tôn Ngài là chúng
sanh Duy Nhứt, một nhơn vật hi hữu (purisuttama), một vị Phật,
một đấng Toàn Giác.
-
Do hạnh tinh tấn
chuyên cần của chính Ngài, không có sự hổ trợ của một vị thầy
nào, dầu ở cảnh Trời hay cảnh người, Đức Phật thành tựu viên mãn
trình độ trí thức và tinh thần cao siêu nhứt, đã đến mức thanh
tịnh tuyệt đỉnh và toàn hảo trong những phẩm hạnh cao quí nhứt
của bẩm tánh con người. Ngài là hiện thân của bi mẫn và trí tuệ
(karuna và panna) và hai đặc tánh này là phương châm lãnh đạo
trong Giáo Pháp của Ngài.
-
Do kinh nghiệm bản
thân, Đức Phật thấu đạt khả năng vĩ đại của con người. Không bao
giờ Ngài tự xưng là cứu tinh và không bao giờ Ngài cố gắng cứu
rỗi những "linh hồn" bằng một tôn giáo thần khải. Xuyên qua hạnh
tinh tấn kiên trì và trí tuệ tuyệt đỉnh của Ngài, Đức Phật chứng
tỏ rằng bên trong mỗi người đều có tiềm tàng những khả năng vô
cùng tận, và chính con người phải cố gắng và phát huy và khai
triển các khả năng vĩ đại ấy. Do kinh nghiệm của chính bản thân
Ngài, Đức Phật chứng minh rằng khả năng giác ngộ và siêu thoát
nằm hoàn toàn và trọn vẹn trong tay của con người, Đức Phật là
một nhà truyền giáo chủ trương đời sống chuyên cần tinh tấn.
Bằng những lời rõ ràng, minh bạch, và bằng gương lành trong
sạch, Ngài khuyến khích những ai theo chơn Ngài hãy trau dồi đức
hạnh, hãy tự tin, tự nương tựa nơi chính mình mà không nên ỷ lại
nơi ai khác.
-
Cũng chính Đức Phật
là người đầu tiên trong lịch sử nhơn loại dạy rằng con người có
thể thành đạt sự giải thoát của chính mình mà không cần một tha
lực nào từ bên ngoài, rằng để thoát ra khỏi mọi đau khổ, mọi
nghịch cảnh, hay bất toại nguyện, của đời sống, con người phải
tự đặt mình lên hòn đe rồi, bằng hành động của chính mình tự
mình uốn nắn mình. Đức Phật hằng khuyên nhủ hàng môn đệ không
nên trao gánh nặng của mình lại cho ai hay cho một tha lực nào ở
bên ngoài (một đấng Cứu Thế, một thần linh, hay một đấng Brahma
- Phạm Thiên). Ngài hướng các đệ tử vào con đường phân biện,
phân giải, nghiên cứu, và thúc giục các vị ấy nên chuyên chú vào
nhiệm vụ thực tiễn là phát triển những năng lực và đức độ bên
trong mình. Ngài dạy:
-
"Như Lai chỉ dạy các
con về con đường giải thoát qua Giáo Pháp và Chơn Lý. Mỗi người
phải tự mình chứng ngộ cho mình". -- (Trung A-Hàm số 38).
-
Các bậc Toàn Giác,
những người đã thấy Chơn Lý, là những người thật sự có thể giúp
ta. Nhưng người Phật tử không van ái cầu nguyện các Ngài. Người
Phật tử chỉ tôn trọng bậc khả kính đã khám phá ra Chơn Lý và đã
chỉ dẫn con đường đưa đến hạnh phúc thật sự và giải thoát hoàn
toàn. Và giải thoát là cái gì mà mỗi người phải tự mình đạt lấy
cho mình.
-
Không ai có thể ban
bố giải thoát cho người khác vì người ấy chỉ làm có một việc là
van vái, nguyện cầu mình. Một cách gián tiếp, ngưòi khác có thể
đưa đến ta một cánh tay hỗ trợ. Nhưng trạng thái siêu thoát cao
thượng nhứt chỉ có thể thành đạt bằng cách tự mình chứng ngộ
Chơn Lý, tự mình giác tỉnh. Và tự chứng ngộ chỉ có thể đến với
ai không còn phải suy tư về những vấn đề của mình, không còn trở
ngại, hay gai chướng. Mỗi cá nhơn phải tự mình cố gắng thích ứng
và phá tan những xiềng xích đã giữ mình vào vòng trói buộc,
thành đạt sự siêu thoát ra khỏi mọi thằng thúc của kiếp sinh tồn
bằng kiên trì, tinh tấn và minh sát, chớ không phải bằng van
vái, nguyện cầu, hay những lời thỉnh nguyện hướng về một đấng
Tối Cao.
-
"Chính con người phải
tự mình quyết định kiên trì nổ lực, vươn lên, và mở đường đến
tận cánh cổng đưa vào tự do. Và, bất luận lúc nào, con người
luôn luôn có đủ khả năng để làm việc ấy. Cánh cổng không bao giờ
đóng lại. Chìa khoá cũng không bao giờ nằm trong tay ai khác mà
ta phải van vái nguyện cầu để được ban bố. Cánh cửa không bao
giờ gài, đóng, hay khóa, trừ phi chính con người đã gài, đóng,
và khóa nó lại".
-
Các nhà sư Phật Giáo
không phải là những giáo sĩ có quyền năng ban hành các nghi thức
lễ bái hay cúng tế, không thể làm phép rửa tội. Nhà sư Phật Giáo
không thể và không phải là trung gian giữa người và những "năng
lực siêu nhiên", bởi vì giáo lý của nhà Phật dạy rằng mỗi người,
mỗi cá nhơn - dầu tu sĩ hay cư sĩ - chỉ có thể chịu trách nhiệm
cho sự giải thoát của riêng mình. Do đó, không cần phải van vái
cầu xin ân huệ của một giáo sĩ trung gian nào.
-
"Chính các con phải
chuyên cần tinh tấn, Chư Phật chỉ là những người vạch ra con
đường" -- (Kinh Pháp Cu,?226;u 276).
-
Đường ấy là con đường
xa xưa từ bao giờ, con đường mà các bậc Toàn Giác của mọi thời
đại đã trải qua và đã rọi sáng cho thế gian. Đó là Bát Chánh
Đạo, dẫn đến Giác Ngộ, và trạng thái châu toàn cao thượng nhứt -
Niết Bàn.
-
Một đặc điểm lỗi lạc
khác của Đức Phật là không bao giờ Ngài dành riêng cho Ngài
trạng thái giác ngộ tối thượng. Đối với Đức Phật, rõ ràng không
thể quan niệm được một ý tưởng tương tợ. Trạng thái giác ngộ
toàn hảo, sự khám phát và chứng ngộ Tứ Diệu Đế, không phải là
đặc ân riêng cho một người nào đã được chọn sẵn từ đâu trên một
cảnh Trời, mà cũng không phải là diễn biến duy nhứt, chỉ xảy ra
một lần, không thể lập lại trong lịch sử nhơn loại. Đây là sự
thành tựu nằm trong phạm vi khả năng của tất cả mỗi ai kiên trì
cố gắng để đạt đến trạng thái thanh tịnh toàn hảo, trí tuệ thật
sự cao siêu, và có một ý chí sắt đá để trau dồi tròn đủ Bát
Chánh Đạo.
-
Trong khi truyền bá
Giáo Pháp, Đức Phật không bao giờ có bất luận sự phân biệt nào
giữa hàng đệ tử, bởi vì không bao giờ có sự thiên vị, không bao
giờ Ngài chọn riêng vị đệ tử nào để ban ân huệ, và trước khi
nhập diệt Ngài cũng không giao phó cho riêng vị nào nhiệm vụ bảo
tồn đạo giáo, cũng không chỉ định vị nào để kế vị Ngài. Về điểm
nầy, ta nên ghi nhận rằng trước khi xuất thế, Đức Phật minh định
rõ ràng không bao giờ Ngài có ý kiểm soát Giáo Hội Tăng-Già,
đoàn thể tu sĩ mà Ngài thành lập. Ngõ lời cùng đông đảo chư môn
đệ, lúc ấy tụ tập quanh Ngài trước giờ Đại Niết-Bàn, đức Phật
dạy:
-
"Giáo Pháp và Giới
Luật (Dhamma và Vinaya) mà Như-Lai thiết lập và ban hành cho các
con, sau khi Như-Lai ra đi, các con hãy xem Giáo Pháp và Giới
Luật ấy là Thầy. -- (Trường A-Hàm số 16).
-
Lúc Đức Phật còn tại
thế cũng vậy, chính Giáo Pháp và Giới Luật kiểm soát và hướng
dẫn các tỳ-khưu. Ngài không có ban hành những điều răn cắm. Bát
Chánh Đạo - chính là Phật-Giáo thực hành - là một giáo lý cho
người tự do.
-
Giáo huấn của Đức
Phật khuyến khích những ý niệm và những cơ cấu dân chủ. Mặc dầu
Đức Phật sáng suốt cố tránh, không nhúng tay vào chánh quyền,
Giáo Hội Tăng-Già mà Ngài thành lập có tách cách hoàn toàn dân
chủ.
-
"Nhiều người lấy làm
ngạc nhiên mà được biết rằng trong giáo đoàn Phật Tử Ấn Độ, hơn
hai ngàn năm trăm năm về trước, đã có những căn bản nồng cốt cho
Quốc Hội chúng ta ngày nay". Hầu Tước Setland, nguyên Phó Vương
tại Ấn Độ nói như vậy.
-
Những qui tắc mà Đức
Phật đã căn cứ vào đó để thành lập Tăng đoàn, chí đến nay, trong
các quốc gia Phật Giáo, các tu sĩ thành viên của Tăng đoàn vẫn
còn theo nguyên vẹn. Cũng như Hầu Tước Setland nói trên: "Ông
Chủ Tịch", "Ông Trưởng Khối", "Túc số", "Lá thăm", "Phương thức
biểu quyết sau khi đọc", "Phương thức thảo luận", "Chương trình
nghị sự", tất cả những hình thức ấy vẫn còn được tiếp tục áp
dụng trong các buổi họp của Tăng đoàn, ngày nay cũng như thuở
nào. Chí đến ý niệm về phương thức ủy quyền bầu cử ngày nay cũng
đã có ghi trong Tạng Luật.
-
Một đặc điểm khác của
Đức Phật là phương pháp truyền bá Giáo Lý. Ngài nhứt định không
chấp nhận lối giáo huấn bao gồm "mật nghĩa"."Mặt nghĩa là dấu
hiệu của một giáo lý giả mạo". Chính là lời của Đức Phật.
-
"Giáo Pháp mà Đức Như
Lai bậc Toàn Giác, đã công bố rạng tỏ khi được trình bày chớ
không phải lúc đem giấu". -- (Tăng Nhứt A-Hàm, I).
-
Với Đức Ananda vị đệ
tử thân tín, Ngài tỏ bày như sau:
-
"Này Ananda, Như Lai
đã truyền dạy Giáo Pháp mà không có sự phân biệt nào giữa giáo
lý công truyền và giáo lý bí truyền. Vì tôn trọng Chơn Lý, này
Ananda, Như Lai không bao giờ có bàn tay nắm lại của ông thầy
còn giữ lại một vài bí ẩn chánh yếu, không truyền hết cho học
trò".
-
Đức Phật công bố Giáo
Pháp một cách tự do, đồng đều cho tất cả mọi người, và không bao
giờ muốn giữ lại điều gì, không bao giờ Ngài làm điều gì để ép
buộc hàng đệ tử phải có đức tin mù quáng hay một thái độ quì lụy
đầu hàng nơi giáo lý, hay nơi chính Ngài. Đức Phật hằng nhấn
mạnh điểm cần phải có tinh thần quan sát, phân giải, và thận
trọng dò xét. Trong một bài kinh được gọi rất đúng là: "Hiến
Chương của Tự Do Tư Tưởng" (Anguttara 1-188-Sutta 65), bằng
những ngôn tử không hề lầm lẫn, Ngài khuyến khích những người
Kalama muốn tìm hiểu, nên sáng suốt dò xét và thận trọng suy tư
trước khi chấp nhận điều gì là chơn lý.
-
Tinh thần Phật Giáo
không phải là chấp nhận tất cả những gì được đề cập đến. Ta có
thể thấy được phần nào tinh thần tự do tư tưởng ấy qua cuộc đối
thoại giữa Đức Thế Tôn và các đệ tử Ngài:
-
- Nếu bây giờ, biết
điều này, và chấp giữ điều này, các con nói: "Chúng ta tôn sùng
Đức Bổn Sư, và vì tôn kính Ngài chúng ta phải tôn kính những gì
Ngài dạy". Các con có nói vậy không?
-
- Bạch Đức Thế Tôn,
không
-
- Này chư đệ tử, có
phải các con chỉ chấp nhận những gì mà chính các con đã nhận
định, thấy, và nắm vững?
-
- Bạch hóa Đức Thế
Tôn, đúng như thế -- (Trung A-Hàm số 17).
-
Và đúng theo thái độ
chơn chánh của người đi tìm chơn lý, trong một bản khải luận
Phật Giáo có câu:
-
"Như người khôn ngoan
sáng suốt thử vàng bằng cách đem ra đốt, và cà trên viên đá để
thử vàng, cùng thế ấy, các con chỉ nên chấp nhận những lời của
Như Lai sau khi đã nghiền ngẫm suy tư, chớ không phải vì tôn
kính Như Lai". -- (Jnanasara - Samuccaya - 31)
-
Giáo Lý của Đức Phật.
-
Giáo Lý của Đức Phật
được gọi là Phật Giáo. Vài người thích xem đó là một tôn giáo,
vài người khác, là một triết lý. Cũng có người nghĩ rằng giáo
huấn ấy bao gồm cả hai phương diện, triết lý và tôn giáo. Tuy
nhiên, đúng hơn, có lẽ ta nên xem đó là một "Lối sống". Nói vậy
không có nghĩa rằng Phật Giáo chỉ là một qui luật đạo đức, ngoài
ra không còn gì khác. Không phải vậy. Phật Giáo là một phương
thức tu tập có tánh cách luân lý, trí thức, và tinh thần, có khả
năng dẫn tâm đến trạng thái siêu thoát. Chính Đức Phật gọi giáo
lý của Ngài là "Dhamma-Vinaya", Giáo Pháp và Giới Luật.
-
Những ai thích xem
Phật Giáo như một tôn giáo nên ghi nhận rằng trong Phật Giáo
không có "Hành động hay đức hạnh cho thấy niềm tin nơi, lòng tôn
sùng hướng về, và ý muốn làm vừa lòng, một oai lực thần thánh
trị vì con người" cũng không có sự thực hành các nghi lễ sùng
bái bao hàm ý nghĩa... nhìn nhận oai lực vô hình nào có quyền
kiểm soát số phận con người và, vì lẽ đó, con người phải vâng
lời, phải tôn kính và sùng bái. (The Shorter Oxford English
Dictionnary, 1965).
-
Đức Phật chỉ là người
vạch ra con đường và hướng dẫn những ai vui lòng đi theo con
đường ấy đến nơi giải thoát riêng rẽ của cá nhơn mình. Người
Phật Tử xin quy y Phật (Buddham saranam gacchami), xin nương tựa
nơi Đức Phật, nhưng làm vậy không phải để được Đức Tôn Sư cứu
vãn. Dài theo con đường xa xôi diệu vợi, những tấm bảng bên lề
chỉ lối đi cho khách lữ hành nhưng chính người đi đường phải tự
mình trông chừng từng bước tiến của mình trải qua suốt cuộc hành
trình. Bảng chỉ đường chắc chắn sẽ không chở khách đem đến nơi
mong mỏi.
-
Lương y chẩn mạch và
kê toa. Nhưng chính bịnh nhơn phải tự mình trắc nghiệm xem thuốc
có công hiệu không. Đối với hàng tín đồ, Đức Phật chỉ có thái độ
của một ông thầy sáng suốt hay một vị lương y giàu lòng bi mẫn.
-
Những ai thích xem
Phật Giáo là một triết lý nên ghi nhận rằng Phật Giáo "không
phải chỉ là sự yêu chuộng trí tuệ, hay lòng ham thích thúc giục
đi tìm trí tuệ".
-
Phật Giáo khuyến
khích đi tìm chơn lý, Nhưng Phật Giáo không phải là một luận lý
suông có tánh cách tranh luận, không phải là một hệ thống lý
thuyết để thỏa mãn tri thức hay một sự thâu thập và một sự tích
trữ những hiểu biết.
-
Đức Phật luôn luôn
nhấn mạnh đến sắc thái thực tiễn của Giáo Lý, đến sự áp dụng tri
kiến vào đời sống, đến sự nhìn vào bề sâu của đời sống chớ không
phải chỉ nhìn suông trên bề mặt. Trí tuệ thành đạt bằng sự thấu
triệt và sự phát triển những đặc tánh của tâm và trí quả thật là
trí tuệ chơn chánh. Đó là hiểu biết một cách châu toàn chớ không
phải chỉ hiểu phớt bề ngoài, không phải chỉ suy luận hợp lý,
cũng không phải chỉ hiểu biết trên lý thuyết.
-
Đối với Đức Phật,
toàn thể giáo lý của Ngài chỉ tập trung vào sự chứng ngộ bản
chất bất toại nguyện của tất cả cách hiện tượng sinh tồn, các
nghịch cảnh của đời sống, và sự trau dồi con đường dẫn thoát ra
khỏi sự bất toại nguyện ấy. Đó là triết lý Phật Giáo Chủ tâm và
mục tiêu của Phật Giáo là giải thích cặn kẽ và trọn vẹn vấn đề
đau khổ hay bất toại nguyện, một sự kiện phổ thông trong đời
sống, làm cho ta nhận thức rõ ràng, đầy đủ, và tin chắc như vậy.
-
Vậy, rõ ràng không
phải chỉ là lòng ưa thích hay yêu chuộng suông, cũng không phải
chỉ là sự thúc giục đi tìm, trí tuệ, cũng không phải chỉ là tâm
đạo (mặc dầu tâm đạo cũng có ý nghĩa của nó và có ảnh hưởng đến
nhơn loại). Phật Giáo khuyến khích hàng tín đồ áp dụng giáo huấn
của Đức Phật vào đời sống thực tiễn, một giáo huấn khả dĩ dẫn
đến trạng thái không luyến ái, trạng thái giác ngộ, và giải
thoát cuối cùng.
-
Dầu ta có gán nhãn
hiệu nào lên trên giáo lý của Đức Phật, dầu ta gọi Phật Giáo là
một triết lý, một tôn giáo, hay bằng một danh từ nào khác, các
nhãn hiệu và danh từ ấy không có một ý nghĩa nào đáng kể, đối
với ai quyết tâm tìm chơn lý và giải thoát. Đức Phật đã dạy ta
rõ ràng những gì Ngài đã giảng giải và những gì Ngài không giảng
giải.
-
Những Gì Đức Phật Khuyên Dạy.
-
Một lần nọ Đức Phật
ngự tại Kosambi (gần Allahahad) trong khu rừng cây Simsapa. Lúc
ấy, nắm trong tay một nắm lá, Ngài ngỏ lời cùng các vị tỳ-khưu
như sau:
-
"Các con nghĩ như thế
nào, này chư Tỳ-Khưu, số lá nắm trong tay Như Lai và số lá trên
cây, trong toàn thể khu rừng này, số nào lớn hơn?".
-
- Bạch Hóa Đức Thế
Tôn, số lá nắm trong tay Ngài hẳn thật không có bao nhiêu, nhưng
lá còn trên cây, trong toàn thể khu rừng thì rất nhiều.
-
- Cùng thế ấy, nầy
chư Tỳ-Khưu, những gì Như Lai chứng ngộ mà không truyền dạy các
con thật là nhiều, như lá trên cây. Chỉ một ít, những gì Như Lai
truyền dạy. Tại sao? Này chư Tỳ-Khưu, tại sao Như Lai không
truyền dạy tất cả? Này chư Tỳ-Khưu, là bởi vì những điều ấy quả
thật vô ích, không thiết yếu để có một đời sống trong sạch, tinh
khiết, những điều ấy không dẫn đến nhàm chán, dứt bỏ, chấm dứt,
an tịnh, thấu đáo trọn vẹn, Giác Ngộ, và Niết Bàn. Vì vậy, này
chư Tỳ-Khưu, Như Lai không công bố những điều ấy.
-
Và, Chư Tỳ-Khưu, Như
Lai công bố những gì?
-
Đây là đau khổ - điều
này Như Lai công bố.
-
Đây là sự khởi phát
của đau khổ - điều này Như Lai công bố.
-
Đây là sự chấm dứt
đau khổ - điều này Như Lai công bố.
-
Đây là con đường dẫn
đến sự chấm dứt đau khổ - điều này Như Lai công bố.
-
Và tại sao, này các
Tỳ-Khưu, Như Lai công bố các chơn lý ấy?
-
Bởi vì nó hữu ích, nó
thiết yếu để có một đời sống trong sạch, tinh khiết, nó dẫn đến
nhàm chán, dứt bỏ, chấm dứt, an tịnh, thấu đạt trọn vẹn, Giác
Ngộ và Niết-Bàn. Vì vậy, này chư Tỳ-Khưu, Như Lai công bố các
chơn lý ấy" -- (Tạp A-Hàm câu 437).
-
Đức Phật dạy như vậy.
-
Thấu hiểu những lời
dạy không thể lầm lẫn trên là thấu hiểu toàn thể giáo huấn của
Đức Phật. Như vậy, cái được gọi là sự khám phá của Đức Phật chỉ
vỏn vẹn nằm trong bốn Chơn Lý (Tứ Diệu Đế) ấy. Và tất cả những
gì còn lại chỉ là phần triển khai và giải thích rộng rãi bốn
Chơn Lý Cao Thượng ấy. Đó là giáo lý của chư Phật trong tất cả
các thời đại (Vinaya, Mahavagga). Tầm quan trọng đặc biệt của Tứ
Diệu Đế nổi bật một cách hiển nhiên trong giáo lý của Đức Phật,
dầu trong bài thuyết giảng ở khu rừng Simsapa hay trong bài Pháp
Đầu Tiên tại vườn Lộc Uyển, ở Benares.
-
Tất cả bốn chơn lý ấy
đều có liên quan đến cái được gọi là chúng sanh. Ta không thể
tìm nó ở thế gian bên ngoài. Trong một đoạn văn khác khi đề cập
đến Tứ Diệu Đế, Đức Phật dạy:
-
"Trong chính cái thân
nhỏ bé (nguyên văn: dài một sãi) này, cùng với tâm và tri giác,
Như Lai công bố thế gian, sự khởi phát và sự chấm dứt của thế
gian, và con đường dẫn đến sự chấm dứt ấy". -- Tăng Nhứt A-Hàm
11, 48).
-
Trong khuôn khổ giới
hạn của quyển sách nhỏ, chúng ta không thể thảo luận dài dòng
pháp Tứ Diệu Đế với đầy đủ chi tiết. Đại khái, đế đầu tiên là
đau khổ, hay bất toại nguyện, mà phạn ngữ là Dukkha - một danh
từ có nhiều nghĩa trong kinh điển Phật Giáo, tùy theo đoạn văn
có tánh cách giáo lý, vật lý, hay triết lý.
-
Với ai cố gắng tìm
thấy chơn tướng của sự vật, khái niệm về đau khổ (dukkha) có rất
nhiều ý nghĩa. Đó là nền tảng của tư tưởng Phật Giáo. Không thấu
đạt khái niệm chánh yếu này là không biết gì về ba chơn lý, hay
đế, còn lại. Tầm quan trọng của sự thấu đạt Dukkha được tỏ bay
trong những lời sau đây của Đức Phật:
-
"Người nào thấy được
Dukkha cũng thấy được sự khởi phát, sự chấm dứt, và con đường
dẫn đến sự chấm dứt dukkha". -- (Tạp A-Hàm câu 437).
-
Đối với người không
cần biết đến Dukkha thì con đường nào dẫn đến sự thoát ra khỏi
Dukkha cũng đều vô nghĩa.
-
Tuy nhiên, xác nhận
rằng Dukkha (đau khổ) là đặc tánh phổ thông của đời sống không
phải là phủ nhận thú vui và hạnh phúc. Đức Phật - người đã đặt
toàn thể Giáo Lý của mình trên nền tảng Dukkha - không bao giờ
phủ nhận những lạc thú trong đời, ta phải hiểu như vậy. Bộ Tăng
Nhứt A-Hàm (Anguttara Nikaya), một trong 5 bộ kinh nguyên thủy
Pali, có liệt kê những hạnh phúc mà chúng sanh có thể hưởng
(Anguttara Nikaya, I, 80).
-
Đối với người có quan
kiến chơn chánh về thế gian vô thường biến đổi này - tức hiểu
biết sáng suốt và không luyến ái - tức hiểu biết sáng suốt và
không luyến ái - một sự kiện sẽ nổi bật rõ ràng minh bạch:
"Trong toàn thể thế gian, chỉ có một vấn đề là đau khổ, bất toại
nguyện, Dukkha. Tất cả những vấn đề khác, đã được hay chưa được
biết, đều trọn vẹn nằm trong vấn đề có tánh cách phổ thông này.
Nếu vạn nhứt có việc gì trở thành vấn đề, thì được nhiên việc ấy
phải dính liền với trạng thái bất toại nguyện, hay, nếu muốn
dùng một danh từ khác, trạng thái xung đột, bất ổn - xung đột
giữa ý muốn của ta và các diễn biến của đời sống - và, lẽ dĩ
nhiên, mọi người đều cố gắng giải quyết vấn đề, hay nói cách
khác, nổ lực của mỗi người là chấm dứt trạng thái bất toại
nguyện ấy, là kiểm soát, chế ngự, cuộc xung đột đã làm cho tâm
ưu phiền, đau khổ."
-
Chúng ta nhìn vấn đề
duy nhứt ấy dưói nhiều khía cạnh khác nhau: vấn đề xã hội, vấn
đề chính trị, vấn đề tâm lý, chí đến vấn đề tôn giáo. Phải chăng
tất cả các vấn đề ấy đều phát nguyện từ Dukkha, hay bất toại
nguyện? Nếu không phải vậy, nếu các vấn đề ấy không phải là bất
toại nguyện, tại sao ta cố gắng giải quyết? Giải quyết một vấn
đề phải chăng là cả các vấn đề đều tạo nên bất toại nguyện? Tất
cả các vấn đề đều tạo nên bất toại nguyện, và nỗ lực của ta nhằm
vào chấm dứt tình trạng ấy. Nhưng tất cả đều liên quan, dính
liền với nhau. Cái này sanh ra cái kia. Nguyên nhân thường không
nằm ở ngoài mà chính ở trong vấn đề: nó là chủ quan. Lắm khi
chúng ta lầm tưởng đã giải quyết ổn thỏa những vấn đề, ta chỉ
cắt xén, uốn nắn và đổi thay hình thức của vấn đề. Hình như luôn
luôn ta phải đối phó với mọi vấn đề mới và như thế, ta lại phải
vận dụng những nổ lực mới để giải quyết, và mãi mãi ta phải đối
phó. Đó là bản chất của Dukkha, đau khổ, bất toại nguyện, đặc
tánh phổ cập của kiếp sinh tồn vô thường biến đổi này. Đau khổ
khởi phát và chỉ hoại diệt để phát khỏi trở lại dưới hình thức
khác. Đau khổ có thể vật chất hay tinh thần, và có người chịu
đựng được một hình thức đau khổ này dễ dàng hơn hình thức khác,
và trái lại, người khác chịu đựng hình thức đau khổ kia dễ hơn.
-
Xuyên qua khả năng
nhạy của giác quan (lục căn) con người bị ngoại cảnh, đối tượng
của giác quan (lục trần), thu hút và thích thú trong ấy. Do đó
phát sanh sự thọ hưởng, hay trạng thái hoan hỉ (assada) trong
lục trần. Đó là sự kiện hiển nhiên, không thể phủ nhận, vì tất
cả chúng ta đều thường xuyên chứng nghiệm. Tuy nhiên, cả hai, sự
thọ hưởng và đối tượng thích thú của nó đêu không thể tồn tại
lâu dài. Cả hai đều phải biến đổi. Bây giờ, khi người kia không
thể giữ lại, hay bị mất đi, những lạc thú, theo lẽ thông thường
người ấy buồn rầu, sầu muộn, thất vọng. Người ấy cũng không
thích cái gì nhàm chán, và luôn luôn đi tìm những thích thú mới,
giống như những con bò thả ăn ngoài đồng, luôn luôn đi tìm bãi
cỏ mới. Nhưng, đặc tánh của những thích thú mới ấy cũng là vô
thường, tạm bợ, tồn tại nhứt thời rồi trôi qua. Như thế, những
lạc thú của đời sống, dầu ta có thích thú nó cùng không, vẫn là
bước đầu mở đường vào trạng thái đau khổ. Tất cả những lạc thú
tại thế đều tạm bợ, nhứt thời. Và cũng giống như những liều
thuốc độc có bọc đường, nó chỉ gây tổn hại và thất vọng cho ta.
-
Một món ăn khó nuốt,
một thức uống khó chịu, một tư cách khó thương, và trăm ngàn
nghịch cảnh khác trong đời sống làm cho ta đau khổ, bất toại,
dầu ta là Phật tử hay không, giàu hay nghèo, cao sang quyền quí
hay cùng cực thấp hèn, trí thức hay thất học. Thi hào
Shakespeare của nước Anh chỉ phụ họa suông dư âm của Đức Phật
khi ông viết trong tác phẩm Hamlet: "Khi sầu não đến, nó không
đi lẻ loi từng tên như quân thám báo mà đi bằng nhiều tiểu
đoàn".
-
Bây giờ, nếu có ai
không thấy trước được sắc thái nầy của đời sống, trạng thái bất
ổn của dục lạc, người ấy sẽ thất vọng và bất mãn trước một
nghịch cảnh đột ngột xảy đến và cũng có thể hành động điên rồ,
không kịp nghĩ suy, lắm khi đi đến chỗ mất trí. Đó là mối hiểm
nguy, là hậu quả xấu (adinava). Nhơn loại luôn luôn đối diện với
hai phương diện này của đời sống (assada và adinava) - phước
lành và tội khổ. Tuy nhiên, người nào đã cố gắng thoát ra khỏi
những ham muốn xấu xa, những luyến ái gắn bó vào vật vô tri vô
giác hay hữu tri hữu giác, nhìn đời với tâm dứt bỏ, người đã
thấy sự vật trong bối cảnh thích nghi cuả nó, người đã trải qua
một cuộc rèn luyện để tạo cho mình tâm tánh một mực an tĩnh
trước những thăng trầm cuả đời sống, người có thể mỉm cười trước
nghịch cảnh, người giữ tâm luôn luôn bình thản và gát bỏ qua một
bên tất cả những ưa thích và ghét bỏ - người ấy không còn lo âu
nữa mà đã siêu thoát (nissarana). Cả ba, assada, adinava, và
nissarana, hay phước lành, quả dữ, và siêu thoát là những gì
chúng ta có thể kinh nghiệm, là hình ảnh thật sự của cái mà
chúng ta gọi là đời sống.
-
Ta có thể gọi một
giáo lý như vậy là bi quan không? Ta có thể gán cho Đức Phật
nhãn hiệu yếm thế không? Trên thực tế, Phật Giáo không bi quan
cũng không lạc quan. Phật Giáo chỉ trình bày một quan điểm thực
tiễn về đời sống. Giáo lý của Đức Phật là một thông điệp phát
huy niềm hoan hỉ và hi vọng chớ không phải là một triết lý bi
quan chủ bại.
-
Trong Tập Đế, hay
Chơn lý thứ nhì, Đức Phật giải thích nguồn gốc của Dukkha, bất
toại nguyện. Trong tư tưởng Phật Giáo không có một đấng tạo hóa
trọng tài kiểm soát vận mạng con người. Về cái khổ của mình,
Phật Giáo không đặt trách nhiệm vào một động lực nào ngoài con
người hay một năng lực "Siêu nhơn" hay phi thường nào, mà tìm
nguyên nhân của nó từ sâu kín bên trong con người. Nguyên nhân
ấy là ái dục. Chính ái dục, được sự nâng đỡ của vô minh, đã đem
lại trạng thái bất toại nguyện. Và chính năng lực vô cùng hùng
hậu ấy - ái dục hay khát vọng - đã đưa đẩy kiếp sinh tồn của ta
vòng quanh mãi mãi. Đời sống tùy thuộc ở lòng tham sống. Có ham
sống, hay luyến ái duyên theo sự sống mới có sống. Ái dục không
phải là nguyên nhân đưa chúng ta đến kiếp sống hiện tiền thôi mà
cũng là động lực đẩy chúng ta vào các kiếp sinh tồn quá khứ và
tương lai. Tuy nhiên, ái dục không phải là nguyên nhân đầu tiên,
viết bằng chữ hoa "Đ" và "T". Cũng như tất cả các vật hữu vi
khác - tinh thần hay vật chất - ái dục là pháp hữu vi, được cấu
tạo, tương quan, tương đối. Do đó, ái dục có thể chấm dứt.
-
Trước khi trị một
người bịnh, điều chính yếu cần phải khám phá là nguyên nhân của
chứng bịnh. Công hiệu của phương pháp trị liệu tùy thuộc ở
phương thức diệt trừ nguyên nhân ấy. Đức Phật thuyết giảng về
đau khổ, nhưng không ngừng tại đó mà đi thêm một bước, chỉ rõ sự
phát sanh của đau khổ. Vậy, Ngài đã cung ứng cho ta một phương
thức chẩn mạch toàn hảo. Những lời chỉ trích vội vã gán vào Đức
Phật nhãn hiệu bi quan quả thật không thể minh xác được. Và
những người lạc quan sẽ lấy làm hoan hỉ được biết rằng trong Tứ
Diệu Đế mà Đức Phật đã trình bày rõ ràng, minh bạch, có một lối
thoát ra khỏi "chủ nghĩa bi quan".
-
Kẻ thù của toàn thể
thế gian là ái dục, lòng tham muốn, luyến ái, bám víu, khát vọng
và xuyên qua đó, tất cả những điều bất hạnh đến với chúng sanh.
Đây không phải chỉ là lòng tham muốn hay luyến ái duyên theo
nhục dục ngũ trần, tiền của, tài sản, và tham vọng đánh bại, lấn
lướt kẻ khác hay xâm lăng những quốc gia khác, mà cũng là sự cố
chấp, khư khư dính mắc trong những lý tưởng, ý niệm, quan kiến
và tín ngưỡng (dhamma-tanha) thường dẫn đến phỉ báng và hoại
diệt, và đem lại đau khổ không thể tả đến toàn thể quốc gia, hay
trong thực tế, toàn thể thế gian.
-
Đế thứ ba- Diệt Đế -
là sự chấm dứt Dukkha, đau khổ. Đúng theo lời của Đức Phật, đây
là sự chấm dứt trọn vẹn (nirodha), sự dứt bỏ (caga), sự tách rời
(patinissagaga), sự giải thoát (mutti) và sự xa lìa (analaya)
chính cái ái dục ấy (Samyutta Nikaya, câu 421). Chấm dứt trọn
vẹn ái dục hàm ý Niết Bàn, mục tiêu cứu cánh, hay Hạnh Phúc Cao
Thượng nhứt trong Phật Giáo. Tuy nhiên, Niết Bàn, không phải là
cái gì có thể đặt thành lý thuyết. Niết Bàn phải được chứng ngộ.
Mặc dầu chúng sanh đã có chứng nghiệm bản chất bất toại nguyện
của đời sống, và thấu hiểu, hơn ai hết, đau khổ là gì, ô nhiễm
là gì, và cái gì mình luyến ái, nhưng chắc chắn chúng sanh không
biết trạng thái tận diệt trọn vẹn ô nhiễm là thế nào, bởi vì tự
bản thân mình chưa chứng nghiệm điều ấy. Nếu có chúng sanh nào
kinh nghiệm được, vị ấy sẽ thấu đạt, nhờ tự mình đã chứng ngộ
trạng thái vô nhiễm là thế nào, trong thực tại, Niết Bàn là thế
nào, và thế nào là hạnh phúc thật sự.
-
Những giai đoạn chánh
yếu của con đường tách rời đau khổ, Đạo Đế - con đường Niết Bàn,
đã được Đức Phật chỉ dạy. Đó là con đường trau dồi tâm trí để
đạt đến hạnh phúc thanh khiết và trạng thái an tĩnh tối thượng,
thoát ra khỏi mọi phiền não của đời sống. Con đường hẳn thật rất
khó khăn nhưng nếu chúng ta thận trọng từng bước, trì chí chuyên
cần, và hoàn toàn giác tỉnh thì một ngày kia chúng ta sẽ đến nơi
đến chốn. Một em bé tập đứng và khập khễnh tập đi từng bước, rất
khó khăn. Cùng thế ấy, trong cuộc hành trình thiên lao vạn khổ
hướng về toàn thiện, toàn hảo, tất cả những ngưòi lớn cũng gặp
những khó khăn như vậy, và tiến từng bước một, từng giai đoạn
này đến giai đoạn khác, xuyên qua những thất bại dồn dập để đến
thành công cuối cùng.
-
Đế thứ tư là con
đường dẫn đến sự chấm dứt ái dục. Đó là Bát Chánh Đạo, được sắp
xếp làm ba nhóm Giới, Định, Tuệ:
-
1. Nhóm Trí tuệ
(Panna)
-
Chánh Kiến
-
Chánh Tư Duy
-
2. Nhóm Giới Luật
(Sila)
-
Chánh Ngữ
-
Chánh Nghiệp
-
Chánh Mạng
-
3. Nhóm Định
(Samadhi)
-
Chánh Tinh Tấn.
-
Chánh Niệm.
-
Chánh Định.
-
Ba nhóm này không
phải là ba phân hạng riêng biệt mà là ba thành phần cố hữu, dính
liền với nhau, của một con đường. Và ý nghĩa của con đường này
được kết dính trong lời giáo huấn rất phân minh của chư Phật
trong các thời đại:
-
"Từ bỏ mọi hành động
bất thiện,
-
Trau dồi các hành
động thiện,
-
Gội rửa tâm,
-
Đó là giáo huấn của
chư Phật" -- (Kinh Pháp Cú câu 183)
-
Tránh những hành động
bất thiện và phát triển những hành động thiện là nhiệm vụ của
Giới (Sila) hay những qui tắc mà Đức Phật đã dạy có liên quan
đến phẩm hạnh.
-
Ba Chi của Bát Chánh
Đạo - Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, và Chánh Mạng - là Giới. Giới
luật do Đức Phật ban hành không phải là những điều răn cấm có
tánh cách tiêu cực mà là một khuyến khích đưa đến những hành
động thiện tích cực, một con đường dài đẳng, cẩn bằng thiện ý,
từ tâm, hướng về hạnh phúc và an lành của toàn thể nhơn loại.
Những qui tắc đạo đức ấy vào mục tiêu tạo nên trạng thái châu
toàn trong xã hội bằng cách đem lại tinh thần đoàn kết, hòa dịu,
và tương thân tương ái giữa người và người.
-
Giới Luật (Sila) là
tảng đá đầu tiên vững chắc cẩn trên Con Đường, hay lối sống của
người Phật tử. Đó là nền tảng của sự phát triển tinh thần. Người
quyết tâm thực hành pháp tham thiền, hay định tâm, phải trang
nghiêm trì giới. Bởi vì chính Giới nuôi dưỡng đời sống tâm linh
và làm cho tâm vững vàng an trụ.
-
Giai đoạn kế của Con
Đường Giải Thoát là trau dồi tâm Định (Samadhi), bao gồm ba chi
khác của Bát Chánh Đạo là Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, và Chánh
Định.
-
Pháp thực hành thiền
định chơn chánh giữ tâm trong trạng thái quân bình, không chao
động. Hành giả phải đối phó với rất nhiều trở ngại trong khi
hành thiền, tuy nhiên, nhờ sự hổ trợ của Chánh Tinh Tấn và Chánh
Niệm, một cái tâm hoàn toàn an trụ sẽ có đủ khả năng vượt qua
tất cả các chướng ngại và các khát vọng làm bận rộn con người.
Tâm hoàn toàn an trụ không bị lục trần làm xao xuyến vì đã thấy
được thực tướng của vạn pháp, thấy đúng sự vật trong bối cảnh
thích nghi của nó.
-
Bằng lối thực hành
như vậy, hành giả chế ngự, làm chủ cái tâm của mình, thay vì để
cho tâm khắc phục và làm chủ mình, và triển khai Trí Tuệ (Panna)
chơn chánh, bao gồm hai chi đầu của Bát Chánh Đạo là Chánh Kiến
và Chánh Tư Duy, giai đoạn cuối cùng của Con Đường.
-
Người kia có thể
thông minh sáng suốt, học vấn uyên thâm, kiến thức sâu rộng,
nhưng nếu kém Chánh Tư Duy thì, theo giáo lý của Đức Phật, chỉ
là một người cuồng si (bala), người điên rồ, chớ không không
phải một người thấu hiểu và có trí tuệ sâu sắc, tuệ minh sát.
Nếu nhìn sự vật với đức tánh phân giải sáng suốt, không luyến
ái, chúng ta sẽ nhận thức rằng tham ái, ích kỷ, sân hận và hung
bạo không thể cùng đi chung với Trí Tuệ chơn chánh. Chánh Kiến
hay Trí Tuệ chơn chánh luôn luôn được Chánh Tư Duy thấm nhuần,
không thể không có.
-
Đến đây, nếu người
đọc thận trọng suy tư sẽ thấu hiểu vì sao ba nhóm Giới, Định,
Tuệ, cùng sinh hoạt chung với nhau để đạt đến mục tiêu chung là
Giải Thoát cái Tâm (Ceto Vimutti) và vì sao, nhờ trau dồi tâm
chơn chánh và tiết chế hành động, cả tinh thần lẫn vật chất, con
người có thể đạt đến trạng thái trong sạch. Chính do hạnh chuyên
cần và công trình tự trau dồi của chính mình mà hành giả đạt đến
mức tự do châu toàn chớ không phải nhờ vái van cầu nguyện hay tế
lễ cúng kiến một năng lực ngoại lai nào. Đó quả thật là Giáo
Pháp và Đức Phật đã khám phá, đã áp dụng vào đời sống Ngài để
thành đạt đạo quả Toàn Giác, và đã rọi sáng cho kẻ khác.
-
Đau khổ (Dukkha) là
chứng bịnh kinh khủng. Chứng bịnh này phải được biết, không nên
bỏ ngơ. Ái dục, nguyên nhân, phải được diệt trừ. Bát Chánh Đạo,
con đường, phải được thực hành, phải được trau dồi, vì đó là
phương thuốc. Với sự thấu đạt đau khổ, với sự diệt trừ ái dục,
và do công trình thực hành con đường, sự chứng ngộ Niết Bàn sẽ
được đảm bảo. Về điểm nầy câu trả lời cho Sela, một người
Bà-la-môn có ý hoài nghi đạo quả của Đức Thế Tôn, có một ý nghĩa
thú vị:
-
"Ta đã thấu triệt cái
gì phải được thấu triệt.
-
Những gì phải được
trau dồi, ta đã trau dồi.
-
Những gì phải dứt bỏ,
Ta đã dứt bỏ.
-
Do đó, này người
Bà-La-Môn, Ta là Phật, bậc Toàn Giác". -- (Sutta-Nipata
-
559; Theragatha 828)
-
Lý Nghiệp Báo
-
Có hai giáo lý quan
trọng khác mà người học Phật phải quen thuộc. Đó là Lý Nghiệp
Báo (Kamma, hay Sanscrit là Karma) và Tái Sanh, hay những kiếp
sinh tồn trở đi trở lại. Đó cũng là hai giáo lý chánh yếu trong
Ấn Độ Giáo, nhưng người theo Ấn-Độ Giáo thấm nhuần những ý niệm
về tự ngã và linh hồn, trái lại, Phật Giáo hoàn toàn phủ nhận.
-
Nghiệp Báo (Kamma) là
định luật nhân quả trên phương diện đạo đức. Hiểu rốt ráo,
Nghiệp Báo là Tác Ý, hay ý muốn.
-
"Nầy hỡi chư Tỳ-Khưu,
Như Lai tuyên bố, chính tác y?224; nghiệp".
-
Vì có muốn, ta mới
hành động. Và hành động có thể bằng ba phương cách: thân, khẩu,
ý. Đó là lời của Đức Phật (Anguttara, III). Tác ý là một ý chí,
một năng lực, một yếu tố của tâm, Nghiệp là hành động, có thể ví
như hột giống. Quả, ví như trái, được gọi là Kamma-Vipaka. Tác ý
có thể thiện hay bất thiện. Do đó hành động có thể thiện hay bất
thiện. Do đó hành động có thể trong sạch hay bất tịnh, và quả có
thể lành hay dữ. Dòng diễn tiến hành động và phản ứng của hành
động này nối tiếp vô cùng tận. Nhân tạo quả, quả trở thành nhân,
hột giống trồng ra trái, trái cho lại hột, triền miên vận chuyển
và đó là Hữu (Bhava), hay sự trở thành, một tiến trình biến đổi
không gián đoạn của hiện tượng tâm-vật-lý của kiếp sinh tồn.
-
Vì có tác ý con người
hành động bằng thân, khẩu, hay ý. Và hành động dẫn đến phản ứng
của hành động. Ái dục dẫn đến hành động. Hành động tạo quả. Do
quả, khởi phát trở lại những ham muốn mới, ái dục mới. Tiến
trình cuả nhân và quả, hành động và phản ứng của hành động là
định luật thiên nhiên. Tự chính nó là một định luật và nó không
cần phải có một người tạo ra. Một nguyên lý hay một năng lực
ngoại lai, hoặc một Thần Linh cầm quyền hành phạt những người
hung ác bạo tàn và ban thưởng những ai ăn ở hiền lành không thể
có chỗ đứng trong tư tưởng của ngưòi Phật tử. Con ngưòi luôn
luôn thay đổi, trở nên tốt hơn, hay trở nên xấu hơn. Sự biến đổi
không thể tránh ấy hoàn toàn tuỳ thuộc nơi tác ý của chính mình,
nơi hành động của chính mình, chớ không ở đâu khác. "Đó chỉ là
một định luật thiên nhiên của sự bảo tồn năng lực trong phạm vi
đạo đức".
-
Thế gian hình như
không toàn hảo, cũng không quân bình. Khỏi phải bàn đến loài
thú, ngay ở giữa cảnh người, chúng ta thấy rằng có kẻ sanh ra
khốn khổ cùng cực, đắm chìm trong tuyệt vọng sâu xa và hết sức
bất hạnh, trái lại người khác trưởng thành trong vòng phong phú
dồi dào và hạnh phúc đầy đủ, hưởng một cuộc sống xa hoa thạnh
vượng và tương đối không biết gì nhiều đến phiền não của thế
gian. Lại nữa, một ít người sanh ra với bẩm tánh thông minh xuất
chúng, khả năng tinh thần và tri thức cao siêu, trong khi nhiều
người khác thì mê mờ ngu muội, phải trải qua suốt cuộc đời trong
dốt nát tối tăm. Tại sao một vài người trong chúng ta được khoẻ
mạnh, đẹp đẽ, và có đông đảo bạn bè trong khi có những người
khác ươn yếu bịnh hoạn, gầy còm xấu xí và đơn độc một cách đáng
thương hại? Tại sao có người sanh ra để sống đến tuổi già còn kẻ
phải lìa bỏ cuộc đời giữa thời xuân xanh niên thiếu? Tại sao có
người sanh ra với đầy đủ phước báu, danh thơm tiếng tốt vang
lừng, ai cũng biết, ai cũng khen, trong lúc đó có kẻ rõ ràng bị
lãng quên trong đêm tăm tối, không ai mang biết đến? Tất cả
những thắc mắc ấy đều là những vấn đề phức tạp, đòi hỏi một lời
giải đáp thích ứng.
-
Nếu gia công tìm
hiểu, ta sẽ thấy rằng tất cả những sự khác biệt cách nhau rất xa
kia hẳn không bắt nguồn từ một động lực ngoại lại hay do một
nhơn vật siêu thường toàn trí và toàn thiện, mà do hành động và
phản ứng của hành động của chính chúng ta. Chúng ta có trách
nhiệm về những hành động của chúng ta, thiện cũng như bất thiện.
Vậy chính chúng ta phải gánh chịu trách nhiệm về hậu quả của
những hành động ấy. Chính chúng ta tạo nghiệp (Kamma) cho chúng
ta. Nếu chúng ta thấu hiểu hiện tượng nghiệp báo và hậu quả của
những hành động có tác ý có lẽ chúng ta không bao giờ còn bị
điều ác cám dỗ vì chúng ta biết chắc rằng hành động bất thiện sẽ
đem lại những hậu quả tai hại.
-
"... Và đau khổ sẽ
theo liền với ta không khác nào bánh xe lăn theo dấu chơn con bò
kéo xe" -- (Kinh Pháp Cu,?226;u 1).
-
"Chúng sanh là người
thừa kế của hành động mình, và từ hành động mình như một bào
thai, chúng sanh được sanh ra". -- (Trung A-Hàm số 135).
-
Và xuyên qua hành
động của mình, chúng sanh phải tự mình biến đổi, từ xấu trở nên
tốt, tự làm cho mình trở nên thích ứng để đạt đến giải thoát,
vượt ra khỏi phiền não. Một người Phật tử đã thấu đạt lý nghiệp
báo sẽ phải thốt ra những lời tương tự như sau:
-
"Tùy theo hột giống
đã gieo,
-
Bạn sẽ gặt hái bông
trái như thế nào.
-
Người làm điều thiện
sẽ gặp thiện.
-
Hành ác, gặp ác.
-
Hãy gieo giống tốt và
gia công vun bồi cây,
-
Bạn sẽ hưởng trái
lành". -- (Samyutta Nikaya, I, 227; The Kindred Sayings I, trang
293).
-
Tuy nhiên, không nên
lẫn lộn lý Nghiệp Báo trong Phật Giáo với thuyết định mạng. Đây
không phải là học thuyết triết lý chủ trương rằng con người
không có tự do hành động, rằng con người ắt buộc phải chịu những
động lực, xem như từ ngoài đưa đến, chi phối ý chí, rằng số phận
và hành động của con người đã được định sẵn do ý chỉ của một
thần linh nào. Đức Phật không bao giờ theo những học thuyết chủ
trương rằng tất cả mọi việc đều đã được sắp xếp một cách an bài,
không thể đổi thay, rằng tất cả đều phát sanh do một nhu cầu,
không thể tránh. Đó là thuyết Định Mạng Nghiêm Khắc
(Niyati-vada). Ngài cũng không theo thuyết Vô Định Tuyệt Đối
(Adhicca-Samuppanna).
-
Thuyết Tái Sanh.
-
Theo Phật Giáo, sau
khi chết hoặc trước khi sanh không có đời sống nào mà không tùy
thuộc nơi Nghiệp, hay hành động có tác ý. Nghiệp Báo là hệ luận
của Tái Sanh. Và trái lại, Tái Sanh là hệ luận của Nghiệp Báo.
Hai giáo lý này chằng chịt liên quan với nhau rất mật thiết.
-
Sanh đến trước tử.
Và, đàng khác, tử đến trước sanh. Cứ như thế tiếp diễn, sanh rồi
tử, tử rồi sanh vô cùng tận và không gián đoạn. Tuy nhiên, không
có một linh hồn hay một tự ngã, hoặc một thực thể đơn thuần nào
khác di chuyển từ kiếp sống này đến kiếp khác. Mặc dầu con người
là một đơn vị tâm-vật-lý bao gồm danh và sắc, tâm và vật chất,
tâm hay danh ở đây không phải là một linh hồn hay một tự ngã,
hiểu theo nghĩa một thực thể trường tồn, và xem như một cái gì
đã được tạo sẵn và tồn tại lâu dài. Danh, hay tâm, ở đây là một
năng lực, một động lực liên tục có thể giữ lại khả năng hồi nhớ,
không phải chỉ trong kiếp sống này mà trong các kiếp quá khứ.
Đối với nhà khoa học, vật chất là một năng lực nằm trong trạng
thái luôn luôn chuyển động và biến đổi mà không có thực chất.
Đối với nhà tâm lý học, phần tâm linh không còn là một thực thể
đơn thuần, không biến đổi nữa. Cách đây hơn hai mươi lăm thế kỷ,
khi Đức Phật quả quyết nhấn mạnh rằng cái được gọi là "chúng
sanh" hay "cá nhơn" chỉ là sự phối hợp của những năng lực vật
chất và tinh thần, một biến đổi liên tục, có phải Ngài đã đi
trước các nhà khoa học và tâm lý học hiện đại không?
-
William James viết:
-
"Cái Ta (dùng như một
túc từ) là sự kết hợp do kinh nghiệm cấu tạo với sự vật đã được
biết một cách khách quan. Vậy, cả Ta (dùng như một chủ từ) biết
được sự vật ấy không thể là một kết hợp. Không thể dùng cái Ta
ấy trong những nhu cầu tâm lý và xem nó như một thực thể siêu
hình không biến đổi, như một linh hồn. Cũng không thể xem nó như
một nguyên lý, một bản ngã siêu việt vượt ra ngoài thời gian.
Cái Ta chỉ là một tư tưởng biến đổi từng chập. Không một tư
tưởng nào giống chập tư tưởng trước kế đó, nhưng luôn luôn thuận
ứng theo chập tư tưởng trước, cùng hợp với tất cả những gì của
chập tư tưởng trước". -- (Principles of Psychology, trang 125).
-
Như vậy, kiếp sinh
tồn của một cá nhơn là sự nối tiếp của những biến đổi, cái gì
khởi phát để trở thành và hoại diệt, không bao giờ tồn tại đến
hai khoảnh khắc kế tiếp. Cơ cấu tâm-vật-lý nầy, mặc dầu phải
chịu biến đổi không ngừng, luôn luôn tạo những tiến trình
tâm-vật-lý mới trong mỗi khoảnh khắc, và do đó giữ lại, không
bao giờ để gián đoạn, không bao giờ có lỗ trống giữa hai khoảnh
khắc. Chúng ta chết và sống trong mỗi khoảnh khắc của kiếp sống.
Đó chỉ là trạng thái sanh, thành, hoại, diệt, tựa hồ như những
đợt sóng của đại dương. Trạng thái liên tục biến đổi này dính
liền với ta trong đời sống và sẽ không chấm dứt lúc ta chết.
Luồng tâm tiếp tục di động không ngừng cũng giống như luồng điện
vẫn tiếp tục hoạt động khi bóng đèn đã bể và ánh sáng đã tắt.
Đến khi ta lắp vào một bóng đèn khác, lớn hay nhỏ hơn, ánh sáng
sẽ được có đèn khác. Chính luồng tâm di động ấy được gọi là
nghiệp lực, ý chí, khát vọng, hay tham muốn. Chính năng lực hùng
mạnh hay ý chí muốn sống ấy nuôi dưỡng sự sống, làm cho đời sống
triền miên diễn tiến. Như vậy, luồng tâm luôn luôn trôi chảy, vô
cùng, vô tận, ngày nào mà ái dục (tanha) còn bồi bổ, dưỡng nuôi
nó.
-
Nếu chúng sanh đã có
sống trước kiếp sống này, tại sao không còn nhớ gì đến những
việc đã xảy ra ở tiền kiếp? Việc nhớ lại tiền kiếp không phải
hoàn toàn không thể có, nhưng những trường hợp ấy quả quyết thật
hiếm hoi. Đối với câu hỏi được bàn cãi nhiều ấy đã có hơn một
lời giải đáp. Trí nhớ chúng ta không phải toàn hảo mà rất giới
hạn. Ta đã sanh ra trong kiếp sống này. Nhưng nào ta nhớ được
những gì xảy ra lúc mới sanh ra? Chúng ta có thể theo trí nhớ
phăng lên ngược dòng thời gian, nhưng chỉ đến một điểm nào. Diễn
biến đau khổ của sự chết và khoảng thời gian từ lúc thọ thai đến
khi lọt lòng mẹ có thể đã làm mất hẳn, hoặc đã bôi mất dần, dấu
hiệu của trí nhớ về đời sống quá khứ.
-
Tuy nhiên, cũng có
trường hợp vài trẻ em còn nhớ được những tài năng đã có trong
quá khứ. Ta giải thích thế nào trường hợp các thần đồng về âm
nhạc, toán học v.v...? Có lời giải đáp hữu lý nào chăng ngoài
chủ trương rằng đó là sự hồi nhớ những kinh nghiệm trong kiếp
quá khứ?
-
Năng lực hùng mạnh
ấy, ý chí muốn sống ấy, làm cho đời sống tiếp tục diễn tiến.
Theo Phật Giáo, không phải chỉ có cảnh người mà toàn thể thế
gian tam giới (dục giới, sắc giơi, và vô sắc giới) đều bị lôi
kéo bởi năng lực ấy - tức cái tâm cùng với các tâm sở, thiện hay
bất thiện (Anguttara Nikaya II, 177)
-
Sự Giải Thoát Của Con Người
-
Khát vọng của con
người quả thật phiền phức. Tham ái hay ái dục đưa chúng sanh mù
quáng đến sân hận, và từ đó, đến mọi hình thức đau khổ. Kẻ thù
của toàn thể thế gian là tham ái. Do tham ái tất cả những gì bất
hạnh đến với chúng sanh. Khi bị ngăn trở, tham ái biến thành
phẩn nộ, và con người lại rơi vào màn lưới của chính mình đã
giăng, không khác nào nhện sa vào lưới của chính nó (Kinh Pháp
Cú - câu 317). Trên cả hai phần quả địa cầu - phương Tây và
phương Đông, hình như tâm trí của người ta càng ngày càng thiên
về đời sống vật chất và hầu như không còn biết gì đến lãnh vực
tinh thần, không màng nghĩ đến nội tâm, thế gian bên trong của
mình. Con người hình như ngã hẳn về một bên, bên xấu. Các khẩu
hiệu và hệ thống tuyên truyền có tánh cách chánh trị hình như đã
uốn nắn cân não con người, và đời sống hình như đã trở thành máy
móc, tự động. Con người trở thành máy móc, tự động. Con người
trở thành bù nhìn, hành động hoàn toàn theo sự điều khiển của kẻ
khác. Và những người điều khiển cũng vậy, họ hành động dưới sự
chi phối của những năng lực mà chính họ chỉ nhận định một cách
mù mờ.
-
Con người hiện đại
hình như bị vướng mắc trong đủ loại ý niệm, quan kiến, dư luận,
và ý thức hệ - khôn ngoan sáng suốt cũng co,?224; điên rồ cuồng
dại cũng nhiều. Tâm trí của con người hiện đại được nuôi dưỡng
bằng các phim hát bóng và được rèn luyện, un đúc, bằng các
chương trình phát thanh và truyền hình. Ngày nay, những gì được
trình bày trên mặt báo hay xuyên qua các làn sóng điện, vài loại
hình ảnh hay tiểu thuyết, hoặc vài văn phẩm tâm lý có tánh cách
tình dục, làm rối loạn con người và đưa đẩy con người tách xa
dần con đường ngay thẳng và sáng suốt. Ngày nay, hơn bao giờ
hết, con người cần phải đạt đến sự hiểu biết chơn chánh, trạng
thái vắng lặng, và tâm bi mẫn, để hướng dẫn nhơn loại vượt qua
cơn biến động của đời sống, để giữ cái tâm - vốn bị chao động -
cho được ngay thẳng, như "Người thợ chuốt tên uốn nắn thế nào
cho mũi tên được ngay thẳng" (Kinh Pháp Cú, câu 33), và để rèn
luyện cho tâm được thích ứng với công bằng và chánh trực.
-
Cố gắng tránh xa
những gì đầu độc mình, chuyên cần giác tỉnh, và tự củng cố vững
chắc trong đức nhẫn nại và phẩm hạnh trong sạch, người trí tuệ
đào luyện tâm trí mình. Thái độ im lặng và điềm tĩnh biểu lộ một
con người đã được trau dồi. Nếu mọi việc xung quanh đều thuận
lợi thì không khó giữ một thái độ trầm tĩnh nhưng giữ được tâm
bình thản, không chao động, giữa những hoàn cảnh rối reng, bất
thuận lợi, thì quả thật rất khó. Và chính điều khó ấy là việc
nên làm, đáng cho ta gia công thực hiện cho kỳ được. Bởi vì
chính nhờ sự tiết chế, kiểm soát tâm như vậy mà con người có thể
tự xây dựng cho mình một bẩm tánh khí khái. Biến đổi tâm lý diễn
tiến rất chậm. Ta có thể đạt đến trạng thái tâm an tịnh bằng
phương pháp thiền định.
-
Bạn có thể đạt đến
trạng thái tâm an trụ như thế không? Lời giải đáp của Lord
Horder rất thích thú:
-
"... Câu trả lời sẽ
là "Được". Nhưng "Bằng cách nào"? Tâaht rTốt, không phải bằng
cách "làm một cái gì vĩ đại". Tại sao các vị Thánh nhơn là
Thánh?". Có người hỏi thế. Và câu trả lời sẽ đến như thế này:
"Bởi vì các vị ấy vẫn hoan hỉ trong những hoàn cảnh khó hoan hỉ
và nhẫn nại trong lúc khó nhẫn nại. Các Ngài vẫn gia công tiến
bước trong khi lòng muốn dừng và trong khi muốn nói, các Ngài
giữ lặng im". Chỉ thế thôi. Đó là vấn đề giữ tâm tinh khiết, một
vấn đề vệ sinh tinh thần..."
-
Để có một đời sống
toàn hảo, khả dĩ dẫn đến mục tiêu mong mỏi, không cần phải có
một số lượng luân lý hay biện luận. Không cần phải có một số
lượng khảo sát để đem ta đến gần cứu cánh hơn. Nhưng ta phải làm
cho cái tâm chao động của ta trở nên thuần thục thích ứng, bởi
vì kiểm soát tâm là cái chìa khóa mở vào hạnh phúc. Đó là năng
lực nằm phía sau tất cả những gì được thành tựu thật sự mỹ mãn.
Hành động của người thiếu kiểm soát ắt không có mục tiêu nhứt
định, và do đó không thể vững vàng. "Vậy, sự tách rời, lánh xa
trạng thái rộn rịp phiền phức của đời sống và sự rút lui, ẩn dật
trong cảnh vắng lặng, quả rất hữu ích để giúp ta tiếp xúc với
năng lực bên trong và để vượt mọi yếu kém và mọi giới hạn của
kinh nghiệm thông thường (thuộc phạm vi giác quan).
-
Để thấu đạt thế gian
bên trong, khoa học không thể giúp ta được nhiều. Ta không thể
tìm ra chơn lý cùng tột trong khoa học. Điều mà chúng ta cần là
sự hướng dẫn và sự giáo dục của người đã thấy, người thật sự có
đủ tư cách, đủ khả năng, và có nhãn kiếu sâu sắc, nhìn thẳng vào
tận thâm cung bí hiểm của đời sống và thấu triệt bản chất thật
sự tiềm tàng dưới mọi lớp mặt che đậy bên ngoài. Đức Phật là
người như thế ấy. Và con đường giải thoát cuả Ngài rộng mở cho
những ai thật sự muốn theo.
-
Con đường mà Đức Phật
rọi sáng để phát triển tinh thần và đạo đức là Bát Chánh Đạo,
tức Phật Giáo thực hành. Khi được thận trọng trau dồi đầy đủ,
con đường nầy nâng đỡ đời sống tinh thần của con người từ thấp
đến cao, từ tối đến sáng, từ khát vọng đến nhàm chán, từ chao
động đến vắng lặng.
-
Những cố gắng của
chúng ta để đạt đến trạng thái trong sạch và an tịnh đôi khi
không đem lại kết quả mong muốn. Nhưng thất bại không phải là
điều quan trọng. Điều quan trọng là chúng ta liên tục thành thật
trong nổ lực, trong sạch trong ý định, và chúng ta tiếp tục
chuyên cần, không ngừng tinh tấn. Đức Phật dạy:
-
"Như người thợ bạc
mỗi lần một chút, thổi sạch bợn nhơ trong vàng, con người phải
nổ lực thanh lọc mọi ô nhiễm trong đời sống".
-
Một em bé tập đứng và
dần dần tập đi từng bước, một cách khó nhọc. Cùng thế ấy, những
người lớn cũng phải làm như vậy trên bước đường đi đến toàn hảo,
di chuyển từ giai đoạn này sang giai đoạn kế, xuyên qua nhiều
lần thất bại để rồi cuối cùng đạt đến thành công tuyệt đỉnh.
-
Con Đường Hoằng Pháp
[*]
-
Từ bi và trí tuệ là
hai nguyên tắc hướng đạo trong Giáo Pháp của Đức Phật. Chính đức
bi mẫn đã làm rung động tâm tư của Bồ-Tát, thúc đẩy Ngài đến
cuộc Khước Từ Vĩ Đại và đã tháo cổng cho Ngài thoát ra khỏi cái
lồng bằng vàng trong ấy, Ngài đã trải qua suốt 29 năm của thời
niên thiếu. Chính đức bi mẫn đã un đúc cho Ngài một ý chí quyết
định không thể lay chuyển. Chí đến giờ phút ra đi, cái nhìn cuối
cùng vào bà vợ thương yêu đang say ngủ và người con sơ sanh duy
nhứt đang nằm trong vòng tay ấm áp của mẹ cũng không làm cho
Ngài chùng bước. Nhịp tim yếu ớt của con bịnh nhơn loại đang hồi
hấp hối tìm được nơi quả tim của chính Ngài lời hưởng ứng nhiệt
thành. Càng tiếp xúc với thế gian Ngài càng tin chắc rằng thế
gian quả đang thiếu một niềm hạnh phúc thật sự.
-
Vị chúa tể của tình
thương quyết định rọi sáng cho thế gian buồn thảm những gì Ngài
đã chứng ngộ và bằng gương lành trong sạch, Ngài truyền dạy loài
người đức độ từ bi vô lượng vô biên:
-
"Cửa vào trạng thái
Bất Diệt đã rộng mở.
-
Để cho ai có tai muốn
đặt niềm tin tưởng".
-
Với lời tuyên bố long
trọng trên Đức Tôn Sư bày tỏ ý định hoằng dương Giáo Pháp, Chơn
Lý.
-
Từ làng này đến làng
khác, từ tỉnh thành nọ đến tỉnh kia, Đức Phật khuyên dạy, rọi
sáng, và làm cho nhiều người hoan hỉ. Trong bốn mươi lăm năm
trường Ngài gia công kiến tạo an lành và hạnh phúc cho nhân
loại.
-
Phật Giáo là tôn giáo
phổ cập đầu tiên có tánh cách truyền giáo. Mặc dù danh từ truyền
giáo đã bị ít hiều hoen ố, ta vẫn phải dùng nó để cho mọi người
có thể hiểu dễ dàng.
-
Bất luận cố gắng nào
để giải thích Phật Giáo và công cuộc truyền bá Giáo Pháp nhứt
định phải bao gồm cả hai lãnh vực, thời gian và không gian. Đây
là một phong trào mở đầu một cách rất khiêm tốn. Từ một vài tín
đồ lúc sơ khai, phong trào này trưởng thành dần đến mức bao gồm
một phần lớn thế gian, gieo ảnh hưởng đến vận mạng của hơn sáu
trăm triệu dân chúng, ngót một phần tư toàn thể loài người. Về
thời gian, trên hai ngàn năm trăm năm. Phật Giáo được truyền bá
rộng rãi và nhanh chóng như vậy, một phần lớn là nhờ ở giá trị
cổ hữu của mình, và nhờ đáp ứng được một cách thỏa đáng các đòi
hỏi của những tâm linh thích suy luận. Tuy nhiên, cũng có những
yếu tố khác giúp vào sự tiến triển ấy. Không bao giờ những nhà
truyền bá Giáo Pháp (Dhammaduta) dùng đến phương pháp áp bức.
Phật Giáo xâm nhập vào các quốc gia khác một cách ôn hòa và
không làm xáo trộn căn bản tín ngưỡng sẵn có. Công cuộc truyền
giáo của người Phật tử không bao giờ được thực hiện bằng bạo lực
hay bằng một phương pháp cưỡng chế hay áp bức nào khác. Đức Phật
và các đệ tử Ngài không thích và không bao giờ tìm cách cưỡng
bách ai theo tôn giáo mình. Phật Giáo hoàn toàn lánh xa các cuộc
thánh chiến.
-
Giáo sư Rhys Davids
viết:
-
"Trong toàn thể lịch
sử dai dẳng của Phật Giáo, xuyên qua nhiều thế kỷ, không có điểm
ghi nhận nào mà tôi được biết, đề cập đến người tín đồ Phật Giáo
ngược đãi, hành hạ những người theo tín ngưỡng khác".
-
Và như vậy, Phật Giáo
đã có thể tự chan hòa với nhiều văn hóa khác biệt nhau trên khắp
quả địa cầu.
-
Lúc sơ khai, Phật
Pháp được truyền bá do chính Đức Phật và các vị đệ tử A-La-Hán
của Ngài. Khoảng hai trăm năm đầu tiên Phật Giáo chỉ giới hạn
phạm vi hoạt động của mình ở miền Bắc bán đảo Ấn Độ. Kế đến thời
vua A-Dục (Asoka) - duy nhứt giữa những người cầm quyền cai trị
thế gian - vua A-Dục (Asoka) chấp nhận giáo huấn của Đức Phật và
cố gắng giáo dục dân chúng bằng cách truyền bá giáo huấn ấy,
nhứt là phần luân lý. Vua truyền lịnh cho tạc vào đá những lời
dạy có tánh cách luân lý. Đó thật sự là những bài pháp trên đá,
chớ không phải chỉ là những hình ảnh văn chương. Vua A-Dục
(Asoka) thấm nhuần tinh thần khoan dung vĩ đại mà Đức Phật đã
thuyết giảng. Dưới triều đại của Ngài, tất cả tôn giáo khác đều
được tự do hoàn toàn, không gặp trở ngại nào.
-
Nhận định rằng nhơn
loại hưởng lợi ích to tát nếu một giáo lý đầy bi mẩn và trí tuệ
như Phật Pháp được truyền bá rộng rãi trong dân gian, vua A-Dục
vận dụng mọi nổ lực để hoằng dương giáo huấn của Đức Phật ra
ngoài biên thùy xứ Ấn. Lúc bấy giờ có những đệ tử Phật đáp lời
kêu gọi của Đức Tôn Sư mà dư âm mãi còn phảng phất đâu đó sau
ngót ba thế kỷ.
-
"Hãy ra đi đó đây để
đem lại an lành và hạnh phúc cho chư Thiên và nhơn loại, và công
bố đời sống trong sạch".
-
Các vị này sẵn sàng
đảm nhận mọi nhiệm vụ truyền giáo ở xứ ngoài, mặc dầu ngôn ngữ
và phương diện di chuyển vào thời bấy giờ rất khó khăn và đầy
nguy hiểm. Nhờ lòng nhiệt thành hỗ trợ của Vua A-Dục và nhờ sự
tận lực, quyết tâm, và đức dũng cảm của các nhà truyền giáo,
giáo lý của Đức Phật được mở rộng đến các xứ khác. Sách vở thời
Vua A-Dục có đề cập đến những chuyến châu du hoằng pháp ở các
vương quốc Á-Châu nằm trong ảnh hưởng văn hóa Hi Lạp, ở Phi Châu
và Âu Châu, Syria và Ai Cập, Cyrene, Macedonia và Epirus đến
Bactria và xuyên qua trung phần Á Châu đến Trung Quốc.
-
Cũng thời Vua A-Dục,
236 năm sau khi Đức Phật nhập diệt, một người con của chính đức
vua, Đức Mahinda, một bậc hiền thánh A-La-Hán, đã đưa Phật Giáo
vào Tích-Lan và nơi đây, giáo lý của Đức Phật phát triển dồi dào
phong phú đến ngày nay, hầu như trong tất cả sự tinh khiết
nguyên thủy, trải qua những bước thăng trầm của hơn hai mươi thế
kỷ. Từ Tích-Lan, Phật Giáo được truyền sang Miến-Điện, Thái-Lan,
và từ đó đến Cam-Bốt, Ai-Lao, Việt-Nam, được thiết lập vững vàng
ở Tây Tạng và từ đó qua Nepal, Mông Cổ, và Trung Quốc. Từ Trung
Quốc, Phật Giáo cũng được truyền bá sang Java và phát triển mạnh
mẽ ở Sumatra dưới triều đại Sri Vijaya. Như vậy, Phật Giáo đã
vượt khỏi ranh giới của xứ Ấn-Độ và trở thành một tôn giáo thế
giới.
-
Lịch sử Phật Giáo
không thể tách rời ra khỏi lịch sử văn hóa và xã hội Đông
Phương. Trong tất cả những ảnh hưởng đã un đúc nền văn hóa Á
Châu, Phật Giáo được xem là sâu rộng nhứt. Trên 2500 năm, những
nguyên tắc và quan điểm Phật Giáo đã đượm nhuần tư tưởng và cảm
giác của người phương Đông.
-
Sự tiếp xúc giữa Phật
Giáo và thế giới Tây Phương đã có từ trước kỷ nguyên đạo Cơ Đốc
Bị giới hạn trong khuôn khổ của một quyển sách nhỏ bé chúng ta
không thể đề cập đến vấn đề này một cách đầy đủ. Dầu sao, những
người Âu Châu cũng đã có cái nhìn thoáng qua vào giáo lý Đức
Phật khi các du khách của họ - nhứt là các nhà truyền giáo Cơ
Đốc - đáp tàu hướng về phía Đông, từ thế kỷ mười sáu trở đi.
Chúng ta không thể mong đợi ở các vị này một bản tường trình
trung thực về những lời dạy minh bạch của Đức Phật. Và điều này
nổi bật một cách rõ ràng trong những văn phẩm về Phật Giáo mà
tác giả là các vị truyền giáo thời bấy giờ. Tuy nhiên chúng ta
phải ghi nhận rằng vào thế kỷ mười chín và đầu thế kỷ hai mươi,
vài giáo sĩ Cơ Đốc đã góp phần vào sự giới thiệu đạo Phật với
người phương Tây.
-
Những hiểu biết đầu
tiên đến Anh Quốc, Đức Quốc và các quốc gia khác ở Âu Châu,
không phải do các nhà truyền giáo Phật mà do sách vở. Chính sách
vở làm nhiệm vụ truyền giáo. Chỉ đến đầu thế kỷ mười chín người
phương Tây mới thật sự bắt đầu nghiên cứu và truyền bá dần dần
giáo lý của Đức Phật. Một ít học giả trứ danh thời bấy giờ tìm
học đạo Phật và tư tưởng Ấn-Độ và viết ra những quyển sách quí
giá về lịch sử và giáo lý của Đức Phật bằng nhiều ngôn ngữ Tây
Phương. Trong các ấn phẩm này ta nên ghi nhận công trình nghiên
cứu của các nhà Đông Phương học người Pháp Eugène Burnouf và
George Turner, những người Âu Châu đầu tiên học tiếng Pali. Nhờ
đó người phương Tây gia tăng dần - tuy chậm chạp những vững vàng
- những công trình nghiên cứu Phật Giáo và văn hóa Phật Giáo.
-
Ta phải nói rằng phần
đóng góp của ngưòi Anh vào việc truyền bá Phật Giáo rất là quan
trọng. Đặc biệt ta phải ghi nhận Giáo Sư T. W. Rhys Davids
(1843-1922), một nhà bác học lỗi lạc. Công trình vĩ đại nhứt của
ông là sáng lập Hội "Pali Text Society" (Hội Văn học Pali) vào
năm 1881. Đây là một cố gắng về mặt ấn loát và xuất bản bằng mẫu
tự La Tinh những kinh điển và chú giải Phật Giáo, và phiên dịch
ra tiếng Anh. Ông cũng là giáo sư về môn Pali và Văn chương Phật
Giáo tại Đại Học Luân Đôn (London University) và là người sáng
lập trường London School of Oriental Studies (Nghiên cứu Đông
phương). Nếu không có Hội Pali Text Society, giáo lý nguyên thủy
của Đức Phật ắt không được hiểu biết rộng rãi như ngày nay, nhứt
là ở phương Tây.
-
Khi đề cập đến Phật
Giáo ở Đức chúng ta phải nhìn nhận công đức của người bản xứ, vì
chính người Đức đã đem giáo lý của Đức Phật từ các lãnh thổ Phật
Giáo vào quốc gia mình. Cũng như trường hợp ở Anh, chỉ đến những
năm đầu của thế kỷ mười chín, người Đức mới tiếp nhận được bản
kinh sách có thể tin cậy do các học giả Đức, Pháp, và Anh chuyên
về Ấn Độ Học xuất bản. Bản dịch Kinh Pháp Cú (Dhammapada) đầu
tiên ra tiếng Đức được ấn hành vào năm 1860 do nhà Ấn Độ Học
Albert Weber, và đó là bản dịch kinh sách Phật Giáo đầu tiên ra
một sinh ngữ hiện đại Tây Phương.
-
Oldenberg, Karl E.
Neuman, Max Muller, Wilhelm Geiger, Kurt Schmilt, George Grimm,
Kurt Seidenstucker, Von Glasenapp, Waldschmidt Winternitz và Đại
Đức Nyanatiloka là những người làm việc không biết mệt để sáng
tác và phiên dịch kinh sách Phật Giáo và khuyến khích nhiều
người nghiên cứu giáo lý của Đức Phật. Vậy, sự thích thú tìm học
Phật Giáo của những học giả người Anh, người Đức, người Pháp và
những nhà Đông Phương Học truyền sang các quốc gia Âu-Châu khác
và Mỹ Châu, và kết quả là đến nay công trình nghiên cứu Phật
Giáo được tiếp tục do một nhóm học giả uyên thâm về Đông Phương
Học và Ấn Độ Học.
-
Tại Mỹ Quốc, vào
những năm cuối cùng của thế kỷ mười chín, ông Charles Rockwell
Lanman và môn đệ của ông, Henry Clarke Warren, sáng lập nhà xuất
bản Harvard Oriental Series để khuyến khích người phương Tây chú
trọng đến trí tuệ cổ xưa của người Đông Phương và để đem lại sự
hiểu biết lẫn nhau giữa những người sống ở hai phần đất khác
nhau trên quả địa cầu.
-
Trong các ấn phẩm do
nhà xuất bản này phát hành có nhiều bản dịch kinh sách Pali ra
Anh ngữ, và non phân nửa loại sách này được xeem là sách học của
Đại Học Harvard. Chúng ta cũng phải ghi nơi đây phần đóng góp
quí báu của giáo sư Edgerton, Đại Học Yale University, vào công
trình nghiên cứu kinh sách Pali bằng cách soạn thảo quyển tự
điển và văn phạm Buddhist Hybrid Sanskrit Dictionary, Reader and
Grammar xuất bản năm 1953, và phần của ông Dwight Goddard, một
Phật tử người Mỹ, đã sưu tầm và tập trung lại thành một quyển
sách mà ông đặt tên là "Thánh Kinh Phật Giáo" (A Buddhist
Bible).
-
Phái đoàn Phật Giáo
đầu tiên đến Anh Quốc ngày
23-4-1908.
Người hướng dẫn phái đoàn này không ai khác hơn là Đại Đức
Ananda Metteyya, một tỳ-khưu người Anh mà trước kia có tên
Charles Henry Allen Bennet, người đã dành trọn đời sống mình để
phục vụ đạo pháp. Theo chơn Ngài về Anh Quốc có một đoàn học giả
và những vị thí chủ nhiệt thành.
-
Ta có thể nói một
cách tin tưởng rằng Phật Giáo được truyền sang Mỹ Quốc vào năm
1893 nhơn đại hội các tôn giáo thế giới, World's Parliament of
Religions, họp tại thành phố Chicago. Trong kỳ đại hội này vị
Anagarika Dharmapala của Tích Lan đại diện cho Phật Giáo. Ông
Dharmapala là một cộng sự viên chặt chẽ của Đại Tá Olcott. Người
ta nói rằng cũng vào thời bấy giờ có một phái đoàn Phật Giáo
Nhựt Bổn lần đầu tiên đến San Francisco và bắt đầu hoạt động tại
đây.
-
Nếu thận trọng dò xét
lịch sử Phật Giáo ở phương Tây chúng ta sẽ thấy rằng, cho đến
ngày nay, chỉ có một ít học giả hiểu biết về Phật Giáo, và các
vị này chỉ đứng về phương diện "học giả" khi đề cập đến một "tôn
giáo sống". Đến nay thì hoàn cảnh đã đổi thay, và hình như Phật
Giáo đang đứng trước một khúc quanh mới. Nhờ có tài liệu Phật
Giáo dồi dào hơn trước đã được đến tay người phương Tây và nhờ
có những phái đoàn truyền giáo Phật thỉnh thoảng được cơ hội -
trong phương cách khiêm tốn của mình - giúp cho người Tây phương
quen thuộc với giáo lý của Đức Phật, những người Âu và người Mỹ
đã thấu hiểu rằng Phật Giáo không phải chỉ là một hệ thống giáo
thuyết mà còn là một lối sống - một phương thức đào luyện tinh
thần, đạo đức và tri thức dẫn đến sự giải thoát toàn diện tâm
linh, một kho tàng vô tận - là nền tảng đạo đức của một nền văn
hóa có tầm quan trọng quốc tế. Tuy nhiên, không nên quên rằng
khúc quanh mới này sở dĩ có một phần lớn là nhờ công trình vị
tha của các học giả trong khoảng một trăm năm qua.
-
Nhiều cuộc đổi mới đã
xảy ra ở phương Tây trong vài năm sau này. Có một sự quan tâm
đến Phật-Giáo - cả Nam lẫn Bắc Tông - càng ngày càng tăng
trưởng. Nhiều hội, nhiều trung tâm, và nhiều nhóm Phật Giáo đã
được thành lập, nhiều tự viện đã được kiến tạo, sách vở đủ loại,
đủ cỡ, đủ hạng (có uy tín hay không) và tạp chí, báo chí, đã
được ấn hành hằng ngàn số. Và, cũng như trong quá khứ, văn
chương Phật Giáo là phương tiện quan trọng để truyền bá Phật
Giáo, Hội Buddhist Publication Society (Hội Xuất bản Phật Giáo)
ở Kandy, Tích Lan, là một tổ chức ấn loát bất vụ lợi, được điều
hành do những hội viên danh dự không lãnh tiền thù lao, đã thực
hiện một công trình lợi ích đáng kể là ấn hành và phân phối trên
một triệu quyển sách nhỏ đến bảy mươi hai quốc gia, trong mười
năm trường. "World Buddhism" (một tạp chí thông tin Phật Giáo
quốc tế in lại Tích Lan) với những tin tức trong lãnh vực Phật
Giáo cùng những bài vở gồm cả Nam và Bắc Tông và phần giới thiệu
sách, đã được nhiều người phương Tây ưa chuộng.
-
Ta có thể nói rằng
tại Anh và Đức Quốc, Phật Giáo đã tạo cho mình một tổ ấm châu
toàn. Những tự viện, trung tâm thiền định, và hội Phật học đã
đóng góp một vai trò quan trọng trong việc truyền bá Phật Pháp,
tuy chậm chạp nhưng vững chắc, trong hai quốc gia này. Nhiều
quyển sách về Phật Giáo và rất nhiều ấn phẩm rẻ tiền khác, rất
được ưa thích, đã góp phần to tát vào việc hoằng dương Giáo Pháp
tại Âu và Á-Châu.
-
Hiện nay Phật Giáo đã
được truyền sang các lãnh thổ Thụy Điển, mặc dầu còn ở tầm mức
khiêm tốn. Trong hầu hết các quốc gia Tây Phương đều có các hội
Phật Giáo hay những nhóm học Phật và văn hóa Phật Giáo.
-
Khi đề cập đến Phật
Giáo trong thế giới Tây Phương, người ta thường nhắc đến Úc
Châu, mặc dầu, một cách chính xác, Úc-Đại-Lợi không nắm trong
thế giới phương Tây. Đối với người Úc, giáo lý của Đức Phật
tương đối vẫn còn mới mẻ. Đến nay chỉ có một vài trăm Phật tử
tại đây. Tổng Hội Phật Giáo Úc Châu gồm các chi hội tại Sidney,
Melbourne và Brisbane. Trong các hội này New South Wales Society
tại Sydney hoạt động mạnh nhứt.
-
Trong tất cả những
quốc gia này các hoạt động Phật Giáo được thực hiện một cách rất
khó khăn và cực nhọc. Chỉ có một ít người tích cực tinh tấn và
hoạt động không biết mệt. Nổ lực chơn thật và lòng nhiệt thành
không lay chuyển của các vị này đáng được một lời khen tặng.
-
Cuối cùng, ta phải
nói rằng tại Mỹ Quốc, không phải như ở các quốc gia khác, phần
lớn các Viện Đại Học và Trường Cao Đẳng đều có một phân bộ về
lịch sử tôn giáo trong ấy Phật Giáo là một môn học. Tại Đại Học
Đường Wisconsin có riêng một phân khoa Phật Giáo. Đa số các sinh
viên học Phật Giáo và các tôn giáo khác đều đứng về phương diện
luận lý - chớ không phải thực hành - để hiểu biết hơn về văn hóa
và tôn giáo các dân tộc Đông Phương. Tuy nhiên, cũng có nhiều
người Âu và Mỹ rất thích thú chú tâm tìm học Phật Giáo. Những
người này nhận định rằng Phật Giáo có phần "ấm áp" hơn là họ đã
tưởng. Tự do tư tưởng và tự do phát biểu ý kiến mà Đức Phật đã
nhấn mạnh, lời kêu gọi những ai muốn tìm hiểu hãy dò xét, quan
sát kỹ càng, thay vì tin suông, và quan niệm không đặt thần linh
làm trung tâm điểm và không hướng về thần linh của Phật Giáo đã
làm say mê những tư tưởng gia sâu sắc phương Tây.
-
Giáo từ mà Đức Phật
đã ban bố cho năm thầy Kiều Trần Như, 2500 năm về trước, hiện đã
lan tràn và thấm nhuần vào tận những góc trời xa xôi của thế
gian là một nguồn hạnh phúc cho non một phần tư nhơn loại. Những
lời vàng ngọc ấy rất cần phải được hiểu biết thấu đáo hơn và sâu
xa hơn.
-
Ước mong tất cả chúng
sanh đều được an vui hạnh phúc.
-
Hòa
Thượng Piyadassi
-
Phạm
Kim Khánh dịch Việt, 1972
-
-
Ghi chú:
-
[*] Tập sách nầy được
viết khoảng 30 năm về trước, trong đầu thập niên 1970. Do đó các
thông tin về công cuộc hoằng pháp tại Âu Mỹ là những thông tin
cũ, không được cập nhật. (Bình Anson, tháng 4, 2000)
-
|
|