|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
- VỀ BÀI
KỆ MỞ ĐẦU TRUNG LUẬN
- (
MÙLAMADHYAMAKAKÀRIKÀ )
- Thích Tâm Thiện
- --o0o--
-
-
LỜI DẪN
-
Chúng ta biết rằng
Trung Luận là một tác phẩm triết học -biện chứng nổi tiếng của
Ngài Nàgàrjuna (Long Thọ) . Thể cách phê bình lý luận của nó
được đánh giá là có một không hai trong lịch sử triết học AᮠĐộ
thời cổ đại. Người ta đam mê phong cách lý luận triết học của
Ngài phân lớn là vì đấy là một loại triết học XÃ LY, một loại
triết học hướng tâm thức của con người vào thế giới thực tại, xa
rời mọi cuồng si vọng tưởng. Và bài kệ mở đầu của Trung Luận đã
được nhắc đến như là tên tuổi của triết học Tánh Không
(sunyàtà), cũng như người ta thuộc nằm lòng nó như một công án
thiền. Tuy nhiên, một vài điểm trong bài kệ mở đầu của Trung
Luận thường rất dễbị hiểu nhầm khi dịch từ Hán sang Việt, trong
đó kể cả bản dịch của tôi.
-
Mùa thu năm
nay(1999), tôi hân hạnh nhận được một bức thư của HT. Thích
Thiện Siêu, một vị trưởng lão uyên thâm về Hán học. Trong thư,
Ngài đã chỉ rõ một số điểm lầm lẫn khi chuyển ngữ từ Hán sang
Việt ở bài kệ mở đầu của Trung Luận, và Ngãi cũng đã đích thân
hiệu chỉnh lại bảy chương đầu trong bản dịch Trung Luận của tôi
. Hy vọng tác phẩm này sẽ được tái bản trong một ngày gần đây.
-
Bên cạnh đó, chúng
tôi cũng nhận được một tác phẩm Trung Luận hoàn chỉnh bằng
tiếng Phạn và bản dịch, chú tiếng Anh của David J. Kalupahana do
Ven .Tuệ Hạnh gửi cho. Do đó, tôi khởi sự làm một đối chiếu nhỏ
về bài kệ mở đầu của Trung Luận , đồng thời, góp nhặt ý kiến của
chư tôn đức ở đây và xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
-
BÀI KỆ MỞ ĐẦU TRUNG
LUẬN
-
Bản
Devanagari (nguyên bản)
-
Anirodham anutpàdam
anucchedam asàsvatam, anekàrtham anànàrtham anàganam anirganam,
yah pratìtyasamutpàdam prapancopasamam sivam, desàyamàsà
sambuddhah tam vande vandatam varam.
-
Bản dịch
tiếng Anh (của David J. Kalupahana)
-
I salute him, the
fully enlightened, the best of speaker, who preached the non-
ceasing and the non-arising, the non-annihilation and the
non-permanence, the non-identity and the non-difference, the
non-appearance and the non-disappearance, the dependent arising,
the appeasement of obsessions and the auspicious.
-
Bản dịch
chữ Hán (của Cưu Ma La thập)
-
Bất sinh diệc bất
diệt, bất thường diệt bất đọan, bất nhất diệc bất dị, bất lai
diệc bất xuất, năng thuyết thị nhân duyên, thiện diệt chư hý
luận, ngã khể thủ lễ Phật, chư thuyết trung đệ nhất.
-
Bản dịch
tiếng Việt (theo bản Hán)
-
Không sinh cũng không
diệt, không thường cũng không đoạn, không giống cũng không khác,
không đến cũng không đi; khéo nói pháp nhân duyên, diệt trừ mọi
hí luận, con nay kính lễ Phật, bậc thuyết pháp đệ nhất.
-
Bản dịch
tiếng Anh (của Stcherbatsky)
-
"The perfect Buddha,
-
The foremost of all
teachers I salute,
-
He has proclaimed
-
The principle of
(universal) relativity.
-
Is like Blissful
(Nirvana),
-
Quiescence of
plurality
-
There nothing
appears,
-
Nothing has an end,
-
Nor is there anything
eternal
-
Nothing is identical
(with itself)
-
Nor is there anything
differentiated,
-
Nothing moves,
-
Neither hither no
thither".
-
Tạm dịch (theo bản
tiếng Anh)
-
Kính lễ Đấng toàn
giác vô thượng,
-
Ngài đã tuyên thuyết
-
Nguyên lý tương đối
của vũ trụ
-
Như Niết bàn
-
Vắng lặng mọi sai
biệt,
-
Không có gì biến mất
-
Cũng không có gì xuất
hiện
-
Không có gì đọan
diệt
-
Cũng không có gì
thường hằng
-
Không có gì đồng
nhất( với chính nó)
-
Cũng không có gì sai
biệt
-
Không có gì di chuyển
đến chỗ này hay chỗ kia.
-
Phần chú thích
-
Bản dịch đối chiếu (
Sanskrit ? Anh ) này về phân đoạn có nhiều sai khác so với bản
Hán dịch của Ngài Cưu Ma La Thập trong Đại chính tân tu đại tạng
kinh, ví dụ : bài kệ số một mở đầu Trung Luận được tách ra thành
một kệ độc lập; bài kệ thứ ba ( nếu tính bốn câu một bài ) được
sắp xếp thành bài kệ thứ nhất của chương một; bài kệ thứ năm trở
thành bà thứ hai?..
-
I. Căn
cứ theo chữ Hán
-
Bốn câu đầu của bài
kệ này rất rõ ràng, không có gì để bàn thêm. Vấn đề nằm ở bốn
câu sau . Cố nhiên là do bản Hán dịch quá cô đọng , lại khá mơ
hồ, nên phần lớn các bản dịch Việt ngữ trước đây, đều dịch nhầm
câu: " Năng thuyết thị nhân duyên, thiện diệt chư hý luận, ngã
khể thủ lễ Phật, chư thuyết trung đệ nhất ". (theo bản Hán). Câu
này, nếu dịch là : " Nếu nêu được nhân duyên này, sẽ diệt trừ
mọi hý luận, con nay đảnh lễ Phật, xiển dương Trung đạo đế"
(phần lớn các bản dịch cũ đều theo cách này), dịch như thế là
không đúng với bản Phạn lẫn bản Hán. Ở điểm này, HT. Thích Thiện
Siêu có hiệu chỉnh lại như sau:
-
Hòa Thượng khẳng
định, để dịch đúng bài kệ trên, cần phải nắm rõ ba điểm cơ bản
sau:
-
a/ Về mặt đối từ và
ngữ (cụm từ) trong thể kệ chữ Hán, thì năng thuyết (nói một cách
khéo léo) đối với thiện diệt (diệt trừ một cách thiện xăo), do
đó, câu này phải dịch là: "Khéo nói pháp nhân duyên
(pratìtyasamutpàda) , diệt trừ mọi hý luận (prapancopasáma).
-
b/ Trong chữ Chư
thuyết, thì chữ Chư là một đại từ chỉ cho Đức Phật mà không phải
là một trạng từ hay danh từ.
-
c/ Chữ Trung đệ nhất
ở đây không hề liên quan gì đến ý nghĩa của Trung Đạo đế hay
Trung đạo là đệ nhất nghĩa đế. Do đó, câu Chư thuyết trung đệ
nhất phải dịch là Đức Phật là bậc thuyết pháp đệ nhất (trong
hàng thuyết giáo). Vì thế , bài kệ này nếu dịch đúng, phải dịch
là:" ? khéo nói pháp nhân duyên, diệt trừ mọi hí luận, con nay
kính lễ Phật, bậc thuyết pháp đệ nhất ".
-
II. Một
cách luận giải khác
-
Một cách lý giải
khác, vừa dựa trên bản Hán dịch lại vừa dựa trên bản Phạn, cho
rằng các ngữ trong văn bản không mang tính đối xứng , hay đối từ
gì hết, trái lại mỗi từ và ngữ đều xác lập một giá trị riêng.
Ơ?73;ây, bốn câu kệ này, có ba ý chính:
-
a/ Năng thuyết thị
nhân duyên có thể hiểu là [Nêu được] nhân duyên này (yah
pratìtyasamutpàdam) , dĩ nhiên, duyên là giáo lý Duyên khởi, như
trong câu: " Yo, bhiksavah, pratityasamutpàdam pasyati, sa
buddham pasyati; yo buddham pasyati, sa dharma pasyati " (Ai
thấy được Duyên khởi thì người đó thấy Phật, ai thấy được Phật
thì người đó thấy pháp) ( xem BCAP,tr.368, hoặc trong MKV,tr.
6,116) .
-
b/ Thiện diệt chư hý
luận , ở đây prapancopasama có thể hiểu là phiền não tưởng do
luận lý hay các hình thể của ngôn từ đem lại. Do đó, thấy được
Duyên khởi cũng có nghĩa là diệt trừ phiền não tưởng , sự
diệt trừ phiền não tưởng mang tính cách tốt đẹp ( thiện , siva =
prapancopasamam sivam) đó là Niết bàn, nên chữ Thiện trong bản
Hán dịch có thể hiểu là Niết bàn. c/ Vì, hý luận , theo văn học
A- tỳ- đàm, là phiền não. Cho nên, phiền não diệt là Niết bàn.
Hoặc Niết bàn là đã diệt trừ phiền não.
-
Từ ba cơ sở qui chiếu
trên, cách giảy thích này dường như hướng đến xây dựng một ý
nghĩa Niết bàn nằm phảng phất đâu đó ngay nơi bốn câu kệ này.
-
III. Căn
cứ theo chữ Phạn
-
Nếu căn cứ trên bản
Phạn (bản gốc) thì nội dung của bốn câu kệ trên được viết rất rõ
ràng:" yah pratìtyasamutpàdam prapancopasamam sivam, desàyamàsà
sambuddhah tam vande vandatam varam //" - rằng (Đấng toàn giác
vô thượng[Đức Phật] đã thuyết giảng nguyên lý Duyên khởi này
diệt trừ mọi hý luận một cách tốt đẹp ?). Ở đây, siva được hiểu
như một trạng từ, có nghĩa là một cách tử tế (kindly), một cách
độ lượng, một cách thương xót? Trong đoạn kệ trên , hoàn toàn
không có từ hay ý nào đề cập đến Niết bàn. Tuy nhiên, qua luận
giải như vừa đề cập, thì từ Niết bàn thường được nhắc đến như
một yếu tố quan trọng và nghe có vẽ rất hợp lý. Ngay như trong
bản dịch của Stcherbatsky, vẫn xuất hiện chữ Niết bàn (Is like
Blissful [ Nirvana ]?) .Có lẽ, đây là một sự ảnh hưởng chung cho
những ai khi dịch dựa trên sự giải minh theo dòng triết học
Trung quán của Nguyệt Xứng (Candrakìti) ?
-
Từ đó, chúng ta thấy
rằng, do tính chất cô đọng của bản Hán dịch, nên rất dễ nhầm
lẫn nếu dịch thoát ý, nhất là khi suy luận xen vào. Còn vấn đề
luận giải quả thực là bất khả thuyết .
-
Trên đây là một số
điểm quan trọng và cần thiết thường tạo nên sự ngộ nhận khi đi
vào nghiên cứu Trung Luận mà chúng tôi đã được chư tôn đức chỉ
dạy , xin chia sẻ cùng bạn đọc .
- --o0o--
|
|