|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Pháp
Môn Tu Tắt
- HT.
Thích Giác Nhiên
-
--o0o--
-
-
Kiếp con người sống
gởi thác về. Ai cũng vậy. Gọi là "sinh ký tử quy", Sống gởi thác
về. Đời người là như vậy. Tất cả mọi người đều như vậy. Đức Phật
cũng vậy, phải đọa cái xác thân tứ đại giả hợp này.
-
"Cuộc đời có hợp
không tan.
-
Thì đâu có sự bẽ bàng
thế ni!
-
Cuộc đời có hợp không
ly,
-
Thì đâu có nỗi sầu bi
đoạn-trường!"
-
Thật như vậy! Tất cả
mọi loài mọi vật đều phải thay đổi theo thời-gian, biến dịch của
vô-thường, là thành trụ hoại không, hay là sinh, trụ, dị, diệt.
Còn thây con người của chúng ta đây là sanh, lão, bệnh, tử. Tử
chưa phải là hết, mà chỉ thay đổi kiếp sống của con người thôi.
Rồi sanh trở lại, tử nữa. Tử rồi sanh nữa. Sanh tử trong bánh xe
tam đồ, lục đạo, kiếp này đời nọ, mãi mãi hoài hoài. Sự sanh tử
nào có chi đâu khác lạ, cũng như người tài-xế mà lái chiếc xe,
chiếc xe tung hư, mục nát bỏ đi, nhưng người tài-xế vẫn còn.
Cũng như chiếc xe thầy, thầy lái đó, bữa nay là nó hư rồi, có
thể đem bỏ nó thành sắt vụn, nấu thành nước, đổ lại chiếc khác.
Nhưng mà thầy tài-xế vẫn còn. Qua đây thầy lái được tám chiếc xe
hơi rồi, ở tại Mỹ. Từ ngày qua Mỹ đến nay thầy lái được tám
chiếc, tám lần thay đổi xe hơi, nhưng ông Giác-nhiên vẫn còn
sống nhăn; mà có thể thầy còn lái nhiều chiếc nữa! Đó là nói ít
đó, chớ có người, quý Phật-tử biết, qua đây một ngày họ lái hai,
ba chiếc xe hơi, thay đổi như vậy! Chiếc xe là vật vô-tri
vô-giác; sắc thể con người của mình tứ đại giả-hợp, vô-thường,
cấu tạo rồi tan rã; mà cần cái tâm linh của mình, cho nên tu là
như vậy. Người đời không biết, nghĩ tưởng rằng: "Dại gì tu, khổ
quá; tu chi cho cực vậy! Nhứt là qua cái xứ văn-minh vật-chất
này, đầy dẫy tự-hưởng, sung sướng vô cùng, là thần tiên tại thế,
tu gì nữa! Tu là tại Việt-nam khổ sở, chiến-tranh giặc-giã, vái
trời lạy Phật, cầu khẩn thánh-thần, ráng lo tu! Chớ còn qua bên
đây sướng quá, còn lo tu gì nữa!" Nhưng thưa quý vị, không có
sướng!
-
Thiệt, cũng có người
thụ hưởng là sướng vậy! Nhưng mà có sướng với xác thân vật-chất
tạm-bợ, nó đâu có vĩnh-viễn? Và cái sướng đó, chỉ là an ủi trong
một chốc lát rồi thôi, mà sự đau khổ nhiều hơn. Bởi vì, cõi
Ta-bà mà, dầu xứ nào, quốc-gia nào, đất nước nào, dân-tộc nào
may mắn, một xứ nào đầy đủ vật chất, đời sống tiện-nghi, cũng
như các xứ văn-minh Á, Âu-châu hay là Mỹ-châu đây chẳng hạn. May
mắn là được nhiều cái vật chất, cơ-giới văn-minh, khoa-học
kỹ-nghệ phát-triển mạnh, giúp đỡ cho con người thụ-hưởng
vật-chất một phần nào thôi. Nhưng vẫn là khổ đau chớ, là vì cõi
Ta-bà mà! Nên có câu nói rằng:
-
"Ta-bà khổ, Ta-bà
khổ!
-
Tịnh độ vui, Tịnh độ
nhàn vui!
-
Sống trong trần tục
lấp vùi
-
Một cười mười khóc,
mà vui nỗi gì!"
-
Tuy nói vui, nhưng sự
thiệt có một phần cười, mười phần khóc. Quý vị không biết có
chứng-kiến được trường-hợp đó không? Chớ thầy có đi cầu-siêu
nhiều đám và thầy có chứng-kiến được nhiều trường-hợp như vậy.
Qua bên đây người ta cũng khổ lắm nghen, tự vận chết cũng nhiều
lắm đó! Quý vị biết có nhiều gia đình ở Việt-nam đầm ấm
hạnh-phúc hết sức mà qua bên đây tan nát đổ vỡ; như hôm thầy đi
thuyết-pháp ở tiểu-bang ... ông đó ổng giàu lắm, cơ-sở ổng có
thể giàu cả triệu bạc lận, mà ổng buồn ổng khóc, ổng than với
người bạn; bởi vì người bạn gia đình đầm ấm hạnh-phúc quá, con
cái dạy dỗ nên thân nên phận, học hành nên danh thành phận; còn
ông ta có năm đứa con, ổng giàu có cửa tiệm, hai ba cái, nhà, sự
nghiệp ổng trên cả triệu đô-la, nhưng ổng than, ổng nói rằng con
ổng chết hết rồi (thiệt ra còn sống nhăn, không có chết, nhưng
mà chết rồi, là vì bây giờ con ổng tan nát hết), nó theo bụi
đời, hư hỏng hết, không học hành nên danh phận gì hết, và không
còn ở với ổng, nó đi lang thang khắp nơi. Ồng giàu như vậy, có
tiền như vậy để làm gì? Nếu ổng biết vậy, thì hồi đó ổng đâu có
đi làm chi tạo ra cơ nghiệp, tiền bạc thì có, cơ-sở thì có, tiệm
tùng thì có, nhưng bây giờ con ổng chết hết rồi (chưa có chết,
còn sống, nhưng bây giờ nó hư hỏng hết rồi). Cuộc đời nó tan
nát, nó ghiền xì-ke ma túy, nó theo bụi đời, nó đi ăn cướp ăn
trộm; đứa thì tù tội, đứa thì trốn chui trốn nhũi. Nghĩ vậy, dầu
có tiền của nhiều như vậy, có gì hạnh-phúc đâu!
-
Đó là lấy một thí dụ
trong muôn ngàn triệu tỷ tỷ cái sự đau khổ của nhân-loại trên
mặt đất này. Vì vậy nên cõi thế-gian này được gọi là cõi Ta-bà,
là bể khổ. Chớ đừng tưởng rằng giàu có vật chất mà không khổ.
Giàu có thì khổ theo giàu có; nghèo hèn, tù-tội thì khổ theo
nghèo tội, đê hèn; hạng bậc nào cũng khổ!
-
Đừng nói chi, mình
mang thân tứ đại này là khổ rồi! Sanh, già, đau, bệnh, chết đủ
thứ. Mấy cậu, mấy cô còn trẻ tuổi từ mười tám, hai mươi, ba mươi
tuổi trở lại, nghe thấy mạnh khỏe như voi, ăn uống ngon, làm cái
gì cũng thấy sung sướng, thụ-hưởng, thấy mình sống vậy là ngon
lành há! Nhưng mà thêm ít tuổi nữa đi, rồi thân hình tiều tụy,
da nhăn, mặt nám, chân mỏi, gối dùn, bệnh hoạn ốm đau. Nội hàm
răng của mình, mà có người bị hàm răng hành đau mà khổ, nghĩa là
ăn uống không được, nhức cái răng chớ đừng nói gì! Nội cái răng
mình mà nó thay hai lần; là quý vị thấy nó khổ bực nào không?
Thầy đây nè, cái răng cấm của thầy, hồi đó giờ răng thầy cứng
lắm, răng thầy mà dây điện, thầy làm biếng lấy dao, thầy cắn nó
đứt, nghiến nó đứt, mạnh lắm; nhưng hồi quãng bốn chục tuổi,
thầy mới thay răng, mà gọi là mọc răng cấm - răng khôn đó - mà
nó dại chớ không à! Nó hành mình đau muốn chết mà khôn gì! Nó
hành thầy đau đến nỗi thầy đi mổ nó ra, mổ nó đi cho rồi! Nó
không mọc lên lẹ; nó nhú lên chút xíu vầy, nhích một chút; lâu
lâu nóng trong người, nhích một chút, nó đau, nó sưng lên; nó
hành mình đau quá, thôi nhổ quăng quách đi cho rồi, để chi nó
hành cho khổ! Ta gọi là răng khôn đó, mà thầy đặt nó là răng
dại, nó khôn thì nó đừng có đau nhức người ta mới để nó yên thân
chớ, đàng này nó đau nhức hoài; nhổ nó quăng, còn gì nói là
khôn! Thành ra khi nào quý bà con mọc răng dại là khổ lắm, nó
hành mình đau lắm. Rồi phải có một cái răng đó thôi sao! Cả hàm
răng băm hai cái, quý Phật-tử biết mỗi một cái nó đau nhức nó
hành mình đủ thứ; rồi hỏi ông vua ổng có khỏi nhức răng không?
Mặc dù giàu sang phú quý, ông thủ-tướng, ông bộ trưởng, thí dụ
ổng có tiền bạc, vật chất đầy đủ, nhà lầu, xe hơi, vợ đẹp, con
khôn, rồi đó, nhưng mà hàm răng ổng đau, có thể vợ con, tiền bạc
thế chịu được không? Thành ra đừng nói chi, hạng bậc nào hễ mang
xác thân rồi thì phải khổ. Bởi thế cho nên đức Lão-tử, ngài có
nói rằng:
-
"Ngô hữu đại hoạn vi
ngô hữu thân
-
Nhược ngô vô thân hà
hữu vi hoạn"
-
Nghĩa là
-
- Ta mắc cái hoạn lớn
trên cõi đời này là vì có cái thân này, nếu con người không có
cái thân này, không có cái nạn khổ chi". Cho nên thân này là một
cái nạn khổ, nhưng mà chẳng những khổ cái thân sống hành hạ đau
rồi thôi, còn chết nữa là "tử biệt sanh ly" thật đúng như vậy.
-
"Phụ mẫu ân thâm
chung hữu biệt
-
Phu thê nghĩa trọng
giả phân ly
-
Nhơn tình tựa thể
đồng lâm túc
-
Đại hạn lai thời đáo
tự phi"
-
Nghĩa là:
-
-"Hỡi ơi, cha mẹ ơn
sâu rồi cũng có ngày cách biệt. Vợ chồng tuy nghĩa nặng rồi cũng
có lúc chia lìa. Nhơn tình tựa thể chim đang ngủ. Mạnh sáng con
nào nấy bay đi."
-
Đời là thế! Thế-gian
là thế, chỉ có thế thôi! Chúng ta vì chưa ý thức giác ngộ, sự
vô-thường của cuộc đời tạm bợ giả tạm này, chúng ta nghĩ rằng
sống là phải thụ-hưởng, sống để lo tiền bạc vật chất, sống để lo
tạo cơ sở, sự-nghiệp cho con, cho cháu, cho chắt chít mình;
nhưng chúng ta quên rằng kiếp sống con người chỉ một hơi thở
thật dài; ngắn ngủi lắm, nhanh chóng lắm, và mau lẹ lắm!
-
Trong kinh Tứ thập
nhị chương, có một đoạn Đức Phật hỏi các chú đồ đệ của Ngài:
"Đời người sống bao lâu, các con có biết không?" Có một vị
tỳ-kheo bạch rằng: "Bạch Đức Thế-tôn, đời người sống sáu mươi
tuổi". Thường thường nói sáu mươi tuổi, nói vậy chớ một trăm,
người ta nói đời người trăm tuổi, kêu là: "nhơn sanh bách tuế
duy kỳ" tức là người ta sống trăm tuổi là cùng! Nói một trăm,
chớ thầy thấy có người thiệt sống một trăm hai mươi tuổi; mà
sống chi khổ quá, lẫn lộn, nhà có nắng rọi vô, tối ngày xách rổ
lượm hột vịt, lượm hột vịt bỏ vô rổ. Con cháu cho ăn cơm rồi trở
lại hỏi: "Ông ăn cơm chưa?" Nói: "Thôi, nó không cho tao ăn, nó
bỏ đói tao cả ngày vậy đó". Con cháu đã cho ăn, nhưng đã lẫn mà!
Thành ra nói với bà con, sống nhiều tuổi vậy có thích không? Cho
nên, thường thường Tết, bà con về Thăm, nói: "Chúc cho
Hòa-thượng sống trăm tuổi, hai trăm tuổi!" Thầy nghe nói, thầy
giận lắm nghe! Muốn cho thầy khổ hả? Muốn cho thầy khổ cả trăm
năm hả? Sống chi sống nhiều khổ phải không? "Đa thọ đa nhục" mà!
Nghĩa là tuổi càng sống nhiều chừng nào, càng nhục nhã chừng ấy.
-
Quý Phật-tử nói thì
nghe nó kỳ, mà nói thì bằng sự thật, thầy thì nói thẳng, nói
thiệt cho nghe chớ, nói toạt móng heo, chớ dấu diếm vòng vo chi
nữa! Già rồi, lẫn lộn. Ăn uống lều khều, dính tùm lum. Con cháu
nhiều khi nó lấy đồ nó che ở đi nữa, rồi ỉa trây, đái dầm. Ăn dơ
ăn dáy. Thử hỏi sống làm chi, nói tầm bậy tầm bạ, con cháu nó
buồn nó giận. Thành ra cho nên nói thiệt mà nghe, thầy thường
nói từ sáu chục tuổi trở lên mà chết thì phải rồi, được rồi.
Thầy có biết rồi, nó nhức mỏi, nó ê ẩm, nó uể oải, nó bần thần,
nó dã dượi, không có sướng gì hết trơn trọi! Đó là nói thiệt
tình, vì vậy cho nên, thấy cái chết mình đừng có buồn. Cha mẹ
già tuổi chết rồi, có người bảy, tám chục tuổi chết còn tiếc.
Tiếc làm chi? Chiếc xe cũ rích nó hành hạ ông tài xế thấu trời.
Thầy đây, có lần nó bỏ ở ngoài Highway, quý Phật-tử có biết
không, mình thì khổ sở đủ thứ, máy móc không rành, đi đứng không
biết làm sao, bỏ ở ngoài Highway ở ngoải, nó hư nó "pan" đó
thành ra khổ! Chiếc xe mà cũ rích thì nó hành hạ ông tài xế;
thân mình mà lớn rồi nó hành hạ tâm-hồn lắm. Cho nên già thì
phải chết. "Sinh ký tử qui" sống gởi thác về mà!
-
Vì vậy cho nên già
lớn tuổi thì chết, là bỏ cái xác thân không có gì đáng tiếc.
Nhưng có điều, sống đời biết tu hành hay không, biết đạo đức hay
không, biết tạo phúc đức hay không; vì con người ai cũng chết,
nhưng chết đem theo được có hai điều: tội và phước. Mà hễ tội
thì đọa, phước thì được siêu, gọi là: Thanh thăng trược giáng.
Cũng như quý vị thấy đốt trên bàn Phật những nén hương, khói nhẹ
bay lên tro tàn rớt xuống. Con người mình sống đời hung ác,
ngang tàng, bất hiếu, bất nghĩa, bất lương, vô đạo, vong ân chết
rồi bị đọa xuống. Còn sống đời ăn hiền, ở lành, tu nhơn, tích
đức, hiếu thảo, hiền từ, ân nghĩa thì chết rồi, nhưng mà tâm hồn
vẫn được siêu thoát.
-
Thể xác vùi sâu ba
tất đất
-
Thanh danh lừng lẫy
bốn phương trời
-
Mặc dầu, tuy thân
chết là thay đổi, không có gì đáng tiếc hết, nhưng có tiếc chăng
là có biết tu hành hay không? Có biết đạo đức hay không? Con
người sống có ích lợi gì cho ai không? Mình có biết đền ơn cha
mẹ sinh thành dưỡng dục chín tháng cưu-mang, ba năm bồng ẵm, bú
sữa sú cơm, công lao cực khổ hay không? Hay sanh ra những đứa
con ngỗ-nghịch, bất hiếu, làm cha mẹ phải khổ đau, thì mình chỉ
tiếc những đứa con không biết bổn phận, không làm tròn nhiệm vụ!
Sanh ra làm con người cũng vậy, đâu phải mình chỉ thọ ơn cha mẹ
không, mà còn ơn vua chúa, của quốc vương thủy-thổ, ơn của tín
chủ, bá-tánh, cư-gia, ơn thầy, nghĩa bạn, nói chung là
chúng-sanh, ơn đó vô cùng tận; và cái ơn ít có khi nghĩ tưởng -
cái ơn lớn hơn ơn của cha mẹ - là cái ơn của các loài thú vật đã
hy-sinh thân mạng để nuôi mình. Mình mà to tát thế này, ăn bao
nhiêu chục tấn sinh-mạng, súc vật chết biết bao nhiêu muôn ngàn
triệu sinh-mạng mà nuôi mình. Nó đã hy sinh thân mạng nó nuôi
mình, mình nghĩ đến cái ơn đó lớn lắm, chớ không phải nhỏ đâu,
mặc dù mình biết hay không, chứ nó vẫn là cái ơn lớn, mà không
phải một kiếp một đời. Mình có đây là mình đã trải qua nhiều
kiếp đời lắm lắm.
-
Cho nên mình thọ ơn
chúng-sinh từ vô-thủy đến nay không thể nói cho cùng tận được.
Mình hôm nay mà biết khôn, biết đạo đức, biết thương người mến
vật, biết hiếu thảo đạo nghĩa, không phải là mới tiến-hóa một
kiếp đâu, mà mình tiến-hóa, đã trải qua nhiều kiếp đời lắm rồi.
Hôm nay mình được thế này là mình thọ ơn chúng-sinh quá sức
nhiều; cho nên mình phải nghĩ rằng, tất cả chúng-sinh là cha mẹ
của mình. Nếu nghĩ như vậy, bao giờ mình lại làm đau khổ
chúng-sinh? Mình làm phiền lụy đến một chúng-sinh nào, mình làm
khổ nhọc một chúng-sinh nào đó tức là mình làm khổ nhọc ông bà
cha mẹ cửu-huyền thất-tổ của mình.
-
Thì bây giờ, mình
phải tìm phương hóa độ, Nhưng mình không đủ tài năng đức độ,
không đủ cơ duyên, phương-tiện, bất cứ vị nào có đủ phương-tiện
cơ duyên hóa độ mình trợ duyên giúp sức, dầu ai độ được
chúng-sinh nào mà giác ngộ là quý vị nhổ được cái gai trong cõi
đời. Cứu một linh-căn khỏi trầm kha đắm đọa, vớt được một người
là chính cửu-huyền thất-tổ, ông bà cha mẹ của mình khỏi trầm
trong biển sanh tử luân-hồi. Như vậy thì bổn-phận con người phải
hiếu thảo, mà muốn đạt hiếu thảo đó, thì bây giờ phải làm thế
nào? Làm thế nào để đền ơn sanh thành dưỡng dục của ông bà cha
mẹ cửu-huyền thất-tổ của mình, thì trong kinh Phật dạy rằng:
"Hiếu hạnh vi Phật hạnh", cái hạnh hiếu thảo là cái hạnh của
người con Phật, mà chính Đức Phật trọn đời của Ngài cũng là bậc
chí hiếu mà. Nên có bài thơ nói ràng:
-
Phật xưa hiếu thảo kể
Hằng-sa
-
Đến kiếp hiện nay
cũng đậm đà
-
Đao-lợi vương cung về
viếng mẹ
-
Ca-tỳ-la-vệ đến tìm
cha
-
Khom lưng đảnh lễ đồi
sương trắng
-
Đưa mặt cho hôn một
mẫu già
-
Đến chết chim hoang
còn bật mắt
-
Soi cùng hiếu tử mấy
người qua!
-
Thật ra trọn đời Đức
Phật là bậc chí hiếu. Thế thường người ta nghĩ rằng, con đi tu
bỏ cha mẹ là bất hiếu. Rồi có người lại nói rằng: "Thứ nhất là
tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa". Vậy là phải ở với
cha mẹ. Nếu người nào bỏ cha mẹ đi tu là bất hiếu. Rồi họ lại
nói câu là: "Bất hiếu hữu tam vô hậu vi đại." Là phải sanh con
cháu nối dõi tông đường, nối dòng, nối dõi mới là có hiếu, chớ
còn không sinh con, mấy ông thầy tu, mấy bà ni cô trường chay,
cắt ái ly gia, có con có vợ gì mà báo hiếu! Cho nên họ giảng
giài, họ nói là bất hiếu. Thành ra người ta giải tầm bậy tầm bạ,
người ta không biết cái đạo, và không thấu được cái chân-lý. Mấy
câu đó người ta đặt ra, người ta nói vậy chớ mình phải hiểu cái
lý của nó, nói vậy cũng trúng nữa nhưng mà trúng trong
trường-hợp nào? Họ giảng sai; họ nói cách này, họ giảng cách
khác thành ra trật. Bây giờ, thầy nói sơ cho quý bà con nghe -
có nhiều người biết chớ không phải là không - nhưng khi nào quý
bà con nghe người ta nói, mình nói lại cho người ta biết, chớ
nhiều khi người ta hiểu lầm. Nếu nói bỏ cha mẹ đi tu là bất-hiếu
thì Sĩ-đạt-ta làm sao thành đạt, thành Phật, thành Phật tổ,
thành Phật Như-lai? Rồi nói Phật đã sanh được La-hầu-la rồi Phật
mới đi tu, thì cũng có La-hầu-la nối dòng; cho nên Phật đi tu
bởi vậy không bất-hiếu, chớ ổng còn trẻ đi tu là ổng bất-hiếu,
thì sanh La-hầu-la mới chín tuổi, Phật cũng đưa đi tu, cũng
thành tổ nữa! Như vậy thì không phải rồi! Như vậy, đi tu là bậc
đại-hiếu, là bậc toàn-hiếu, chứ không phải đại-hiếu nữa.
-
Bây giờ, Thầy
phân-tích ra để quý bà con nghe này: Cái hiếu nó có nhiều bậc,
cũng như học nó có nhiều lớp, từ tiểu-học, trung-học, đại-học,
cao học, toàn học. Cái hiếu nó cũng vậy, tiểu-học là sơ sơ, cũng
như bây giờ người ta lo cho gia đình vậy, lo cho cha mẹ anh em
phụng dưỡng thế nào đó suốt cả cuộc đời của mình, dù là lóc thịt
mà nuôi cha mẹ. thí dụ ở đó suốt đời mà nuôi cha mẹ thì đó cũng
là tiểu-hiếu mà thôi. Cái hiếu nhỏ, hiếu của gia đình bé tí tẻo
teo, cỏn con, chật hẹp. Hiếu đó không gọi là hiếu lớn được.
Người nào mà lo cho xã-hội, lo cho việc xây dựng một đất nước
được thịnh-vượng, phú cường, một dân-tộc được giàu mạnh, cả mọi
người được thụ-hưởng an lành, trong đó có gia đình của mình; đó
là bậc trung-hiếụ Tại sao vậy? Người ta thường gọi là trung quân
ái quốc, hiếu thảo cha mẹ mình là lo cho việc đất nước, quốc gia
xã hội mình, mà cả gia đình mình cũng thụ-hưởng an lành, hạnh
phúc an vui, đó là bậc trung-hiếu. Hiếu lớn hơn nữa là lo cho
loài người, như các tổ chức Liên-hiệp-quốc chẳng hạn, chẳng
những lo cho một đất nước quốc gia của mình, mà làm sao đem lại
sự công bằng, sự hạnh-phúc yên vui cho tất cả toàn dân trên thế
giới, mọi người trên trái đất này. Những người nào mà lo cho cả
loài người được rộng rãi như các bậc Bồ-tát vậy, các bậc đó được
gọi là Bồ-tát đó, là lợi tha, không những riêng cho dân-tộc của
mình, không bênh vực cho một dân-tộc của mình, không xây dựng
đào tạo an vui cho chỉ một đất nước mình, mà lo cả cho
nhân-loại, cả loài người, lo chung cho tất cả mọi người trên
thế-gian này, bậc đó gọi là bậc đại-hiếu. Cũng như Mục-kiền-liên
hồi xưa gọi là đại-hiếu Mục-kiền-liên.
-
Nhưng mà Phật, Bồ-tát
là lo hơn nữa, không những lo cho loài người quý vị thấy; như
cường-quốc, các đất nước mạnh giàu mặc dù họ lo cho đầu này, đầu
nọ, đầu kia, chứ thật ra là họ phải nghĩ đến quyền-lợi đất nước,
dân-tộc họ; họ tốt nhưng mà họ cũng có cái lợi, chứ không phải
là hy-sinh trọn vẹn, như là Phật hay là Bồ-tát, mà còn lo cho cả
chúng-sanh (chúng-sanh là gồm cả bốn loại: noãn-sinh, thấp-sanh,
hóa-sinh, và thai-sinh). Noãn-sinh là loài đẻ trứng, thấp-sinh
là loài ẩm ướt, hóa-sinh là loài tiến-hóa, thai-sinh là loài
sinh con, do bào-thai rồi sinh ra con. Cho nên Phật là
toàn-hiếu, cao hơn đại-hiếu, gồm chung tất cả. Vì mình lo cho
loài người, đã đành cũng tốt vậy, nhưng mà biết đâu ông bà cha
mẹ mình vì thương con, thương cháu, lắm khi làm điều tội ác, ăn
cướp, ăn trộm, gian tham, đĩ điếm, trà đàng, tửu điếm v.v... rồi
bị oan nghiệt chết đi, tụt xuống làm thú vật không chừng nữa,
bây giờ mình thương loài người, mình giúp đỡ loài người, nhưng
các loài súc vật kia, nhiều khi làm chúng-sinh trong cõi ta-bà,
sanh đi lộn lại nhiều kiếp đời mà nhiều khi bị đoạ xuống làm thú
vật nữa. Các loài thú vật tiến lên làm loài người cũng có, mà
loài người ác quá, tội lỗi quá, đọa xuống cũng có, bởi vì theo
sự tiến-hóa, chúng-sanh nhân-loại trong hoàn-vũ gồm mười ba đẳng
cấp, thấp nhất là địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sinh, a-tu-la, tiến lên
nhơn, trên người còn nữa là bậc Thiên, thực ra trên là thiện
dưới là ác, có nghĩa là trời là bậc Thiện lành. Người giữ có năm
giới, không sát sanh, trộn cướp, tàđâm, rược chè, nói dối, nhưng
bậc trời phải giữ mười điều lành, đó là: không khoe khoang, đâm
thọc, rủa chửi, không tham lam, sân giận, si mê, không trộm cướp
tà dâm, không sát sanh, không nói dối.
-
Thân không sát sinh
trộm cắp tà dâm
-
Miệng không nói dối,
đâm thọc, khoe khoang, chửi rủa ٠không tham lam, sân-giận, si
mê
-
Bậc trời phải giữ
mười điều, gọi là thập-thiện.
-
Vì vậy cho nên bậc
trời là: Tu đà hườn, Tu đà hàm, A-na-hàm, A-la-hán,
Bích-chi-Phật, Bồ-tát, quả diệt Như-lai tức là Phật-tổ. Loài
người ở hạng thứ năm. Thứ năm mình còn tụt xuống, tụt lên, vì
vậy Thầy có viết bài thơ năm 1960, nhân lễ Phật đản như thế này:
-
"Ơn Phật lớn lao
chẳng nghĩ lường Cũng vì bác ái với tình thương
-
Xả thân tuổi trẻ tầm
chân-lý
-
Cầu đạo chẳng màng
bậc đế-vương
-
Vợ đẹp con yêu đành
gác lại
-
Cha già mẹ yếu đoạn
tình thương
-
Nguyện tu đắc quả
tròn ngôi vị
-
Cứu độ quần sanh khỏi
lạc đường"
-
"Cứu độ quần sanh
khỏi lạc đường" là gì? Là bởi vì sáu đường lục đạo là: địa-ngục
đạo, ngạ-quỷ đạo, súc-sanh đạo, a-tu-la đạo, nhơnđạo, thiên đạo.
Sáu đường này cứ luân chuyển hoài.
-
Kiếp con người sanh
ra rồi lớn, rồi già.
-
Rồi đau rồi chết lìa
qua một đời.
-
Rồi theo nghiệp luân
hồi trở lại.
-
Cũng sanh lên cũng
mãi tấn tuồng
-
Bánh xe cứ mãi quay
cuồng
-
Sanh già bệnh chết
theo nguồn chuyển xoay
-
Sanh lên chết xuống,
kiếp này đời nọ, khi làm ông làm cha, làm chồng, làm con, làm
cháu, làm vua, làm quan giàu sanh phú quý, nghèo hèn, tù tội ăn
mày... Cứ luân chuyển làm sao cho hết tùy cái nghiệp, kiếp này
làm phước, đời sau hưởng phước, kiếp này làm tội đời sau phải
đọa xuống nữa. Thành ra cứ quanh quẩn trong sáu đường này, mà
thoát ra không được, gọi là lục đạo. Mà lục đạo ảnh hưởng của
tam đồ. Tam đồ là: Đao đồ, thủy đồ, hỏa đồ. Đao đồ là chết vì
gươm dao, đao búa, thịt này đụng vô là chết. Thủy đồ là chết vì
nước ngập lụt, trôi, chìm nổi, mình ngó vậy mà đem nhận nước
chết queo. Hỏa đồ là lửa đốt, chiên, kho, xào, nấu, luộc, mình
mà đút vô lủa cũng cháy tiêu nữa. Thành ra trong lục đạo phải
chịu ảnh hưởng của tam đồ, nó có sự liên-quan như vậy.
Chúng-sinh ở trong lục đạo tam đồ khổ hoài. Đức Phật, Ngài chỉ
con đường siêu-thoát hơn là Phật đạo, nghĩa là ra khỏi lục đạo,
cho nên: Cứu độ quần sanh khỏi lạc đường. Ngài hy sinh cuộc đời
của Ngài. Ngài tu thành đạo đắc quả rồi, Ngài đem ánh sáng từ bi
rọi khắp chúng sanh, nhân loại để cứu vãn chúng sanh thức tỉnh
thoát khỏi vòng lục đạo tam dồ này, cho nên ơn Phật rất là lớn
lao vô cùng vô tận.
-
Bây giờ chúng ta muốn
thoát khỏi lục đạo, tam đồ thì phải làm sao tu lên thiên đạo.
Cho nên là người, chưa đủ đâu. mà nhiều khi chúng ta là người mà
chưa đúng là người nữa. Đâu phải sanh ra con người là người rồi!
Quý vị có thấy lắm kẻ mang thân con người mà lòng lang dạ thú,
hung dữ, ngang tàng như beo như cọp, chửi cha mắng mẹ, giết chóc
người này, người nọ, người kia, làm những điều tàn nhẫn, ác độc,
tôi nói xin lỗi chớ mang thân con người chớ làm đâu phải là
người; chứ xác thân nào cũng "đất nước lửa gió" cấu tạo thôi.
Dầu thân con người chứ thân con vật, sự thật mà con người khòm
xuống mà bò bốn chân, đừng có ăn mặc, còn thua con thú nữa, Con
thú còn có lông lá che đậy kín đáo, chứ con người tồi tệ hơn
nữa. Nhưng con người khác hơn con thú là đầu trên chân dưới, chứ
không phải bò như thú vật đi ngang hàng với nhau, Vì vậy cho nên
người là nhơn. "Tả phúc vi chơn, hữu vệ vi chánh, thường hành
chánh chơn; cốt viết vi nhơn"; người là toàn chơn với thánh với
thiện, với mỹ mới gọi là người. Chứ không phải mang thân con
người, xác thân loài người, là người đâu; mà người là phải thiện
lành, phải giữ lòng nhơn đức, nhân ái nhân từ, nhân đạo, nhân
nghĩa. Chữ "nhân" là vậy đó mà.
-
Cõi thiên là thiện
lành. Cao hơn người, phải giữ thập thiện lận, lo điều lành,
người giữ mới có năm giới là lòng nhân không sát sanh thôi. Vì
vậy cho nên trên nhân là phải thiên. Bây giờ chúng ta phải giữ
điều lành thêm nữa. Không phải mình thương cha thương mẹ, thương
anh, thương em, là đủ đâu. Đã đành, người biết thương cha mẹ anh
em vợ con là tốt lắm. Có nhiều người, cha mẹ mà không thương,
chính có nhiều bà bị con đuổi đến chùa khóc đây nè. Con lãnh
qua, bây giờ nó không thèm nuôi, nó đuổi! Quý vị nghĩ coi - mặc
dù nói nó đụng chạm nặng nề thiệt - nhưng nó còn thua loài súc
vật vậy! Nhiều con thú, mà quý vị biết không, nó có hiếu lắm đó,
chẳng hạn như con quạ, quý vị thấy không con quạ con tại sao nó
gắp mồi nuôi con quạ lớn; nuôi quạ nhỏ thôi chớ sao con nuôi quạ
lớn, kỳ vậy? Mặc dù tuy con quạ nó đen thui đen thủi, mà nó còn
có hiếu, khi con quạ đẻ ra nuôi lớn, gắp mồi nuôi quạ con lớn
rồi, chừng đó quạ con kiếm mồi nuôi quạ mẹ, đền ơn lại sáu
tháng. Từ đó mạnh con nào kiếm tìm ăn sống. Tại sao loài người
chúng ta không thương mến mẹ; người ta muốn cầu có cha mẹ hết
sức mà cầu không ra, bây giờ cha mẹ còn sống lại hất hủi, đuổi
xô?
-
Còn có người cha mẹ
muốn tu cũng không cho, đi chùa còn cản đản nữa. Rồi có người
được thầy nói pháp, bả nghe, bả nói: "Trời ơi, thầy nói vậy chết
con rồi! Từ khi má con qua đây mấy tháng đỡ hết sức, thầy ơi,
con mướn hai ba người cũng không bằng nữa! Ở giữ con, nấu cơm,
giặt đồ, lau nhà, lo đủ thứ hết!" Thành ra bả mừng quá bả nói
"thiệt mướn hai, ba người không bằng nữa!" Nghe thiệt tội
nghiệp! Tưởng đâu rước mẹ qua đây để nuôi nấng, đền ơn, báo hiếu
nghĩa sinh thành; ngờ đâu rước mẹ qua đây để giữ nhà, chăm sóc
mấy đứa nhỏ, để khỏi mướn người trông trẻ. Vậy hỏi bà ấy mừng là
mừng làm sao? Thầy mới nói với bà ấy như vầy: "Bổn phận cha mẹ
sinh con ra là phải nuôi, bởi vì mình tạo ra, mình không nuôi là
mình có tội với nó; ai biểu mình tạo ra nó làm chi? Tạo ra là
phải nuôi, phải dạy dỗ cho nên người, làm sao nó được ích nước
lợi dân, làm sao cho con người của nó được lợi cho xã-hội, có
lợi cho nhân loài, dầu không lợi cho ai thì nó đừng làm hại cho
ai!" Không lợi cho ai cũng được, nhưng đừng làm hại cho ai cũng
tốt; chứ để nó làm hại cho ai thì cha mẹ cũng đắc tội, là bởi
vì: "Giáo bất nghiêm sư chi đọa. Tử bất giáo phụ chi hóa". Con
không dạy, lỗi tại cha mẹ. Trò không dạy là lỗi tại ông thầy.
Bổn-phận thầy là phải dạy trò. Bổn-phận cha mẹ phải dạy con cháụ
Nhưng mà dạy nó không nghe, chừng đó mới là bổn-phận nó, gọi là:
"Giáo bất thính tội ư nhơn". Dạy không nghe đó là mình hết bổn
phận rồi; chớ mình sanh ra là phải dạy nó, chớ không phải sanh
ra là nuôi nó mà thôị Nhưng mà bây giờ sanh ra nuôi nó, bây giờ
phải nuôi con nó nữa. Phải là một chuyện đáng tội không?
-
Cho nên thầy nói ra
thì nó đụng chạm, phiền hà người ta thật. Thầy khuyên tất cả quý
bà con có gặp ai như vậy nói dùm thầy, một mình thầy nói không
ra đặng mênh mông bao la đâu. "Đừng bao giờ bắt cha mẹ nuôi con
mình, đừng bao giờ làm những chuyện đó!" Cha mẹ nuôi mình ơn như
trời như biển mà mình không nuôi lại được, bây giờ lại bắt nuôi
con mình nữa, bậy quá chừng quá đổi rồi! Thầy nói, quý bà con
nghĩ thầy nói có đúng không? Mình chưa mang cái thai nghén, mang
chín tháng đi ột ệt muốn chết vậy đó. Thầy hôm trước cổ thầy nó
đau, có ông bác sĩ đưa thầy cái niệt mang về chút xíu vậy thôi,
cái băng thôi mà thầy còn thấy khó chịu vô cùng vô tận, mà quý
vị Phật-tử mang thai như vầy chín tháng đi ột ệt, đi không dám
đi, chạy không dám chạy nữa, nhảy không dám nhảy, leo trèo không
dám leo trèo, hỏi như vậy có là khổ hay không? Tới chừng sanh ra
nó nghen, thấy đau đớn lắm, không thể tưởng tượng. Sanh ra đó
người ta nói "bấm cây cột mềm như chuối!" Cột mềm sao được mà
mềm? Nhưng vì đau quá, đau không thể tưởng tượng, cho nên lúc đó
bấm cây cột người ta có cảm tưởng mềm như cây chuối! Nhưng mà nó
đau quá sức đau. Lúc mà sanh tưởng như rồi sao? Có nhiều khi đứa
con ngỗ nghịch không chịu chun ra, còn nằm ngang, nằm dọc phải
mổ bụng nữa chớ; quý bà con thấy có nguy hiểm không?
-
Rồi bây giờ mình lớn
tuổi, sanh con ra nuôi lớn lên, có nhiều đứa bệnh hoạn hoài, nó
lớn đến đâu tiền tới đó, rồi đêm đến nó đau phải vác trên vai ù
ơ ú ợ... đi cả đêm, khổ vậy! Nhiều khi nó sổ mũi, hỉ không được,
có người kê cái miệng nút cái chụt phun ra ngoàị Bây giờ mình
lớn rồi, có ai dám nút mũi của ba má mình không? Ớn quá há! Ớn
quá số kể! Nói thiệt cho nghe chớ thầy cũng chưa làm được nữa!
Thầy biết nói nhưng sự thực thầy làm chưa được. Bà cụ, thân mẫu
thầy đó, mặc áo vàng chắp tay đứng đó, bà ăn chay bà tu, cho nên
thầy có phước nhờ bả tu cho nên thầy mới tu; con nhờ đức cha mẹ.
Nhưng mà sự thật thầy nghĩ ràng bả còn sống thực sự mà bả nghẹt
mũi thầy cũng cam chịu, nhờ tín đồ kêu bác sĩ, chớ thầy không
dám nút mũi nữa. Thầy nói chính thầy hiếu dữ lắm nghe, mà thầy
thấy thầy làm chắc cũng chưa được. Quý bà con chắc cũng chưa ai
làm được việc đó. Nhưng mà cha mẹ, bất cứ cha mẹ nào, cũng làm
điều đó được hết! Thí dụ thầy không tu, thầy ở ngoài đời, thầy
có vợ con, chác con thầy thầy cũng làm được nữa, thầy mút ra
cũng được nữa, không gớm; tại sao kỳ vậy, không biết nữa! Cho
nên người ta nói "nước chảy xuôi" là vậy đó, nó không chảy
ngược. Con mình làm sao mình thương quá, ai cũng vậy, quý vị
thấy không?
-
Đến đổi hồi xưa ông
Húc Trang Quân lúc ổng còn làm thừa tướng, một hôm ổng đi săn,
ổng cầm cây tên bắn mục đích bắn con khỉ mẹ chết để bắt khỉ con,
khi ổng giương tên bắn con khỉ mẹ, bị tên độc, khỉ mẹ hét lên
rồi, thì con khỉ đực là cha nó chạy lại, nó rứt con nó, nó giao
cho chồng nó, rồi nó giẫy xuống chết. Quý vị có thấy không, con
thú mà nó thương con nó như vậy, nó có lòng thương con nó như
vậy, thì tại sao con người lại bỏ con giữa chợ, hay là hành hạ
con, giết chóc con. Nói xin lỗi, thua con khỉ rồi! Rồi con khỉ
con nó cũng đáp lại tình mẹ nó cũng xứng đáng, khi đó ông Quân
mới muốn bắt khỉ con, ổng làm sao? Ồng lấy cây roi. Con khỉ đực
tha con nó một đổi xa, nó ngó chừng coi vợ nó làm sao - con thú
mà nó khôn vậy - thì khi nó nhìn thấy vợ nó ngã xuống chết rồi,
ông Quân bèn cầm cây roi đánh vô khỉ mẹ thật đau, trót trót vậy.
Con khỉ đực thấy thương quá, bồng con chạy lại gần coi, con khỉ
con thấy mẹ bị đánh như vậy, nó tội nghiệp, nó thương mẹ quá đi,
nó buông cha nó ra nó nhào lại ôm xác mẹ nó; ông chụp vô kịp thì
nó giẫy nó chết. Ông thấy chuyện quái lạ vậy, sẵn gươm cầm tay,
ông bèn mổ bụng khỉ con coi thế nào và tại sao nó chết như vậy,
thì than ôi ruột con khỉ con đứt ra từng đoạn mà chết.
-
Thương mẹ mà đứt ruột
như vậy, thật là đáng một đứa con hiếu thảo! Con khỉ mẹ thương
con, rứt con ra giao cho chồng rồi giẫy chết, thật là bà mẹ đáng
là mẹ hiền! Con khỉ con ôm mẹ đứt ruột mà chết, thật là đáng một
đứa con hiếu thảo! Tuy nó là khỉ nhưng nó đáng cho mình kính
trọng nó, noi gương nó; hình tướng nó là khỉ, tâm-hồn nó rất
cao-thượng, là tâm-hồn người hiếu thảo, chớ không phải tầm
thường. Con quạ đen thui, thú vật, mà sao thương cha mẹ, hiếu
thảo vô cùng! Con khỉ là thú vật mà tại sao thương mẹ, thương
con như vậy? Loài người chúng ta lại thua nó ư? Loài người chúng
ta là thông minh, là sáng suốt, là trời Phật. Trời Phật có khác
gì chúng ta đâu? Chúng ta còn là phàm nhân tục tử, là
chúng-sanh, nhưng khi chúng ta lìa xa cái phàm nhân tục tử,
giác-ngộ là Phật chứ gì? Bởi vì Phật với ma, với chúng-sinh có
khác gì, chỉ là chỗ mê giác thôi. Cho nên có thơ như thế này:
-
"Ma ma, Phật Phật
chính do ta
-
Ma Phật khác nhau chỗ
chánh tà
-
Giác Phật, mê là ma
đó vậy
-
Chân như là Phật,
vọng là ma!"
-
Vậy, Phật ma là do
chính mình chứ có ai đâu? Mình cũng Phật, mình cũng là ma. Hễ:
-
"Tâm thanh tịnh đó là
tâm Phật,
-
Tâm buông lung vọng
niệm là ma!
-
Chơn tâm là Phật đó
mà,
-
Vọng tâm là quỷ hiện
ra tại lòng!"
-
Thì bây giờ mình giữ
tâm mình trong sạch, thanh-tịnh là Phật, tiên, thánh, hiền chớ
gì đâụ Còn tâm mình đảo điên phiền não, tội lỗi thì ma chứ gì
đâu! Vậy thì ma quỷ, Phật, tiên, thánh hiền cũng chính mình chớ
có ai đâu. Hổng phải thành Phật là có ai ra giúp hoặc gì nữa đâụ
Ông Phật, mình thấy tướng mạo quang-minh hiền từ đạo đức ôn hòa
nhã nhặn, bác ái từ bi, thương người mến vật, cho nên từ cái tâm
tốt nó hiện ra tướng tốt. Gọi là:
-
Hữu ư tâm xuất trình
đối diện
-
Hữu tâm vô tướng,
tướng tự tâm sanh
-
Hữu tướng vô tâm
tướng tùng tâm diệt
-
Bởi vì tâm Phật tốt
cho nên tướng hiện ra lúc nào cũng tốt. Còn ma, mình nghe nói ma
là mình đã sợ rồi là bởi vì tâm xấu cho nên hiện ra tướng xấu.
Quý bà con lâu nay nói đẹp như tiên không? Người nào tướng tốt
lịch sự quá, nói là "Trời ơi, bà đẹp như là tiên hà! Cô đẹp như
tiên, chú đẹp như tiên hà!" Tại sao lại tiên đẹp? Có ai nói xấu
như tiên không? Tiên đâu có xấu được, mà sao tiên đẹp? Tu thành
tiên cũng khó lắm nghen. Cũng giữ giới đức đạo hạnh nhiều. Hồi
trước thầy cũng có tu tiên, thầy có luyện giữ lắm mà ở trên núi,
thầy luyện nhiều, và tu tiên cũng khó lắm. Tu tiên phải: Thất bá
nhật thất linh cơ. Rồi phải đi bá nhật, thất nhật. Rồi đi tam
nương. Đi cửu niên vĩnh đức, khổ lắm, tu tiên khó lắm. Thầy có
viết bài thơ hồi thầy tu trên núi:
-
"Sự thế mặc người, ta
cứ tu
-
Lục căn đóng lại bản
êm ru thầm tịnh tọa công phu mãi
-
Lủi thủi trong am tựa
ở tù!"
-
Lúc đó tịnh thất như
ở tù vậy, nhưng mà khác nhau:
-
"Tù thế, tù tu cũng
gọi tù
-
Tù tu tu tịnh mãi
công phu
-
Tù vô tư lự nên
thường trú
-
Tù chẳng tham cầu:
đấng trượng phu!"
-
Tù đó là tù thiệt, tự
mình nhốt mình. Cũng như ở tù chớ gì. Nhưng tù đó nó thong dong
lắm.
-
"Phu chồng, phụ vợ
mối oan khiên
-
Tù ở thế-gian tội
nhãn-tiền
-
Tù nghiệp dấy ra, ta
khó gỡ
-
Tù này muôn thuở
chẳng ngồi yên!"
-
Đó là vợ chồng keo
kết nhau như là ở tù vậy!
-
"Yên tâm, tịnh thánh
bởi tu thiền
-
Tam bửu điều hòa giữa
hạo nhiên
-
Khí phách thần hồn
dồn một mối
-
Trọn ngày chí tối giữ
căn nguyên
-
Nguyên lai bổn thể
tại có thiền
-
Tam bửu điền hòa hoán
nghiệp duyên
-
Bất chấp bất tri vô
lý sự
-
Phi lai phi cứu
chưởng thành tiên
-
Tiên Phật giai do tự
tánh mình
-
Thánh phàm danh vọng
bởi tham sinh
-
Tâm ma dạ dạ ma ma
thịnh
-
Tâm Phật như như huệ
huệ minh
-
Minh quang lại tốn
vĩnh trường tồn
-
Khai chiếu kê hoàn
cửa đại môn
-
Thong thả ra vào nào
có huệ
-
Về chầu thượng giái,
bái thiên tôn
-
Tôn Phật thánh tiên
đến trọn lành
-
Đạo vàng khai hóa độ
nhơn sanh
-
Thoát vòng lục đạo,
tam đồ khổ
-
Chưởng phước tăng
duyên đạo chóng thành
-
Thành pháp tác tiên
bởi chỗ tu
-
Muốn tu ra khỏi
thế-gian tù
-
Cần nên đóng cửa
trong ngoài kín
-
Sự thế mặc người ta
cứ tu!"
-
Thầy đã viết chín bài
"cửu liên hoàn" như trên đó. Thầy nói để Phật-tử nghe, bây giờ
nói xin lỗi, người ta nói tu là xuất hồn này hồn nọ, cái đó thầy
biết rành lắm. thầy hồi đó thầy có quyền xuất sư mà. Thầy dạy
một lần tu ba mươi mấy bốn chục vị nhập thất lận mà. Nhưng mà tu
chừng nào tu phải luyện có tấm thai, thiệt khó chớ không phải
không, rồi công phu trời ơi mà xuất hồn ta đó năm mười năm, hai
ba chục năm chớ không phải tu năm, ba ngày, năm, mười ngày mà
"xuất" đâu. Cái đó là ước vọng của người tu, chớ "xuất" gì nổi!
Bây giờ vô tu năm ba tháng chỉ cách xuất hồn thì coi chừng ma
nhập vô đó. Đi đó là đạo chết, nguy hiểm vô cùng.
-
Muốn tu Phật cũng tốt
vậy. Tu Phật gọi là "giới, định, huệ". Tu tiên là làm sao giữ
gìn tam-bảo "tinh, khí, thần", đúng theo tiên là tiên, đúng theo
Phật là Phật. Mà tiên Phật nói vậy, tuy hai phương pháp nhưng nó
giống tợ như nhau. Về cái chỗ tu rốt ráo nó cũng giống nhau, chớ
không có gì khác. Nhưng mà tiên thì theo Lảo-tử, Phật thì theo
Đức Thích-ca. Rồi Nho thì theo Khổng-tử. Cho nên người ta thường
nói rằng lấy ba điểm "Tam giáo đồng qui, ngũ chi hiệp nhất". Đạo
tam kỳ phổ độ người ta nói vậy đó. nhưng muốn tu tiên thì cực
lắm, công phu khổ lắm, gian lao lắm, ngồi suốt đêm, chớ không
phải tu tiên thành tiên là dễ đâu, mà thành tiên là tâm tốt rồi
đó, tâm toàn chơn, toàn thiện rồi đó, thì hiện ra hình tướng
tốt. Bây giờ, con người mặc dù tuy tốt bên ngoài, lòe loẹt hình
thức nhưng con người trong tâm hung ác, ngang tàng, táo bạo,
gian giảo, xảo trá, lường gạt đủ thứ gian manh, quý vị thấy có
tốt được không? Cho nên "hữu tâm vô tướng" thì "tướng tự tâm
sanh", còn "hữu tướng vô tâm", có tướng tốt thiệt mà tâm xấu là
"tướng tùng tâm diệt", tùy theo đó mà trở thành xấu.
-
Vậy thì, tóm lại
chúng ta ở trên cõi đời này, ai cũng có cha có mẹ, có thân bằng
quyến thuộc, bổn phận người con lúc nào cũng nghĩ tưởng công ơn
cha mẹ mà báo hiếu, đáp nghĩa đền bồi. Cha mẹ còn sống phải
phụng sự cha mẹ hết lòng, cha mẹ muốn tu hiền, muốn làm gì đó,
đã nuôi mình lớn rồi thì mình phải trả quyền tự do cho cha mẹ,
đừng bắt cha mẹ nuôi con, nuôi cháu, nuôi chắt, nuôi chít mình
nữa. Có bà tám mươi mấy tuổi, thầy khuyên bả nên đến chùa về
chùa tu đi, bả nói là "con còn bị thầy ơi, con còn mắc thầy ơi,
con còn phải thầy ơi... Tại, bị, còn cháu chắt của con con phải
giữ!" Thầy nói: "Còn mớ cháu chắt à, vậy bà còn cái cháu nữa!"
"Cháu gì ?" Thầy nói: "Cháu vên-vên!" Ở Việt-nam, mình chết
thường đóng cái hòm bằng vên-vên đó; cây vên-vên đóng hòm để
nước lâu mục đó mà, là "cháu vên-vên" đó, chớ cháu gì! Đã lo tới
cháu ngoại, cháu nội là quá sức rồi còn gì, còn phải lo tới cháu
chắt nữa! Quý bà con thử nghĩ coi, họ lợi dụng tới mức tối đa
đó!
-
Cho nên nói thiệt
nghe, ai mà có con cháu ráng mà giữ đi, không thì mướn người ta
giữ, đừng có bắt cha mẹ giữ, tội lắm nghe! Mình chưa đền ơn cha
mẹ, lại bắt cha mẹ mình nuôi con mình, đó là bậy vô cùng! Rồi
bây giờ, cha mẹ còn sống mình phải nuôi cha mẹ, giúp đỡ cha mẹ,
đền ơn, báo hiếu, đáp nghĩa cha mẹ sinh thành, nhưng cha mẹ đã
trở nên người thiên-cổ rồi thì làm sao? Mình phải ráng làm sao
để đền ơn cha mẹ, báo hiếu, thì bây giờ mình phải ăn chay niệm
Phật, giữ giới tu hiền, in kinh ấn tống, làm các phước duyên,
kết bòn công đức, để mình hồi hướng cầu cho cha mẹ mình siêu
thoát, bởi vì trong kinh có nói rằng:
-
"Nhứt nhơn hành đạo,
thiên nhơn lợi,
-
Độc mộc hoa khai vạn
thọ hương".
-
Nghĩa là một người
tu-hành, muôn người đều được lợi; đám rừng mênh mông, một cây
trổ hoa thơm thì đám rừng đều ảnh hưởng. Hay là: " Nhứt nhơn
hành đạo cửu huyền thăng" thì bây giờ mình biết tu hành thành
đạo thì ông bà cửu huyền thất tổ được ảnh hưởng. Bây giờ cha mẹ
đã chết rồi, bổn phận làm con phải ráng tu nhơn tích đức, ăn
hiền ở lành, làm phước làm gia hồi hướng phước báu mà cầu cho
ông bà cha mẹ mình. Nhưng điều quan trọng là mình phải tu, và
dạy con cháu mình tu, là ông bà mình siêu thoát. Tại sao vậy?
Bởi vì cha mẹ ông bà chết luân-hồi thành con cháu; chắc chắn là
ông nội ông ngoại bà cố chết rồi chun vô bụng nàng dâu, cháu dâu
chớ không đâu hết trơn hết trọi! Bởi vì sao? Là bởi vì nguyên do
thương con, mến cháu, tiếc của, tham tài, chết đâu có đi xa! Bởi
thế cho nên có câu rằng: "Tình thương luyến ái là sợi dây oan
trái buộc ràng, muôn ngàn đời kiếp chẳng tháo gỡ ra. Khi làm
cha, lúc làm cháu, hết làm bà, trở lại làm con,"
-
Cho nên nhiều khi có
những người con cháu cứng đầu cứng cổ... "Thôi, mẹ ơi, con lạy
mẹ! Mày là mẹ tao! Mày là bà nội tao, bà cố nội tao! Mày là cha
tao đó, mày là ông nội tao đó nghe!" Mà thiệt, ổng bả trở lại
đó! Bây giờ quý bà con thử nghĩ, có nhiều người khuyên đi lại
thọ bát quan trai có một ngày một đêm mà đi không được, bỏ nhà
đi hai, ba ngày không được, hỏi chết đi đâu? Về Niết-bàn
Tây-phương à? Nói xin lỗi, chưa chắc mấy ông thầy đã đi về
Tây-phương được! Mấy ổng mấy bả tu trối chết không biết có về
được không; nói chi mới tụng một, hai thời kinh đòi về! Vì vậy
cho nên bây giờ muốn cho ông bà cha mẹ mình được siêu thoát, thì
mình cần phải dạy dỗ con cháu mình tốt, và chính mình phải tu,
bởi vì mình tu thì mình mới độ người ta tu được, chứ "chân mình
đã lấm mê mê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người", thì rê làm sao
đây? Mình phải tu rồi mới độ người.
-
Cho nên Đạo
Phật nói đâu đó đúng đắn, tự độ rồi mới độ tha, chớ không phải
tha độ mới độ tha! Tự-giác rồi mới giác tha. Tự lợi rồi mới lợi
tha. Thì giác hạnh mới viên mãn. Chớ bây giờ mình không tự lợi,
tự độ, tự-giác, thì mình muốn giác người ta là giác làm sao? Như
vác củi vô rừng chạy rồi bỏ vô lò đốt hay làm sao? Thành ra mình
phải tu rồi mới khuyên người được. Cũng như nói xin lỗi, có
nhiều ông nói hay hơn thầy nữa, người ta học kinh thánh hiền còn
thông suốt lắm, nhưng mà tại sao khuyên nói người ta không nghe?
Còn thầy có duyên, thầy nói người ta nghe, là bởi vì người ta
thấy ổng tu, ổng hy-sinh cuộc đời từ nhỏ tới lớn, không vợ,
không con, không tiền, không bạc, không danh, không lợi, không
cá-nhân ổng, dù có chăng là có phương-tiện giúp ích cho đời chớ
không cá-nhân riêng. Thành ra có người chưa ăn chay ngày nào,
lại gặp thầy, thầy nói chuyện một hồi rồi mến thương, cảm tình
thầy, rồi khuyên ăn chay, cái ăn chay trường! Nhiều người cứng
đầu, cứng cổ quá, nhiều khi chồng hay vợ của họ, hay con cái họ
nói "Chắc ông Giác-nhiên có bùa ngải làm sao, ổng nói người ta
nghe!" Bùa ngải làm cái gì? Tà sư ngoại đạo, tôi tuyệt đối không
có dùng cái đó, nếu tu mà dùng bùa ngải, thư, tôm, trù ếm, xăm,
quẻ, tướng số, bói khoa, đó là không phải chánh-pháp rồi. Nhưng
mà nếu người ta nghe là tại cái duyên.
-
Thầy chưa có dịp gặp,
nhưng mà sư cô nói mà người ta nghe người ta ăn chay thì cổ cũng
có phước lắm. Có đức mới nói người ta nghe đó. Quý vị biết là
hồi trước đại đức Narada qua bên Việt-nam, ổng cũng có duyên đó!
Nhiều ông thượng-tọa, đại đức ở Việt-nam có giới-hạnh cao mà
nhiều người không chịu quy-y. Rồi ổng tu theo bên Nam-tông,
nhưng mà ổng ăn chay, rồi lại là nhiều người quy-y ổng, cũng ăn
chay nữa, cũng giữ giới. Thành ra nói tóm lại, những vị khuyên
lơn người ta tu đó, mà dìu dắt hướng dẫn người ta được, hay là
đừng nói chi các chúng tăng, tôn túc nhiều người Phật-tử, nhưng
mà quý vị biết có nhiều người nói người ta nghe, nhiều người nói
mà người ta không nghe, mà người nói người ta nghe người đó phải
có ít nhất giới đức, đạo hạnh, đàng hoàng, ăn nói đứng đắn thì
nói người ta mới nghe, người ta mới nể tình, chứ người đó như
người khác thì nói ai nghe?
-
Tóm lại, làm người
sống trên mặt đất này, mỗi người ai cũng có bổn-phận và trách
nhiệm; trách nhiệm của mình, bổn-phận của mình, mình làm tròn,
đó là người hiếu thảo, đó xứngđáng là một người công dân của đất
nước. Bổn-phận là con đối với cha mẹ mình, còn sinh tiền mình
phải nuôi nấng giúp đở, nếu chết đi, mình phải nhớ lời cha mẹ
dạy bảo khuyên lơn, những gì để thực hành để khỏi phụ lòng cha
mẹ, nhứt là dạy dỗ con cháu mình nên danh nên phận thì được danh
thơm tiếng tốt giòng họ tổ tiên. Chớ nếu con cháu mình hoang
đàng làm điều bất phải, thì cũng mang tiếng là con của mình,
cháu của mình, vì vậy mình phải ráng dạy khuyên con cháu mình
nên người.
-
Đó là tinh thần xây
dựng mà cũng là thực tế cầu siêu cho ông bà cha mẹ mình nữa, chớ
tụng kinh nói là để cầu siêu; siêu là gì? Siêu là vượt qua!
Không phải chết rồi mới siêu, mà lúc sống cũng phải cầu siêu
nữa. Con mình nó cờ bạc hút xách, trụy lạc, phong-lưu, trà đàng
tửu điếm; phải lạy nó! Nói vậy là quá nặng hả? Nhưng không lạy
nó thì năn nỉ nó, không năn nỉ nó thì khuyên lơn nó, để nó đừng
tật xấu thói hư, đó là cầu siêu cho nó phải không? Còn cha mẹ
mình còn sanh tiền cũng vậy, cha mẹ già rồi mà không biết tu
hiền, có nhiều bà già lại chùa tụng kinh niệm Phật không chịu,
ngồi đánh bài cụp xương sống thì lại chịu, thí dụ vậy, thì mình
phải lạy mẹ đừng có đánh bài nữa, ba mình uống rượu say sưa
hoài, mình lạy ba để ba đừng uống rượu nữa. Con cũng cầu siêu
cho cha mẹ nữa chớ không phải không, cầu siêu nếp sống hiện tại
đương thời, chớ sống mà hung hăng như cọp như beo, chết cầu
siêu, cầu siêu sao nổi! Làm sao siêu nổi chớ? Bởi thế cho nên có
câu rằng:
-
"Sanh tiền bất tri
thiên đường lộ
-
Tử hậu nan ly địa
ngục môn"
-
Sống mà không biết tu
hành đạo đức, thì chết rồi cửa địa-ngục khó xa lìa. Cho nên chết
mà cầu siêu là để cho an lòng mình, mà sự thật là độ người sống
đó! Cũng như hồi đó ở Việt-Nam, nói thiệt quý vị nghe, thầy
nhiều khi đi cầu siêu cho cha mẹ mấy ông tướng, trung-tướng,
thiếu-tướng chẳng hạn, mấy ông tỉnh trưởng, bộ-trưởng chẳng hạn;
mấy ông đó nói thiệt lo làm ăn, chạy theo việc làm, đâu có ăn
chay gì, đâu có quy y, đâu có giữ giới nên đâu có ăn chay gì,
nhưng khi thầy đến tụng cho một hồi kinh rồi, cầu siêu cho cha
mẹ mấy ổng, hay nội ngoại gì đó, xong rồi, thầy mới nói chuyện
cho nghe một hồi, thầy khuyên: "Bây giờ muốn cho ông bà cha mẹ
được siêu, quý vị nên phát tâm ráng quy-y, xin pháp danh đi,
niệm Phật đi, bố thí làm phước đi!" Tất nhiên lúc đó nói mấy ổng
nghe liền hà, là bởi vì cái chữ Hiếu mà; thì không biết cha mẹ
có siêu hay không, nhưng mà thực tế những người sống hiện tại
giác-ngộ, thức-tỉnh, biết ăn chay, niệm Phật, quy-y tu-hành, làm
lành, làm phước này, quý vị có thấy không? Không phải tụng kinh
không mà được siêu độ, mà cần phải thuyết pháp, giảng đạo, để
người sống hiện tại ý-thức giác-ngộ, mà nương về đạo đức tu
hành. Đó chính là tứ sự lý tánh.
-
Tứ sự vô vi, lý tánh
đồng đẳng
-
Thì giờ ít ỏi, thầy
chỉ tóm tắt đôi lời, thầy cũng thành tâm cầu nguyện cho mười
phương chư Phật và đại Bồ-tát chứng minh tấm lòng hiếu-kính của
tòan thể chư vị hôm nay thiết lễ kỳ siêu cho cửu-huyền thất tổ
ông bà cha mẹ của mình, cầu nguyện hồi hướng phước báo này,
ngưỡng mong tam-bảo ban phước lành cho tất cả chư hương-linh ấy
được chân minh chánh pháp, siêu thoát nhẹ nhàng vãng-sinh
tịnhđộ, thân bằng quyến thuộc quý vị, người sống hiện tại đương
đời tăng long phước thọ, vạn sự an khang phúc lạc đủ đầy, sở cầu
như nguyện. Ngưỡng mong ơn trên Tam-bảo chứng minh thầy cũng tất
cả quý vị để hồi hướng phước báo cầu chung:
-
Nguyện đem công đức
nầy
-
Hồi hướng khắp tất
cả
-
Đệ-tử và chúng sanh
-
Đều trọn thành Phật
quả
-
Nam mô A-di-đà-Phật!
Nam mô Bổn-sư Thích-ca-mâu-ni Phật!
-
HT
Thích Giác Nhiên
-
Tịnh
xá Minh Đăng Quang
-
Westminster, California
-
-oOo-
-
Nguyễn Minh Huấn chép
lại từ băng ghi âm, Châu Ngọc đánh máy lại, Minh Quang
(BuddhistI@aol.com) gửi vào diễn đàn vn-buddhism@saigon.com
(25-12-1999)
- --o0o--
|
|