|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Niệm
Phật Pháp Môn Thù Thắng
- Chánh
Hạnh
-
--o0o--
-
*
Khi tu ai cũng muốn đạt được kết quả, đó là thường tình chẳng có
chi lạ, lại nữa nhiều người muốn đọc kinh sách để hiểu sâu, biết
rộng củng cố niềm tin hầu tu học được tinh tấn, nhưng có nhiều
người chỉ nhứt tâm niệm Phật, cho nên tìm hiểu về pháp môn nầy,
tưởng cũng là điều cần thiết.
-
Rốt ráo mà nói, yếu
chỉ của người tu theo pháp môn niệm Phật, là nhứt tâm niệm sáu
tiếng "Nam Mô A Di Đà Phật", bất luận là khi đi, đứng, nằm,
ngồi, để cầu vãng sanh về nước cực lạc.
-
Có lẽ chúng ta cũng
nên tìm hiểu về pháp môn nầy trong các vấn đề :
-
- Do đâu mà có pháp
môn niệm Phật.
-
- Cảnh giới cực lạc.
-
- Hành pháp môn niệm
Phật như thế nào theo lời Phật dạy.
-
A . - Do đâu mà có
pháp môn Niệm Phật:
-
Những kinh điển có
liên quan đến đức Phật A Di Đà và cảnh giới ngài hộ trì được gọi
là Cực Lạc, đó là kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ và A Di
Đà cho nên muốn tìm hiểu về Tịnh độ tông hay pháp môn Niệm Phật,
cần hiểu qua ba bộ của Tịnh độ tông.
-
1. Vô Lượng Thọ Kinh
là bộ kinh chánh yếu, trong kinh nầy giải tích đức Phật A Di Đà
từ thuở trước kia khi tự biết mình có quả Phật, cho đến nay ngài
đang ngự nơi phía Tây là Cực Lạc cảnh giới, Ngài hiện lo tiếp độ
mọi chúng sanh chí thành cầu nguyện vãng sanh về cảnh giới cực
lạc.
-
Theo kinh nầy, về
thời đức Phật Thế Tự Tại Vương ra đời, có một vị quốc vương Kiều
Thi Ca. Vua Kiều Thi Ca nghe đức Phật thuyết pháp liền bỏ ngôi
vua, xuất gia làm vị tỳ kheo hiệu Pháp Tạng. Một hôm Ngài đảnh
lễ Phật, quỳ xuống, chấp tay cầu nguyện Phật chứng minh và phát
nguyện 48 lời nguyện. Do nguyện lực ấy, sau nầy thành đức Phật A
Di Đà.
-
Bộ Kinh nầy cũng gọi
là: Đại Bổn, Đại A Di Đà Kinh, Đại Vô Lượng Thọ Kinh,
-
Lại theo kinh Bi Hoa,
về đời vua Chuyển Luân ThánhVương tên Vô Tránh Niệm có vị đại
thần Bảo Hải. Vị nầy có người con tên là Bảo Tạng, tướng tốt dị
thường sau xuất gia thành Phật, hiệu là Bảo Tạng Như Lai. Một
hôm vua Vô Tránh Niệm nghe Phật thuyết pháp liền phát tâm muốn
cúng dường các món ăn uống, y phục cho đức Phật và đại chúng
luôn luôn trong ba tháng. Vị đại thần Bảo Hải khuyên vua nên
phát tâm cầu đạo vô thượng. Vua liền phát nguyện sau nầy thành
Phật sẽ làm giáo chủ một cảnh cực kỳ trang nghiêm thanh tịnh để
giáo hóa chúng sanh. Vua Vô Thánh Niệm phát nguyện xong, đức Bảo
Tạng Như Lai liền Thọ Ký cho vua sau nầy sẽ thành Phật hiệu là A
Di Đà và cõi nước của ngài sẽ là cõi Cực Lạc Tây Phương. Vị Đại
Thần Bảo Hải sau nầy cũng thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni.
-
Theo Diệu Pháp Liên
Hoa Kinh, phẩm thứ bảy Hóa Thành Dụ : Về thời quá khứ rất xa,
tại nước Hảo Thành có vị vua tu thành Phật hiệu là Đại Thông Trí
Thắng Phật. Khi còn ở ngôi báu ngài có 16 vương tử, khi nghe
ngài đã thành Phật, 16 vị vương tử nầy liền xuất gia theo Phật
Đại Thông Trí Thắng tu hành, được Phật giảng dạy kinh Pháp Hoa,
về sau cả 16 vị vương tử nầy đều thành Phật. Có hai vị là Phật ở
phương Đông : A Súc và Tu Di Đính, hai vị là Phật ở Đông Nam :
Sư Tử Âm và Sư Tử Tướng, hai vị là Phật ở phương Nam : Hư Không
Trụ và Thường Diệt, hai vị là Phật ở Tây Nam : Đế Tướng và Phạm
Tướng, hai vị là Phật ở phương Tây : A Di Đà và Độ Nhất Thiết
Thế Gian Khổ Não, hai vị làm Phật ở Tây Bắc : Đa Ma La Bạt Chiên
Đàn Hương Thần Thông và Tu Di Tướng, hai vị làm Phật ở phương
Bắc là Vân Tự Tại và Vân Tự Tại Vương, một vị là Phật ở Đông Bắc
: Hoại Nhất Thiết Thế Gian Khổ Não và vị thứ 16 chính là đức Thế
Tôn ở cõi Ta Bà nầy.
-
2. Kinh Quán Vô Lượng
Thọ ghi lại việc xãy ra khi đức Thế Tôn ở tại núi Kỳ Xà Quật, do
ngài cảm ứng lời cầu nguyện của hoàng thái hậu Vi Đề Hy bị vua A
Xà Thế biệt giam ở cấm thất, ngài bảo đức Mục Kiền Liên cùng
ngài A Nan đến đó, còn đức Thế Tôn hiện thân nơi ấy, giảng dạy
cho bà Vi Đề Hy phương pháp tu để giải thoát khỏi cảnh giới Ta
Bà, bà Vi Đề Hy nhờ thần lực của đức Thế Tôn, bà đã được thấy
suốt nhiều cảnh giới, nhưng bà chọn cảnh giới Cực Lạc. Đó là
cảnh giới của đức Phật A Di Đà, gồm có 9 phẩm. Đức Phật đã dạy
cho Bà Vi Đề Hy phép Quán Vô Lượng Thọ ( Vô Lượng Thọ là sống
lâu mãi mãi, cũng là một trong 12 danh hiệu tôn xưng đức Phật A
Di Đà).
-
Tưởng cũng nên nói
qua nhân duyên Phật độ cho bà Vi Đề Hy, hoàng hậu của Tần Bà Sa,
mẹ của vua A Xà Thế. Thời gian thái tử Tất Đạt Đa còm tìm thầy
học đạo, có đến thành Vương xá, là kinh đô vương quốc Ma Kiệt Đà
do Bình Sa Vương cai trị, Bình Sa Vương thấy ngài là một tu sĩ
có tướng mạo cao quý, nên có đến thăm viếng và yêu cầu khi nào
Thái Tử đắc đạo, mời trở lại viếng thăm vương quốc Ma Kiệt Đà.
Do đó sau khi thành đạo chẳng bao lâu và sau khi đã độ ông Ca
Diếp và Mục Kiền Liên, đức Thế Tôn đã sớm trở lại vương quốc Ma
Kiệt Đà để độ cho Bình Sa Vương, lần gặp gỡ nầy, đức Thế Tôn
giảng kinh Túc Sanh Truyện, Bình Sa Vương nghe qua chứng được
quả Tu Đà Hoàn và ngài đã cúng dường rừng trúc để xây dựng Trúc
Lâm Tịnh Xá.
-
Trước kia, khi Hoàng
hậu Vi Đề Hy chưa có con, vua Bình Sa Vương đã đi lễ nhiều nơi
để xin thần nhân giúp cho, một hôm có vị thầy tướng cho vua
biết, ở ngọn núi Phú Lâu Na có bậc tiên nhơn đạo đức, sau ba năm
nữa sẽ thác sanh làm con vua. Vì muốn sớm có con sau đôi ba phen
thỉnh cầu mà không được, lần chót vua ra lệnh cho sứ hóa kiếp
tiên nhân để sớm đạt được ý nguyện của mình. Do đó trước khi
chết, tiên nhân phát nguyện : ?? Ngày nay vua dùng tâm và miệng
sai người giết tôi, nếu tôi sanh làm con vua, cũng dùng tâm và
miệng sai người giết vua ??. Chưa sanh mà đã có oán thù, cho nên
A Xà Thế còn có tên là Vị Sanh Oán.
-
Khi đức Thế Tôn đã
cao tuổi, Đề Bà Đạt Đa anh ruột của ngài A Nan, muốn thống lãnh
Tăng đoàn, yêu cầu Phật truyền cho ông ngôi vị ấy, Phật biết Đề
Bà Đạt Đa không xứng đáng nên chẳng khứng cho, Đề Bà Đạt Đa mới
liên kết xúi dục Thái tử A Xà Thế cướp ngôi vua cha. Bình Sa
Vương dẹp yên, biết con muốn làm vua, chẳng những không bắt tội
mà ngài lại truyền ngôi cho A Xà Thế. Lên ngôi xong, A Xà Thế ra
lệnh hạ ngục vua cha, không cho ăn uống, nhưng bà Vi Đề Hy đã
vào thăm và lén giấu thức ăn trong người để tiếp tế cho Bình Sa
Vương, biết được việc nầy, A Xà Thế hạ lệnh giam Vi Đề Hy ở cấm
cung. Chính ở nơi đây, bà đã cầu nguyện đức Thế Tôn chỉ cho biết
nguyên nhân, và dạy cho bà cách tu để thoát khỏi cảnh khổ ở thế
gian nầy. Ấy là nguyên do Đức Thế Tôn giảng Quán Vô Lượng Thọ
Kinh.
-
Còn A Xà Thế, sau khi
giam mẹ, ông sai người thợ cạo vào ngục thất để giết vua cha,
liền sau đó ông được tin mình có con đầu lòng, lúc ấy ông mới
biết tình cha con, ông vào cấm thất hỏi mẹ về tình cảm của vua
cha đối với ông, bà Vi Đề Hy đã kể lại những tình cảm cao cả
Bình Sa Vương đã dành cho ông, ông hối hận truyền lệnh thả vua
cha, nhưng lệnh của ông đã đến chậm hơn nhiệm vụ của người thợ
cạo phải thi hành. Nhân quả đã xong. Để răn dạy người tu hành,
những hành vi của Đề Bà Đạt Đa và vua A Xà Thế đối với Phật và
cha mẹ trở thành ngũ nghịch tội, ai mắc phải, bị đọa vào ngục vô
gián. Theo kinh Pháp Hoa, Phẩm Đề Bà Đạt Đa, đức Thế Tôn cho
biết ở một tiền kiếp, Đề Bà Đạt Đa đã truyền dạy cho ngài kinh
Pháp Hoa, nên ngài đã thọ ký cho Đề Bà Đạt Đa thành Thiên Vương
Như Lai sau nầy. Còn vua A Xà Thế về sau thành một vị hộ pháp
đắc lực, nhất là ông đã yểm trợ cho công cuộc Kiết Tập Kinh Điển
lần thứ nhất.
-
Quán Vô Lượng Thọ
kinh, đức Phật giảng 16 phép quán tưởng, để được vào Chín Phẩm
của đức Phật A Di Đà, đó là cõi cực lạc hay tịnh độ, nhưng Quán
là pháp tu Thiền, Cho nên Quán Vô Lượng Thọ Kinh là pháp Thiền
của Tịnh độ. Kinh nầy cũng còn được gọi là Thập Lục Quán Kinh.
-
3. Kinh A Di Đà,
chúng ta thường tụng trong các khóa lễ Cầu siêu, kinh nầy Phật
giảng cho ông Xá Lợi Phất và đại chúng tại Kỳ Thọ Cấp Cô Độc
Viên, trong kinh nầy đức Phật đã mô tả sơ lược cảnh giới của đức
Phật A Di Đà, khuyên mọi người tu để được vãng sinh về cảnh giới
ấy, cương yếu là đoạn kinh sau đây:
-
- Ông Xá Lợi Phất !
Nếu có người trai lành, người gái thảo nào nghe nói về đức Phật
A Di Đà, cố gắng chuyên trì tên hiệu Ngài: hoặc một ngày, hoặc
hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu
ngày, hoặc bảy ngày, một lòng chẳng loạn, thì người ấy khi lâm
chung sẽ được đức Phật A Di Đà cùng các bậc Thánh, hiện ra trước
người ấy, người ấy khi chết tâm không điên đảo, liền được sinh
sang cõi nước cực lạc của đức Phật A Di Đà.
-
Có thể nói đây là
đoạn quan trọng, chính yếu để phát triển pháp môn Niệm Phật của
tịnh độ tông. Kinh Vô Lượng Thọ được gọi là Đại Bổn A Di Đà nên
kinh nầy còn được gọi là Tiểu Bổn A Di Đà.
-
Căn cứ vào ba kinh :
Vô Lượng Thọ ( Khang Tăng Khải đời Tào Ngụy dịch), Quán Vô Lượng
Thọ ( Cương Lương Da Xá, đời Lưu Tống dịch ), A Di Đà ( Thiên
Thân soạn, Cưu Ma La Thập, đời Diêu Tần dịch ) và bộ Luận Vãng
Sanh Tịnh Độ ( Thế Thân trước tác, Bồ Đề Lưu Chi dịch ), ngài
Tuệ Viễn (334-416) xiển dương Quán Tưởng Niệm Phật, lập dựng nên
tông phái Tịnh độ. Khác với Thiền Tông có truyền thừa, Tịnh Độ
Tông tôn vinh những vị chứng quả thành Tổ, Phật giáo Trung Quốc
đã tôn vinh ngài Tuệ Viễn là Sơ Tổ Tịnh Độ Tông, và lần lượt tôn
vinh các vị Tổ Tịnh Độ Tông như sau : 1) Tuệ Viễn, 2) Thiện Đạo,
3) Thừa Viễn, 4) Pháp Chiếu, 5) Thiếu Khang, 6) Diên Thọ tự Xung
Huyền, hiệu Trí Giác, 7) Tỉnh Thường tự Thứu Vi, 8) Châu Hoằng
tự Phật Huệ, hiệu Liên Trì, 9) Trí Húc tự Ngẫu Ích, 10) Hành
Sách, 11) Thật Hiền tự Tư Tề, hiệu Tỉnh Am, 12) Tế Tỉnh tự Triệt
Ngộ, 13) Ấn Quang
-
B.- Cảnh Giới Cực Lạc
:
-
Về cảnh giới Cực Lạc,
nó không phải là Niết bàn tịch tĩnh, theo như trong kinh A Di Đà
diễn tả :
-
- Này ông Xá Lợi Phất
! Sao cõi kia lại gọi là Cực Lạc ? Vì chúng sanh trong nước ấy
không có những sự đau khổ, chỉ hưởng thụ những sự vui sướng mà
thôi, nên gọi là Cực Lạc.
-
- Lại nữa, ông Xá Lợi
Phất ! Cõi nước Cực Lạc có bảy trùng bao lơn, bảy trùng lưới
giăng, bảy trùng hàng cây, những trùng đó đều bằng bốn thứ ngọc
báu, vây bọc chung quanh. Thế nên nước kia gọi là Cực Lạc.
-
- Lại nữa, ông Xá Lợi
Phất ! Cõi nước Cực Lạc có ao bằng bảy thứ ngọc báu, nước tám
công đức tràn đày trong ao ấy. Đáy ao thường lấy cát vàng rải
khắp mặt đất. Đường và bực bốn bên ao đều hợp thành bởi vàng,
bạc, lưu ly và pha lê. Trên ao có những lâu các cũng đều trang
nghiêm bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, xích châu, mã não.
Trong ao có những hoa sen lớn như bánh xe. Hoa sen xanh tỏa ra
ánh sáng xanh, hoa sen vàng tỏa ra ánh sáng vàng, hoa sen đỏ tỏa
ra ánh sáng đỏ, hoa sen trắng tỏa ra ánh sáng trắng, các hoa sen
ấy đều có những hương vị thanh khiết vi diệu.
-
- Này ông Xá Lợi Phất
! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế.
-
- Lại nữa, ông Xá Lợi
Phất ! Cõi nước của đức Phật A Di Đà kia, thường trổi những âm
nhạc cõi trời; đất bằng vàng ròng và ngày đêm sáu thời thường
mưa xuống những hoa mạn đà la cõi trời. Chúng sanh trong cõi nầy
cứ sáng sớm ra, họ thường đem những lẵng hoa quí, cúng dường
mười vạn ức Phật ở các phương khác, mà chỉ trong giây lát, họ đã
về ngay tới nước của họ, kịp bữa ăn sáng. Ăn xong họ đi kinh
hành.
-
- Ông Xá Lợi Phất !
Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế.
-
- Lại nữa, ông Xá Lợi
Phất ! Nước kia thường có các giống chim có màu sắc sặc sỡ, đẹp
lạ như : chim bạch hạc, chim khổng tước, chim anh vũ, chim xá
lợi, chim ca lăng tần già, chim cộng mệnh. Các loại chim ấy,
ngày đêm sáu thời hót ra những tiếng hòa nhã. Trong những tiếng
ấy diễn tỏ những diệu pháp như năm căn, năm lực, bảy bồ đề phần,
tám thánh đạo phần. Những diệu pháp như thế, chúng sinh trong
cõi nầy, nghe được tiếng pháp ấy rồi, hết thảy đều niệm Phật,
niệm Pháp, niệm Tăng.
-
- Ông Xá Lợi Phất !
Ông chớ nên bảo rằng các giống chim nầy do tội báo mà sinh ra.
Sở dĩ thế là vì sao ? Là vì cõi nước của đức Phật A Di Đà kia
không có ba đường ác.
-
- Ông Xá Lợi Phất !
Cõi nước đức Phật A Di Đà còn không có tên gọi ác, huống là có
ác thực ư ? Các giống chim ấy đều do đức Phật A Di Đà muốn cho
tiếng pháp lan rộng, nên ngài biến hóa ra như vậy.
-
- Ông Xá Lợi Phất !
Cõi nước đức Phật A Di Đà kia có những làn gió hiu hiu thổi rung
các hàng cây báu, cùng những mạng lưới báu, phát ra những tiếng
vi diệu, ví như trăm nghìn thứ âm nhạc, đồng thời trổi lên.
-
- Ai nghe được những
tiếng ấy, tự nhiên đều sinh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
-
- Ông Xá Lợi Phất !
Cõi nước đức Phật A Di Đà thành tựu công đức trang nghiêm như
thế.
-
Đó là cảnh giới Cực
Lạc theo kinh A Di Đà, còn theo kinh Vô Lượng Thọ, tỳ kheo Pháp
Tạng có 48 lời nguyện, khi nào 48 nguyện nầy thành tựu ngài mới
thành Phật A Di Đà, ngược lại tỳ kheo Pháp Tạng sau nầy đã chứng
quả tức là 48 lời nguyện ấy đã thành tựu, đó cũng là cảnh giới
của đức Phật A Di Đà : ( Có thể đọc 48 lời nguyện theo thể văn
vần của Kinh Bốn Mươi Tám Lời Nguyện trong Nghi Thức Tụng Niệm
).
-
1.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện độ cho nhân dân trong nước tôi tránh khỏi ba đường
Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Nếu không được vậy, tôi quyết chẳng
thành Phật
-
2.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho những ai sanh vào nước tôi, đều tránh khỏi sự
đọa lạc vào các hàng Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Nếu chẳng được
vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.
-
3.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho loài người và chư Thiên trong nước tôi đều đồng
một sắc như vàng ròng. Nếu không được vậy, tôi quyết chẳng thành
Phật.
-
4.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho loài người và chư Thiên trong nước tôi đều xinh
lịch như nhau cả, chớ chẳng có sự chênh lệch người đẹp, kẻ thô.
Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.
-
5.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho loài người và chư Thiên trong nước tôi đều đặng
Túc mạng thông, tức là rõ thấu ngàn muôn kiếp trước, nếu có ai
quán tưởng mà không nhớ đuợc vô số kiếp, tôi quyết chẳng thành
Phật.
-
6.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho loài người và chư Thiên trong nước tôi đều đặng
Thiên nhãn thông. Nếu có ai trông ra không thấy ngàn muôn và vô
số cõi Phật, tôi quyết chẳng thành Phật.
-
7.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho loài người và chư Thiên trong nước tôi đều đặng
Thiên nhĩ thông. Nếu có ai không nghe ra tiếng của chư Phật
thuyết pháp trong ngàn muôn và vô số cõi Phật, tôi quyết chẳng
thành Phật.
-
8.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho loài người và chư Thiên trong nước tôi đều đặng
Tha tâm thông. Nếu có ai không nhận ra tâm niệm của chúng sanh,
tôi quyết chẳng thành Phật.
-
9.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho loài người và chư thiên trong nước tôi đều đặng
Thần tức thông. Nếu có ai trong một niệm mà chẳng vượt qua ngàn
muôn và vô số cõi Phật, tôi quyết chẳng thành Phật.
-
10.-Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho loài người và chư Thiên trong nước tôi đều chẳng
hề có ý vọng tưởng về tài sản mình, cho đến chẳng có lòng tham
chấp cái thân thể mình. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng
thành Phật.
-
11.-Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho loài người và chư Thiên trong nước tôi đều đắc
được Pháp thân, tức là chắc quyết vào Pháp Phật thấu lý tuyệt
đích và tu riết tới để nhập Đại Niết Bàn. Nếu không được như
vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.
-
12.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho hào quang tôi chói sáng khắp trong nước tôi và
chói khắp vô số cõi khác, chúng sanh trong các cõi trông thấy
hào quang ấy, đều lánh dữ theo lành. Nếu không được như vậy, tôi
quyết chẳng thành Phật.
-
13.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho đời sống của tôi dài dặc vô hạn, nếu thọ mạng
tôi không đến ngàn muôn và vô số kiếp, tôi quyết chẳng thành
Phật.
-
14.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho số Thanh Văn đệ tử trong nước tôi kể đếm không
xiết; kể cho tất cả chư tu thành Phật, Duyên Giác trong ba ngàn
cõi thế đếm mãi trong ngàn muôn và vô số kiếp cũng không đếm hết
số Thanh văn đệ tử của tôi. Nếu không được như vậy, tôi quyết
chẳng thành Phật.
-
15.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho loài người và chư Thiên trong nước tôi sống lâu
không kể xiết, trừ khi phát nguyện thọ sanh qua cõi khác. Nếu
không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.
-
16.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho trong nước tôi chẳng ai biết tới những tiếng chỉ
sự hung dữ tội ác. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành
Phật.
-
17.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho vô số chư Phật trong các cõi thập phương đều
xưng tán danh hiệu tôi, ngợi khen công đức tôi và cõi Phật của
tôi, khiến cho đệ tử nguyện sanh về nước tôi. Nếu không được như
vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.
-
18.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện rằng tất cả chúng sanh trong mười phương nếu đem
lòng tin tôi, cầu về nước tôi và dẫu niệm danh hiệu tôi vừa đủ
mười lần, thì tôi cũng rước ngay. Duy trừ những kẻ phạm tội ngũ
nghịch và hủy mạ Chánh Pháp. Nếu không được như vậy, tôi quyết
chẳng thành Phật.
-
19.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện rằng những chúng sanh trong mười phương đã phát tâm
tu hành cho thành chánh giác, nếu nghe được danh hiệu tôi, lấy
lòng thành tín và trong sạch mà niệm tưởng tôi để sanh về nước
tôi, thì khi họ lâm chung, tôi dắc đại chúng hiện đến trước mặt
họ mà tiếp dẫn họ. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành
Phật.
-
20.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện rằng những chúng sanh trong mười phương nếu nghe
danh hiệu tôi, thường nhớ đến nước tôi, dốc lòng làm các việc
công đức để sanh về nước tôi, thì họ được mãn nguyện ngay. Nếu
không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.
-
21.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho loài người và chư Thiên trong nước tôi, tất cả
đều đủ ba mươi hai tướng quí. Nếu không được như vậy, tôi quyết
chẳng thành Phật.
-
22.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho chúng sanh các cõi sanh vào nước tôi đều đắc
đặng bực Nhứt Sanh Bổ Xứ, tức là chỉ còn sanh có một lần vào cõi
nào thì đặng thành Phật hoàn toàn; trừ chư Bồ Tát lập Đại nguyện
đưa độ chúng sanh cho đến Niết Bàn và quyết lòng ra đi phụng sự
chư Phật, hổ trợ Chánh Pháp. Nếu không được như vậy, tôi quyết
chẳng thành Phật.
-
23.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho Bồ tát trong nước tôi có thể lướt qua các cõi mà
cúng dường cho ngàn muôn và vô số chư Phật, kế trở về nước cho
kịp bửa ăn ngọ . Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành
Phật.
-
24.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho Bồ Tát trong nước tôi muốn có bất kỳ vật chi như
vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não, các thứ
châu ngọc, mọi đồ trang điểm như hương, hoa, tua, tuội, phấn
sáp, mạt hương, áo quần, dù lọng, cờ phướn, đèn, các điệu múa,
hát, âm nhạc, thì tất cả đều hiện lại liền theo ý muốn. Nếu
không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.
-
25.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho người trong nước tôi đều có đủ trí tuệ và giảng
diễn nghĩa lý Phật Pháp cho đến chỗ viên mãn. Nếu không được như
vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.
-
26.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho Bồ Tát trong nước tôi, thân sức cứng rắn như hạt
kim cương (của đức Narayana). Nếu không được như vậy, tôi quyết
chẳng thành Phật.
-
27.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho không một chúng sanh nào có thể biết cõi tôi
nghiêm trang tịnh diệu tới đâu, dẫu cho ai có thiên nhãn cũng
không thể biết hết công đức của cõi tốt đẹp vô cùng của tôi .
Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.
-
28.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho rằng bất kỳ vị Bồ Tát nào trong nước tôi, dầu
kém công đức cũng dòm thấy cây Bồ Đề (Bửu thọ) của tôi đẹp đẻ,
nghiêm trang và cao cả ngàn do tuần. Nếu không được như vậy, tôi
quyết chẳng thành Phật.
-
29.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho chúng sanh trong nước tôi thọ trì, đọc tụng kinh
điển, đều hiểu rõ nghĩa lý cho đến chỗ viên mãn, hầu có diễn
giảng ra một cách minh bạch . Nếu không được như vậy, tôi quyết
chẳng thành Phật.
-
30.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho Bồ Tát trong nước tôi đều có tài thuyết pháp một
cách hùng biện và làu thông vô hạn lượng. Nếu không được như
vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.
-
31.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho nước của tôi trở nên thanh tịnh và sáng suốt.
Chư Bồ Tát trong nước tôi ngồi trông ra thấy được ngàn muôn và
vô số cõi Phật khác, cũng như nhìn vào gương mà thấy hình. Nếu
không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.
-
32.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho trong nước tôi từ đất bằng cho chí hư không, đều
có những cung điện, lầu các, cây hoa, ao suối quí báu vô giá làm
bằng các thứ hương thơm, mùi hương bay ra khắp các cõi thế giới,
khiến cho ai ngửi vào cũng đem lòng thờ kính chư Đại Bồ Tát và
chư Phật Như Lai. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành
Phật.
-
33.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho chư Bồ Tát trong ngàn muôn và vô số cõi Phật nếu
được hào quang tôi chạm vào mình, thì thân tâm tôi trở nên hiền
lành vui sướng hơn các bực Thiên và người. Nếu không được như
vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.
-
34.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho chư Bồ Tát trong ngàn muôn và vô số cõi Phật, hễ
nghe danh hiệu tôi, thì được thoát khỏi luân hồi, được đắc các
cảnh Tam muội cao siêu cho đến thành đạo Bồ đề. Nếu không được
như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.
-
35.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho hàng phụ nữ trong ngàn muôn và vô số cõi Phật,
hễ nghe danh hiệu tôi, bèn ra sức tinh tấn mà trì niệm, phát tâm
tu đến thành chánh giác, nhàm chán sự luân hồi làm thân phụ nữ,
như vậy nếu về sau có sanh ra nữa, thì khỏi mang thân phụ nữ.
Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.
-
36.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho chư Bồ Tát trong vô số cõi Phật trong mười
phương, hễ nghe danh hiệu tôi, thì đời nào sanh ra cũng lo tu
hành mãi cho đến khi thành Phật. Nếu không được như vậy, tôi
quyết chẳng thành Phật.
-
37.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho chư Bồ Tát trong vô số cõi Phật mười phương, hễ
nghe danh hiệu tôi, bèn cung kính lễ bái và thờ phụng tôi; trong
khi hành phận sự Bồ Tát, các Ngài ấy được loài người và chư
Thiên kính mến. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành
Phật.
-
38.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho loài người và chư Thiên trong nước tôi, nếu muốn
mặc y phục thì liền có y phục hiện đến ngay, y phục nhiệm mầu
vốn sức linh của Phật ban cho, không có đường may, không thể
dính dơ, không hề hư cũ. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng
thành Phật.
-
39.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho loài người và chư Thiên trong nước tôi đều được
vui sướng cũng như bậc Tỳ kheo đắc Đạo diệt được các mối khổ não
nơi mình. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.
-
40.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho loài người và chư Thiên trong nước tôi, tùy ý
muốn thấy đức Phật nào trong mười phương vũ trụ, cứ nhìn vào cây
Bồ đề phía ấy thì thấy ngay. Nếu không được như vậy, tôi quyết
chẳng thành Phật.
-
41.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho chư Bồ Tát trong vô số cõi Phật, hễ nghe danh
hiệu tôi thì ngũ quan và tri giác trở nên mạnh mẽ đều đủ luôn.
Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.
-
42.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho chư Bồ Tát trong vô số cõi Phật, hễ nghe danh
hiệu tôi thì đắc các phép Thiền Thanh Tịnh Giải Thoát Tam Muội
(Suvibhaktavati), đắc pháp thiền nầy trong khoảng vài giây lát,
các ngài ấy có thể cúng dường hằng hà sa số chư Phật trong các
cõi, mà sự thiền định không bị gián đoạn. Nếu không được như
vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.
-
43.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho chư Thiên và người trong vô số cõi Phật, hễ nghe
danh hiệu tôi, thì đắc phước đức, mỗi khi lâm chung thì sanh ra
nơi những gia đình tôn quí; như vậy mãi cho đến khi thành Phật.
Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.
-
44.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho chư Bồ Tát trong vô số cõi Phật, nghe danh hiệu
tôi, thì công đức được gia tăng thêm mãi cho đến đắc quả Bồ đề
trọn vẹn, trong khi tu hạnh Bồ Tát, các ngài ấy bao giờ cũng vui
sướng, an lạc luôn. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng
thành Phật.
-
45.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho chư Bồ Tát trong vô số cõi Phật, hễ nghe danh
hiệu tôi, thì đắc phép thiền Phổ Đẳng Tam Muội (Samantamugata);
đắc phép thiền nầy, các ngài ấy có thể đến viếng thăm và cúng
dường từng đức Phật trong vô số đức Phật mười phương, như vậy
mãi cho đến khi thành Phật, mà không bào giờ sự thiền định của
các ngài bị gián đoạn. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng
thành Phật.
-
46.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho chư Bồ Tát trong nước tôi, hễ muốn nghe Pháp
chi, thì liền được nghe Pháp ấy. Nếu không được như vậy, tôi
quyết chẳng thành Phật.
-
47.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho chư Bồ Tát trong nước tôi và vô số cõi Phật, hễ
nghe danh hiệu tôi, thì trở nên bất thối chuyển đối với quả Phật
Thế Tôn. Nếu không được như vậy, tôi quyết chẳng thành Phật.
-
48.- Tôi thành Phật
rồi, nguyện cho chư Bồ Tát trong vô số cõi Phật, hễ nghe danh
hiệu tôi, thì đắc được phép ba lần nhẫn, các ngài ấy không xao
lãng đói với Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng. Nếu không được như vậy,
tôi quyết chẳng thành Phật.
-
Hòa Thượng Trí Thủ
tóm tắc cõi cực lạc như sau, tối thiểu phải có những điều kiện
về nhân dân và thổ địa :
-
a) Về nhân dân (
chúng sanh thế gian ) :
-
1) An lạc vô bệnh.
-
2) Thọ mạnh lâu dài
-
3) Thân tướng đẹp đẻ.
-
4) Không có sự bất
bình đẳng về giàu nghèo, sang hèn.
-
5) Tâm tánh nhu hòa,
đạo đức cao thượng.
-
6) Đạo tâm kiên cố.
-
7) Mọi người đều do
hóa sanh mà có, không do thai sanh là kết quả của dâm dục, ô
trược.
-
8) Không có sự sai
khác về nhỏ lớn già trẻ, mạnh yếu.
-
9) Không nhơ bẩn, ô
uế.
-
10) Tâm trí phóng
khoáng, thông đạt.
-
11) Hết luân hồi
trong lục đạo.
-
12) Đủ sáu món thần
thông.
-
13) Đầy đủ huệ nhãn,
chánh kiến,
-
b) Về thổ địa ( khí
thế gian ) :
-
1) Đất đai bằng
phẳng, đầy châu ngọc trong suốt, không có khe hố, núi gò lởm
chởm và ao rãnh sông ngòi hủng hê.
-
2) Không có các nạn
thiên tai như lụt bão, sắm sét, đại hạn, địa chấn, gây ra mất
mùa, đói rét.
-
3) Bầu trời luôn luôn
quang đãng, không cần ánh sáng mặt trời, mặt trăng hay đèn nến.
-
4) Tất cả vật dụng
luôn luôn mới mẻ, không vở, không hư, không mục nát, không cũ
nhớp.
-
5) Phong cảnh xinh
tươi, cây hoa đẹp đẽ, lầu gác mỹ lệ, không cần nhọc công kiến
trúc trang hoàng mà tự nhiên hiện thành.
-
6) Khí trời luôn luôn
mát mẻ.
-
7) Âm nhạc nhiệm mầu
tự nhiên hay ngưng dứt tùy theo sở thích người nghe.
-
8) Không có động vật
nào khác, ngoài loài người, trừ sự biến hóa của Phật.
-
9) Hồ nước trong,
thơm ngọt ngào, cạn sâu ấm mát tùy từng sở thích.
-
10) Cảnh vật tiếp xúc
gây được khoái cảm nhẹ nhàng mà không làm chao động đạo niệm.
-
11) Bảy báu và vật
dụng tự nhiên thành tựu để cung ứng đầy đủ mà không cần đến sức
người.
-
12) Không có các sự
trần lao phiền não.
-
13) Không có nạn nhân
mãn, mặc dù dân số vãng sanh mỗi ngày mỗi tăng.
-
14) Nhân dân sống
trong thái bình an lạc.
-
Chúng ta ai cũng biết
rằng cõi Cực Lạc do đức Phật A Di Đà làm giáo chủ,
-
A Di Đà gồm có hai
nghĩa chánh nằm trong đoạn kinh A Di Đà sau đây :
-
Ông Xá Lợi Phất !
Đức Phật A Di Đà Kia có vô lượng ánh sáng, soi khắp cõi nước
mười phương mà không bị chướng ngại gì cả, vì vậy có tên hiệu là
A Di Đà. Lại nữa, ông Xá Lợi Phất ! Thọ mệnh của đức Phật A Di
Đà kia, cùng thọ mệnh của nhân dân nơi cõi ngài dài vô lượng vô
biên vô số kiếp, nên gọi là A Di Đà.
-
Thường chúng ta xưng
tụng danh hiệu ngài như sau : Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ
Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật hay A Di Đà Phật, thật ra
ngài có đến 13 anh hiệu tôn xưng sau đây:
-
1.- Vô Lượng Thọ Phật
: Đời sống của Phật dài lâu vô lượng.
-
2.- Vô Lượng Quang
Phật : Hào quang trí huệ Phật nhiều không thể lường.
-
3.- Vô Biên Quang
Phật : Hào quang Phật chiếu sáng không biết đến đâu là cùng.
-
4.- Vô Ngại Quang
Phật : Hào quang Phật chiếu khắp mọi nơi, không bị chướng ngại
nào ngăn cản.
-
5.- Vô Đối Quang Phật
: Không có hào quang Phật nào đối chiếu sánh bằng.
-
6.- Viêm Vương Quang
Phật : Hào quang Phật túa sáng hơn hết.
-
7.- Thanh Tịnh Quang
Phật : Hào quang Phật chiếu ra rất thanh tịnh.
-
8.- Hoan Hỷ Quang
Phật : Hào quang Phật chiếu ra làm cho người nhận được sẽ rất
hoan hỷ.
-
9.- Trí Huệ Quang
Phật : Hào quang của Phật chiếu sáng tới đâu quét sạch vô minh,
tăng trưởng trí huệ.
-
10.- Bất Đoạn Quang
Phật : Hào quang của Phật chẳng hề bị đứt đoạn.
-
11.- Nan Tư Quang
Phật : Hào Quang của Phật không ai có thể suy xét cho cùng tận,
trừ có chư Phật.
-
12.- Vô Xưng Quang
Phật : Hào Quang của Phật không có lời nào xưng tụng cho đầy đủ.
-
13.- Siêu Nhật Nguyệt
Quang Phật : Hào quang của Phật sáng hơn sức sáng của mặt trời,
mặt trăng.
-
Ở cõi Ta Bà nầy có 6
đường là : Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc Sanh, Người, A tu la và Trời
và bốn bậc thánh là Thanh Văn, Bồ Tát, Duyên Giác và Phật lập
thành mười pháp giới. Còn ở cõi Cực Lạc có ba bậc : Thượng,
Trung, Hạ; mỗi bậc lại có ba phẩm, cộng chung thành chín phẩm,
mọi người được sinh về cảnh giới nào cũng vậy, khi hoa sen ở
cảnh giới ấy nở ra thì người đó sanh ra, tiếp tục tu thì tiến
hóa lên, nếu không tinh tấn niệm Phật thì sẽ bị giáng xuống cõi
thấp hơn.
-
Theo Kinh Quán Vô
Lượng Thọ, những điều kiện tu hành để được về các phẩm ấy được
đức Thế Tôn dạy từ pháp quán thứ 14 đến 16 như sau :
-
14) Quán Sanh Về
Thượng Phẩm :
-
Đức Phật bảo A Nan và
Vi Đề Hy: ?? Thượng phẩm Thượng Sanh là thế nào? Nếu chúng sanh
muốn sanh về cõi kia, nên phát ba thứ tâm, là tâm chí thành, tâm
sâu thiết, tâm hồi hướng phát nguyện, tất sẽ được vãng sanh. Lại
có ba hạng hữu hình được sanh về Cực Lạc : Một là hạng có lòng
xót thương, không giết hại, giữ tròn các giới hạnh. Hai là hạng
đọc tụng kinh điển Phương Đẳng Đại Thừa. Ba là hạng tu hành lục
niệm, hồi hướng phát nguyện sanh về An Dưỡng. Nếu đủ các công
đức như thế, từ một ngày cho đến bảy ngày, liền được vãng sanh.
-
Do kẻ ấy tinh tấn
dõng mãnh, nên lúc vãng sanh Phật A Di Đà cùng hai Bồ Tát Quán
Thế Âm, Đại Thế Chí, vô số hóa Phật, trăm ngàn Thanh Văn Tỳ Kheo
đại chúng, vô lượng chư Thiên và cung điện thất bảo đều hiện
đến. Khi ấy Quán Thế Âm Bồ Tát bưng đài Kim Cang, cùng Đại Thế
Chí Bồ Tát tới trước hành giả. Phật A Di Đà phóng đại quang minh
chiếu đến thân người vãng sanh, rồi cùng chư Bồ Tát đồng đ? tiếp
dẫn. Hai vị đại thánh Quán Thế Âm, Đại Thế Chí lại cùng vô số Bồ
Tát đồng thanh khen ngợi, khuyến tấn. Hành giả mục kích cảnh ấy
rồi, sanh tâm vui mừng khấp khởi, tự thấy mình ngồi trên đài kim
cang, theo sau Phật và Thánh chúng, trong khoảng khảy ngón tay,
sanh về Cực Lạc.
-
Khi đã sanh về cõi
kia, lại thấy kim thân của Phật đầy đủ các tướng, chư Bồ tát sắc
tướng cũng cụ túc trang nghiêm; các ánh sáng và rừng báu đều
diễn thuyết pháp mầu. Hành giả nghe xong liền, liền ngộ vô sanh
pháp nhẫn, trong giây phút thừa sự chư Phật khắp mười phương,
được thọ ký trước chư Phật, rồi trở về bản quốc, chứng vô lượng
trăm ngàn môn Đà La Ni. Đây gọi là Thượng phẩm Thượng Sanh.
-
Thượng Phẩm Trung
Sanh là thế nào ? Có chúng sanh tuy không thọ trì kinh Phương
Đẳng, nhưng khéo hiểu nghĩa thú, đối với đệ nhất nghĩa, tâm
không kinh động, tin sâu ly nhân quả, không phỉ báng pháp Đại
thừa. Nếu hành giả đem công đức niệm Phật hồi hướng, cầu sanh
Cực Lạc, thì khi lâm chung Tây Phương tam thánh cùng vô lượng
đại chúng quyến thuộc bưng đài tử kim, hiện đến trước mặt khen
rằng : ?? Pháp tử ! Ngươi tu Đại Thừa, hiểu Đệ nhất nghĩa, nên
nay ta đến tiếp nghinh ??. Liền đó, đức Vô Lượng Thọ Thế tôn
cùng với một ngàn hóa Phật đồng thời đưa tay xuống tiếp dẫn. Bãy
giờ hành giả tự thấy mình ngồi trên đài tử kim, chấp tay khen
ngợi chư Phật, rồi trong khoảnh một niệm liền sanh về nơi ao
thất bảo ở cõi Cực Lạc.
-
Đài tử kim ấy như hoa
báu lớn, trải một đêm liền nở, bấy giờ hành giả thân sắc tử kim,
dưới chơn lại có hoa sen thất bảo, được Phật và Bồ Tát đồng thời
phóng quang soi đến mình, mắt liền mở sáng. Do tu tập trước kia,
lúc đó tự nghe các âm thanh khắp nơi đều nói thuần pháp Đệ nhất
nghĩa đế rất thâm mầu. Nghe xong liền bước xuống kim đài lễ Phật
và chấp tay ca ngợi đức Thế Tôn. Trải qua bảy ngày liền được
không thối chuyển nơi quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, có thể
tự tại bay đi khắp mười phương thừa sự chư Phật, tu các môn tam
muội. Như thế qua một tiểu kiếp, được chứng vô sanh nhẫn và mong
chư Phật thọ ký. Đây là cảnh Thượng phẩm Trung sanh.
-
Thượng phẩm Hạ sanh
là thế nào ? Có chúng sanh tuy cũng tin nhân quả, không báng Đại
thừa, nhưng chỉ phát tâm cầu đạo vô thượng, rồi đem công đức ấy
niệm Phật nguyện về Cực Lạc. Hành giả ấy khi lâm chung được Phật
A Di Đà, Quán Thế Âm, Đại Thế chí cùng chư Bồ Tát cầm hoa sen
vàng, hóa hiện năm trăm vị Phật đến nghinh tiếp. Lúc đó năm trăm
hóa Phật đồng thời đưa tay xuống và khen rằng: ?? Pháp tử !
Ngươi nay thanh tịnh, phát vô thượng đạo tâm, nên ta đến rước
ngươi ??.
-
Khi hành giả mục kích
cảnh ấy rồi, liền thấy mình ngồi nơi hoa sen vàng, ngồi xong
cánh hoa khép lại, theo sau đức Thế tôn sanh về ao thất bảo. Như
thế trải qua một ngày đêm, hoa sen nở ra, bảy hôm sau mói được
thấy Phật. Nhưng tuy thấy Phật, đói với các tướng hảo tâm còn
chưa rõ ràng, đợi qua hai mươi mốt ngày, mới nhận được minh
bạch. Bãy giờ người vãng sanh nghe các âm thanh đều diễn pháp
mầu, bay dạo mười phương cúng dường chư Phật, và được nghe pháp
thậm thâm trước các đức Thế tôn. Trải qua ba tiểu kiếp như thế,
được bách pháp minh môn, trụ Sơ hoan hỷ địa. Đây là cảnh Thượng
Phẩm Hạ sanh.
-
Trên đây là môn tưởng
Thượng bối vãng sanh, thuộc về phép quán thứ mười bốn.
-
15.- Quán Sanh Về
Trung Phẩm
-
Đức Phật bảo A nan và
Vi Đề Hy: ?? Trung phẩm Thượng sanh là thế nào ? Nếu chúng sanh
thọ trì ngũ giới, giữ Bát quan trai hoặc tu các giới khác, không
tạo tội ngũ nghịch và các điều lỗi lầm, rồi đem căn lành ấy hồi
hướng cầu sanh về thế giới Cực Lạc ở phương Tây. Chúng sanh đó
khi lâm chung, được Phật A Di Đà cùng các Tỳ Kheo quyến thuộc vi
nhiễu, phóng kim quang soi đến mình, diễn thuyết các pháp khổ,
không, vô thường, vô ngã, cùng khen ngợi hạnh xuất gia thoát
khổ. Mục kích cảnh ấy, hành giả sanh tâm vui mừng, tự thấy mình
ngồi trên đài sen, vội quì gối chấp tay cuối xuống lễ Phật. Lúc
chưa ngước mặt lên, đã sanh về thế giới Cực Lạc.
-
Sau khi vãng sanh,
vừa lúc hoa sen nở ra, hành giả nghe các âm thanh khen ngợi pháp
Tứ đế, liền chứng quả A La Hán, đầy đủ tam minh, lục thông và
bát giải thoát. Đây là cảnh Trung phẩm Thượng sanh.
-
Trung phẩm Trung sanh
là thế nào ? Nếu chúng sanh giữ chính chắn Bát quan trai hoặc
giới Sa di hay giới Cụ túc trong một ngày đêm, các oai nghi đều
toàn vẹn, đem công đức huân tu giới hương đó hồi hướng cầu sanh
Cực Lạc. Khi lâm chung hành giả nầy thấy Phật A Di Đà cùng quyến
thuộc cầm hoa sen thất bảo phóng kim quang hiện đến trước mặt
mình. Bãy giờ đương nhơn nghe giữa hư không có tiếng khen rằng:
?? Lành thay thiện nhơn ! Ngươi đã biết thuận theo lời dạy của
chư Phật ba đời mà tu tập, nên nay ta đến rước ngươi, Khi đó
hành giả thấy mình ngồi nơi hoa sen, cánh hoa khép lại, liền
được sanh về bảo trì ở cõi Cực Lạc.
-
Qua bảy ngày hoa sen
nở, hành giả chấp tay ca ngợi Phật, được nghe pháp vi diệu, sanh
tâm hoan hỷ, liền chứng quả Tu Đà Hoàn, và nửa kiếp sau mới
chứng quả A La Hán. Đây là cảnh Trung phẩm Trung sanh.
-
Trung phẩm Hạ sanh là
thế nào? Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn hiếu dưỡng cha mẹ, tu
hạnh nhân từ theo thế gian, khi lâm chung gặp thiện tri thức
giảng cho nghe về sự vui nơi cõi Phật A Di Đà và bốn mươi tám
nguyện của Pháp Tạng Tỳ kheo. Kẻ ấy nghe xong hoan hỷ niệm Phật
mà qua đời, thần thức liền được sanh ngay về cõi Cực Lạc thế
giới, lẹ như khoảng co duỗi cánh tay của người tráng sĩ.
-
Qua bảy ngày sau hành
giả được gặp Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí, nghe pháp nhiệm
mầu, sanh tâm vui đẹp, được quả Tu Đà Hoàn, sau một tiểu kiếp
mới chứng quả A La Hán. Đây là cảnh Trung phẩm Hạ sanh ??.
-
Môn tưởng nầy gọi là
Trung Bối Vãng Sanh, thuộc về phép quán thứ mười lăm.
-
16.- Quán Sanh Về Hạ
Phẩm
-
Đức Phật bảo A Nan và
Vi Đề Hy: ?? Hạ phẩm Thượng sanh là thế nào? Hoặc có chúng sanh
ngu tối, Tuy không hủy báng kinh điển Phương Đẳng, nhưng tạo
nhiều nghiệp ác không biết hổ thẹn, kẻ ấy khi lâm chung gặp
thiện tri thức nói cho nghe danh đề của mười hai loại kinh Đại
thừa, liền được trừ diệt nghiệp ác rất nặng trong một ngàn kiếp.
Bậc tri thức lại bảo phải chấp tay niệm ?? Nam Mô A Di Đà Phật
??; do đương nhơn thành tâm xưng danh hiệu Phật nên tiêu trừ tội
trong năm mươi ức kiếp sanh tử. Ngay lúc ấy, đức Vô Lượng Thọ
Như Lai cảm biết, liền sai hóa Phật, hóa Quán Âm và hóa Thế Chí
hiện đến trước hành giả khen rằng: ?? Lành thay thiện nhơn !
Ngươi đã xưng danh hiệu Phật, nên các tội tiêu diệt, ta đến đây
để rước ngươi ??.
-
Bãy giờ hành giả thấy
ánh sáng của hóa Phật đầy khắp nhà mình, trong lòng vui nừng,
liền xả thọ, ngồi trên hoa sen báu theo hóa Phật sanh về ao thất
bảo. Sau khi vãng sanh trải qua bốn mươi chín ngày hoa sen mới
nở. Vừa lúc hoa nở, Đại bi Quán Thế Âm và Bồ Tát Đại Thế Chí
phóng ánh sáng lớn, trụ rtước người ấy, giảng thuyết cho nghe
nghĩa lý thâm diệu của mười hai loại kinh ( * ). Đương nhơn nghe
rồi tin hiểu, phát tâm vô thượng bồ đề, trải qua mười hai tiểu
kiếp, thành tựu bách pháp minh môn, được vào Sơ địa. Đây là cảnh
Hạ phẩm Thượng sanh.
-
Hạ phẩm Trung sanh là
thế nào? Hoặc có chúng snh ngu tối hủy phạm ngũ giới, bát giới,
giới cụ túc, trộm của Tăng kỳ và vật hiện tiền tăng, bất tịnh
thuyết pháp, lòng không hổ thẹn, dùng các nghiệp ác để tự trang
nghiêm. Kẻ tạo tội chướng như thế, tất phải đọa vào địa ngục,
nên lúc lâm chung, các tướng lửa của Địa ngục đồng thời hiện ra.
Nhưng người nầy may mắn được gặp thiện tri thức giảng nói cho
nghe về oai đức thập lực, sức thần thông quang minh của Phật A
Di Đà, cùng những pháp : Giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát
tri kiến. Đương đơn nghe xong, sanh lòng tín trọng, nên trừ diệt
tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử, lửa dữ Địa ngục hóa thành
gió mát thổi các hoa trời, trên hoa có hóa Phật và hóa Bồ Tát
hiện thân tiếp dẫn, trong khoảng một niệm liền được sanh về hoa
sen nơi ao thất bảo.
-
Sau khi vãng sanh
trải qua sáu kiếp hoa sen mới nở. Vụa lúc hoa nở, Bồ Tát Quán
Thế Âm, Đại Thế Chí hiện đến,dùng tiếng Phạm âm an ủi và vì mà
giảng thuyết pháp thậm thâm của Đại Thừa. Hành giả nghe xong,
liền phát đạo tâm vô thượng. Đây là cảnh Hạ phẩm Trung sanh.
-
Hạ phẩm Hạ sanh là
thế nào? Hoặc có chúng sanh tạo tội ngũ nghịch thập ác, làm đủ
các việc chẳng lành; kẻ ngu ấy do nghiệp ác đáng lẽ phải bị đọa
vào ác đạo, trải qua nhiều kiếp, chịu khổ vô cùng. Nhưng khi lâm
chung, người nầy nhờ gặp thiện tri thức dùng nhiều cách an ủi,
nói pháp mầu cho nghe, lại dạy bảo tưởng niệm Phật. Đương nhơn
tuy nghe lời dạy, song vì sự khổ bức bách, không yên rảnh để
quán tưởng đức Vô Lượng Thọ Như Lai. Thấy thế, thiện hữu lại
bảo: ?? Nếu ông không thể tưởng đức Phật kia, thì nên chí thành
xưng ?? Nam Mô A Di Đà Phật?? tiếng tăm liên tiếp không dứt cho
đủ mười niệm ??. Hành giả vâng lời. Và do nhờ xưng danh hiệu
Phật, nên mỗi niệm trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử.
Khi mạng chung, người ấy thấy hoa sen vàng rực rỡ như vầng nhật
hiện ra trước mặt. Trong khoảng một niệm, liền được vãng sanh về
thế giới Cực Lạc.
-
Như thế mãn mười hai
Đại kiếp hoa sen mới nở. Khi hoa nở, hai vị đại sĩ Quán Thế Âm.
Đại Thế Chí dùng tiếng đại bi vì hành giả nói rộng về thật tướng
của các pháp và cách trừ diệt tội chướng. Đương nhơn nghe rồi
thân tâm vui đẹp, liền phát lòng vô thượng bồ đề. Đây là cảnh Hạ
phẩm Hạ sanh.
-
Môn tưởng trên gọi là
Hạ Bối Vãng Sanh.
-
Đó là chín phẩm của
cõi Cực Lạc.
-
C.- Theo lời Phật
dạy, hành pháp môn Niệm Phật như thế nào cho được thành tựu :
-
Thông thường chúng ta
hiểu nghĩa Lục Tự Di Đà hay Niệm Phật cầu Vãng sanh là : Nam Mô
A Di Đà Phật có nghĩa như sau :
-
Nam mô : Có 6 nghĩa :
kính lễ, quy y, phụng thờ, cứu ngã, độ ngã, quy mạng.
-
A : Có nghĩa là Vô,
Không
-
Di Đà : Nghĩa là
lượng
-
Phật : Người giác
ngộ.
-
Vậy Nam mô A Di Đà
Phật là : Kính lễ đấng giác ngộ vô lượng, cũng có nghĩa là : Con
quay về nương tựa vào đấng giác ngộ vô lượng.
-
Muốn thành tựu bất cứ
pháp môn nào, người tu tập trước nhất phải có : Tín, Hạnh,
Nguyện. Nghĩa là chúng ta dứt trừ các mối nghi, tin rằng : Pháp
môn niệm Phật thù thắng do chính kim ngôn của đức Thế Tôn, muốn
thành tựu chúng ta phải hành rốt ráo và luôn luôn có chí nguyện
bền vững cầu vãng sanh về cõi Cực Lạc.
-
Trừ pháp Thập Lục
Quán, pháp môn Niệm Phật có rất nhiều chủng loại, đại thể chúng
ta có thể chia thành :
-
Sổ tức niệm Phật
-
Sổ châu niệm Phật
-
Trì danh niệm Phật .
-
1.- Sổ tức niệm Phật
: Ngồi bán già hay kiết già, xong niệm chú Tịnh pháp giới chơn
ngôn :
-
Án lam xóa ha ( 3 lần
)
-
Tịnh Tam Nghiệp Chân
Ngôn:
-
Án, ta phạ bà phạ,
truật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ truật độ hám ( 3lần).
-
Kế đọc bài kệ :
-
Chánh thân đoan tọa,
-
Đương nguyện chúng
sanh.
-
Tọa Bồ Đề tòa,
-
Tâm vô sở trước
-
Nam Mô Tây Phương Cực
Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.
-
Nam Mô A Di Đà Phật .
. .
-
Theo đó cứ tiếp tục
niệm Lục Tự Di Đà, hơi thở vào ra giữ cho đều hòa, một hơi thở
không nhất thiết là một câu niệm Phật, cần nhất là chú tâm theo
dõi từng tiếng thầm niệm của mình, đừng để cho tâm duyên theo
các giác quan và ngoại giới.
-
Khi mới bắt đầu với
năm hay mười phút rồi mỗi tuần tăng thêm vài phút, tạo thành một
thói quen dần cho thể xác và sự chú tâm, giữ cho được thoải mái,
đừng gò bó cả thân lẫn tâm.
-
Trước khi chấm dứt
niệm Phật, chúng ta chí thành cầu nguyện :
-
Con nguyện đem công
đức niệm Phật nầy hồi hướng cho tất cả người thân kể oán, khi
hết báo thân nầy cũng như cửu huyền thất tổ đều được vãng sanh
về cõi Tịnh độ.
-
2.- Sổ châu niệm Phật
: Là cách niệm lần chuổi, có thể ngồi kiết già, bán già trong
khi công phu ngoài ra còn có thể niệm khi đi đứng nằm ngồi,
trong thời công phu chúng ta nên theo cách thức sau đây :
-
Tịnh pháp giới chân
ngôn :
-
Án lam xóa ha ( 3 lần
)
-
Tịnh Tam Nghiệp chân
ngôn :
-
Án, ta phạ bà phạ,
truật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ truật độ hám (3 lần)
-
Kế đọc bài kệ ( chuổi
108 hạt )
-
Bồ Đề nhứt bá bát,
-
Diệt tội đẳng hằng
sa.
-
Viễn ly tam đồ khổ,
-
Xuất sắc biến liên
hoa.
-
Ái hà thiên xích
lãng,
-
Khổ hải vạn trùng ba.
-
Dục thoát luân hồi
khổ,
-
Cấp tảo niệm Di Đà.
-
Nam Mô Tây Phương Cực
Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.
-
Nam mô A Di Đà Phật .
. .
-
Còn lần chuổi 18 hạt
thì đọc bài như sau :
-
Diệu quả Bồ Đề ly
chưởng chưởng,
-
Thủ khai cương tỏa
diệu trùng trùng.
-
Thập bát chuyển luân
La Hán tướng,
-
Thiện tăng giáng
phước, huệ vô cùng .. .
-
Nam Mô Tây Phương Cực
Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.
-
Nam mô A Di Đà Phật .
. .
-
Cách lần chuổi, cứ
một câu niệm Phật, lần một hạt chuổi, khi chuổi lần giáp vòng,
lần trở ngược lại, không lần vượt qua đầu mối xâu chuổi, nơi ấy
tượng trưng cho Tam Bảo, phương pháp lần chuổi hạt tâm ta cũng
vẫn chuyên chú vào từng tiếng niệm danh hiệu, và một phần nữa
chú tâm vào việc lần hạt để không cho tạp niệm chen vào.
-
Mỗi lần trước khi
chấm dứt Niệm Phật, chúng ta cần phải chí thành cầu nguyện:
-
Con nguyện đem công
đức niệm Phật nầy hồi hướng cho tất cả người thân kể oán, khi
hết báo thân nầy cũng như cửu huyền thất tổ đều được vãng sanh
về cõi Tịnh độ.
-
3.- Chuyên niệm niệm
Phật : Phương pháp nầy không cần dùng chuổi, bất cứ lúc nào ta
cũng niệm Phật, niệm có tiếng, có thể ngân nga như điệu hát, có
thể niệm thầm, niệm khi đi, đứng, nằm, ngồi, lúc làm việc, bất
kỳ lúc nào nhớ ra thì niệm Phật, thời gian đầu dễ bị duyên theo
ngoại cảnh, vọng niệm chen vào lúc niệm Phật, lúc không nhưng hễ
nhớ tới thì liền niệm Phật, dần dần sẽ niệm Phật nhiều hơn. Cho
đến một lúc nào đó, ta nhớ ra thì thấy tự mình đã có niệm liên
tục, dường như không ngừng nghĩ đó là : Niệm Hay Không Niệm Vẫn
Là Niệm, nhưng chúng ta phải ghi nhớ rằng khi mình nhớ tới niệm
Phật, tự dưng thấy ta tự động đang niệm Phật, chúng ta phải chú
tâm vào niệm tiếp tục, có như vậy mới đạt được Vô Biệt Niệm.
-
Vào những giờ nhất
định nào đó, chúng ta ngưng niệm Phật để cầu nguyện :
-
Con nguyện đem công
đức niệm Phật nầy hồi hướng cho tất cả người thân kể oán, khi
hết báo thân nầy cũng như cửu huyền thất tổ đều được vãng sanh
về cõi Tịnh độ.
-
Sau khi cầu nguyện
xong, tiếp tục niệm Phật.
-
Sự chuyên trì niệm
Phật : Một là tâm tịnh thì trí huệ sanh, hai là nhứt tâm niệm
Phật thì Phật và chư Bồ Tát mới tiếp độ khi lâm chung và quan
trọng nhất là niệm Phật để giữ cho tâm chẳng tán loạn khi lâm
chung mới có thể vãng sanh về cõi Cực Lạc. Niệm Phật cầu vãng
sanh như đã nói phải có Tín , Hạnh, Nguyện. Hạnh ấy cần phải giữ
giới nhất là hành thập thiện nhờ đó ba nghiệp thanh tịnh, sự
tinh tấn hành trì, sẽ trợ duyên cho đạo quả thành tựu cao hơn, ở
trong chín phẩm nơi cõi Cực Lạc.
-
Ai cũng có thể hành
trì pháp môn niệm Phật, không bị giới hạn trong hoàn cảnh nào,
cho nên Niệm Phật là pháp môn thù thắng cho mọi người con Phật.
-
( * ) Mười hai loại
kinh là : 1) Khế kinh. 2) Trùng tụng. 3) Thọ ký. 4) Phúng tụng.
5) Cô khởi. 6) Nhân duyên. 7) Thí dụ. 8) Bản sanh. 9) Bản sự.
10) Phương quảng. 11) Vị tằng hữu và 12) Luận nghị.
-
Sách tham khảo :
-
Liên Du Kinh Quán Vô
Lượng Thọ Quan Âm Tu Viện Biên Hòa ấn tống, Biên Hòa, 1988.
-
HT. Thích Trí Thủ
Pháp Môn Tịnh Độ THPGTPHCM, Việt
Nam,
1996.
-
PT Khóa Lễ Cầu Siêu,
Nhóm Phật Tử Louisville, Kentucky, 1993.
-
HT Thích Thanh Kiểm
Lược sử Phật Giáo Trung Quốc, Vạn Hạnh tái bản, Sàigòn, 1965.
-
Đoàn Trung Còn Các
Tông Phái Đạo Phật nhà xuất bản Thuận Hóa, Việt Nam, 1995.
-
HT Thích Thanh Cát
Những Bài Học Vô Giá Chùa Giác Minh, California, USA 1998.
- --o0o--
|
|