|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
TAM QUY
- Phúc
Trung
-
--o0o--
-
-
I-
DẪN : Một
người đi học phải có một vị Thầy dẫn dắt, chỉ bảo, phải tin vào
người Thầy và tin những gì Thầy mình chỉ bảo là đúng. Một người
Phật tử cũng vậy, phải tin Đức Phật là một bậc Đại Giác Ngộ,
những gì ngài dạy trong kinh điển là Chân Lý và những vị tu sĩ
là bậc thay thế Phật để dẫn dắt chúng ta trên đường tu học. Do
đó, người Phật Tử phải quy-y Tam Bảo.
-
II -
Ý NGHĨA QUY Y TAM BẢO :
Quy là trở về, Y là nương tựa vào, Tam Bảo là 3 vật qúy báu nhất
trên đời:
-
Một là Phật, đúng ra
là Phật Đà do người Trung Hoa phiên âm từ chữ Phạn Bouddha, dịch
nghĩa là giác giả, một người đã giác ngộ hay hiểu thấu chân lý,
giác giả gồm tự mình giác ngộ, đem sự hiểu biết đó truyền bá cho
mọi người và hạnh nguyện trọn đủ mới là bậc Giác Giả, người
Việt chúng ta phiên âm là Bụt.
-
Hai là giáo lý của
Phật gọi là Dharma, người Trung Hoa phiên âm là Đạt ma hay Đàm
mô, dịch nghĩa là Pháp, chỉ cho tất cả mọi sự mọi vật trong vũ
trụ, nhưng thông thường pháp có nghĩa là Giáo Lý của Phật.
-
Ba là Tăng hay gọi
cho đủ là Tăng Gìa, người Trung Hoa phiên âm từ chữ Shanga, dịch
nghĩa là hòa hợp chúng, phàm hể có 4 vị tu sĩ hòa hiệp với nhau,
ở chung một chỗ tu gọi là tăng gìa.
-
Vậy quy y Tam Bảo có
nghĩa là chúng ta trở về nương tựa vào Phật, Pháp, Tăng để tu
cầu giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi.
-
III -
BA BẬC TAM BẢO :
Tam bảo có 3 bậc khác nhau:
-
- Đồng thể
Tam bảo.
-
- Xuất thế Tam bảo.
-
- Thế gian trụ trì
Tam bảo.
-
1) Đồng thể tam bảo:
-
A) Đồng thể Phật bảo: Phật
và chúng sanh có cùng thể tính như nhau, đó là Phật tính.
-
B) Đồng thể Pháp bảo: Phật
và chúng sanh có cùng pháp tánh từ bi, bình đẳng.
-
C) Đồng thể Tăng bảo: Phật
và chúng sanh có cùng thể tánh thanh tịnh, sự lý hòa hợp.
-
2) Xuất thế tam bảo:
-
A) Xuất thế gian Phật bảo:
Đức Phật Thích Ca, Phật A Di Đà... là những vị đã thành Phật,
không còn ràng buộc sanh tử luân hồi ở thế gian nữa.
-
B) Xuất thế gian Pháp bảo:
Là những giáo lý của Phật dạy cho chúng sanh tu tập để giải
thoát khỏi luân hồi, như Tứ Diệu Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Lục Độ
Ba La Mật...
-
C) Xuất thế gian Tăng bảo:
Là những bậc Thánh Tăng, là những vị Bồ Tát, đã ra khỏi thế gian
như: Đức Quán Thế Âm, Đức Đại Thế Chí...
-
3) Thế gian trụ trì tam bảo:
-
A) Thế gian trụ trì Phật bảo:
Là Xá Lợi Phật, răng Phật, tóc Phật,... tượng Phật, ảnh Phật
chúng ta để thờ tự. Khi Đức Thế Tôn còn tại thế, lúc vua phát
tóc cho vua Tần Bà Xa tại thành Vương Xá, Phật dặn rằng : " Tóc
và móng tay thừa của ta, Bệ Hạ nên thờ trên trang, còn đạo lý
của ta, Bệ hạ thờ trong tâm."
-
B) Thế gian trụ trì Pháp bảo:
Là Tam tạng kinh điển; Kinh, Luật, Luận chúng ta dùng để tu học.
-
C) Thế gian trụ trì Tăng bảo:
Là những vị tăng tu hành chân chính, giới hạnh trang nghiêm
trong đời hiện tại.
-
IV -
QUY-Y TAM BẢO :
Gồm có hai phần, hình thức bên ngoài còn gọi là sự quy-y, bên
trong còn gọi là Lý quy y.
-
A) Sự quy-y tam bảo : Hàng
ngày chúng ta cung kính Lạy Phật, Nỉệm danh hiệu Phật, tưởng nhớ
đến Phật. Chúng ta tụng kinh, đọc Kinh sách để hiểu rõ nghĩa lý
lời Phật dạy để tu tập cho đúng phương pháp, trí tuệ được mở
mang, củng cố đức tin ngày càng vững mạnh hơn. Chúng ta kính
Phật thì phải trọng Tăng, chuyện Con Sư Tử Trọng Pháp sau đây
nói lên ý nghĩa này:
-
Thời mạt
pháp của Đức Phật Tỳ Bà Thi, trong núi kia có những vị Bích Chi
Phật tu hành, có con sư tử Kiên Thệ lông rất đẹp, sức mạnh vô
địch, có một vị Bích Chi Phật tâm từ rất lớn làm cho sư tử Kiẻn
Thệ kính phục, thường đến gần để nghe tụng kinh, thuyết pháp.
-
Có một tên thợ săn
thấy sư tử Kiên Thệ có bộ lông đẹp muốn giết lấy lông dâng lên
vua để được ban thưởng, tên thợ săn lại sợ sức mạnh của sư tử
Kiẻn Thệ, lập mưu mặc áo cà sa, làm cho sư tử Kiên Thệ tưởng là
Bích Chi Phật nên đến gần, tên thợ săn liền lấy mũi tên có tẩm
thuốc độc ra bắn sư tử Kiên Thệ, bị trúng tên sư tử Kiên Thệ vẫn
còn sức mạnh, muốn vồ chết tên thợ săn gỉa làm sa môn kia,
nhưngnó nghĩ lại, người mặc áo cà sa là biểu hiệu của Phật trong
ba đời, ta không được phép xúc phạm đến biểu hiệu cao qúy đó, ba
lần định vồ, ba lần kịp suy nghỉ, thuốc thấm dần, sư tử Kiên Thệ
chịu chết.
-
Tên thợ săn giả hiệu
độc ác kia lột lấy bộ da đẹp đem dâng cho vua, vua nghe thuật
lại chuyện, biết con sư tử đã hy sinh thân mạng mình để giữ trọn
sự tôn kính chư Phật, nhà vua liền ra lệnh chém tên thợ săn và
cho làm lễ hỏa thiêu con sư tử như lễ trà tỳ của một vị sa môn.
Con sư tử Kiên Thệ là tiền thân của Đức Thích Ca Mâu Ni.
-
B) Lý quy-y tam bảo: Ngay
trong tâm chúng ta Phật dạy có đủ Tam Bảo, trong chúng ta có
Phật tính, chúng ta phải tự quay về với Phật của mình, đó là trở
về với cái tâm thanh tịnh của mình, giữ cho tâm mình luôn luôn
thanh tịnh. Chúng ta phải tự quay về Pháp tánh của mình, tức là
trở về với Tâm Từ Bi, Trí sáng suốt, lòng nhẫn nhịn... Chúng ta
cũng phải tự quay về nơi sự hòa hợp của mình với mọi người chung
quanh, nhất là những người bạn đạo cùng tu cùng học với nhau.
Đó là chúng ta tự quay về với chính mình, ngày ngày phải tu tâm
sửa tánh.
-
V-
NGHI THỨC QUY-Y :
Lễ quy y thường được tổ chức tập thể vào những ngày lễ lớn như
Phật đản, Thành Đạo, Xuất gia, Vu lan bồn... Có thể chỉ có một
vị tăng chủ lễ hay cũng có thể có 3 vị gọi là tam sư. Trước khi
làm lễ quy-y, thân tâm ta phải trong sạch, tắm gội, mặc y phục
sạch sẽ, trước đôi ba ngày nên ăn chay, giữ tâm thanh tịnh.
-
Trong lễ quy y, theo
sự dẫn dắt của vị chũ lễ, chúng ta sê phải lần lượt phát nguyện
những câu sau đây:
-
- Đệ tữ suốt đời
quy-y Phật.
-
- Đệ tử suốt đời
quy-y Pháp.
-
- Đệ tử suốt đời
quy-y Tăng.
-
Sau đó sẽ đọc tiếp:
-
- Đệ tử quy y Phật
rồi, khỏi đọa địa ngục.
-
- Đệ tử quy-y Pháp
rồi, khỏi đọa súc sanh.
-
Và cuối cùng phát
nguyện:
-
- Đệ tử quy-y Phật
rồi, nguyện trọn đời không quy-y thiên, thần, quỷ, vật.
-
- Đệ tử quy-y Pháp
rồi, nguyện trọn đời không quy-y ngoại đạo, tà giáo.
- Đệ tử quy-y Tăng rồi, nguyện trọn đời không quy-y
tổn hữu, ác đảng.
-
Phần phát nguyện
xong, vị chủ lễ ban cho người đệ tử một pháp danh, rồi giảng về
ý nghĩa tam quy, đến đây là hoàn tất buổi lễ, theo lệ xưa, quý
Thầy truyền Tam quy có phát cho đệ tử một tờ điệp, trong đó có
ghi rõ họ tên và pháp danh của người đã quy-y.
-
Khi mình đã quy y với
một vị Tăng nào rồi, trọn đời mình không quy y với vị nào khác
nữa, do vậy, trước khi quy y nên lựa chọn vị bổn sư (Thầy của
mình) cho thật kỹ. Vị ấy phải tài cao, đức trọng, giới hạnh
trang nghiêm để ta nương tựa vào mà tu học trọn đời. Khi đã quy
y rồi, dù vị thầy ấy thế nào đi nữa cũng là thầy của mình, luôn
luôn phải tôn kính cúng dường, khi vị tăng ấy viên tịch, đệ tử
là tông đồ phải chịu tang như cha mẹ của mình vậy.
-
VI -
LỢI ÍCH CỦA QUY Y :
Nhờ có quy-y, chúng ta luôn luôn tâm niệm rằng mình là một người
Phật tử, phải quay về nương tựa vào Đức Phật để tu tập theo con
dường giải thoát do Đức Phật đã chỉ dạy. Chúng ta phải nương
tựa vào Ảnh, Tượng, Kinh sách Phật và sự chỉ dẫn của chư Tăng để
hàng ngày tu học tinh tấn, Phật chỉ dạy rằng: "...Này! Các người
phải tự thắp đuốc lên mà di ! Các người hãy lấy pháp của ta làm
đuốc ! Hãy theo pháp của ta mà tự giải thoát ! Đừng tìm giải
thoát ở một kẻ nào khác, đừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào
khác ngoài các người !.."
-
Một người Phật tử,
nhất thiết phải quy-y, nhưng quy-y chưa phải là đủ, qua quy y
chúng ta đã phát nguyện trước Tam Bảo, nhờ đó chúng ta mới trở
về với bản thể của mình để tu học ngày càng tinh tấn. Một người
đã quy y mà không hiểu rõ Lý và Sự quy y, không làm đúng theo đó
thì quy-y ấy chỉ là hình thức bên ngoài, nó trở thành vô nghĩa,
không ích lợi chi cho con đường giải thoát của mình.
-
16-3-1996
- --o0o--
|
|