|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
- VÔ
THƯỜNG
- Thích
Thông Huệ
- --o0o--
-
-
Khi nói đến Vô thường
liền hiểu ngay đó là luật tuần hoàn của vũ trụ. Nơi nào có sự
vận hành, chuyển biến, đổi dời, nơi đó có Vô thường. Vì vậy Vô
thường là một định luật phổ biến, bao gồm cả vũ trụ và nhân
sinh.
-
Vì mang tính phổ biến
nên Vô thường là một cuộc đại hóa, sự biến hóa cùng khắp, bất cứ
ở đâu và lúc nào. Dù đức Phật có xuất hiện hay không thì ngọn
lửa Vô thường vẫn cứ điềm nhiên âm ĩ thiêu đốt cả thế gian,
không một phút tạm ngừng. Vì thế, đứng về mặt tục đế hữu hình
hữu hoại thì hẳn nhiên Vô thường là chân lý bất di dịch.
-
Thân, tâm và cảnh
giới là một dòng chảy (quá, hiện, vị lai). Chánh báo và y baó
của một chúng sinh tạo thành dòng sông sinh mệnh, lực đẩy tạo
thành dòng sông sinh mệnh chính là sự khát ái vào những sở thuộc
như sự nghiệp tài sản, danh vọng nhằm củng cố cái Tôi (giả ngã)
trong vòng luân hồi vô tận. Khi nào cái Tôi còn bén rễ, khi nào
ý thức chấp ngã còn bén rễ, khi nào ý thức chấp ngã còn xen vào
cuộc sống thì vòng luân hồi vẫn thường xoay chuyển.
- Vô
thường có ba:
-
- Nhất kỳ Vô thường -
Tương tục Vô thường - Sát na sinh diệt Vô thường.
-
Nhất kỳ là thô tướng
nhất của Vô thường, chỉ cho sự kết thúc của một tiến trình, như
sự chết của một người, nhưng chết không có nghĩa là mất hẳn, mà
chỉ là tạm vắng ở nơi này, để chuẩn bị biểu hiện thành sự sống ở
nơi khác.
-
- Tương tục là sự
sinh diệt, băng hoại thường xuyên trong lòng sự vật, là sự
chuyển biến không ngừng, nên sự tương tục ấy là tể tướng của Vô
thường.
-
- Sát na sinh diệt là
sự vô thường ma mãnh nhất, nhỏ nhiệm nhất. Sát na là thuật ngữ
nhà Phật hay sử dụng, chỉ cho đơn vị ngắn nhất của thời gian.
Một niệm thoáng qua trong tâm thức có đến 90 sát na. Mỗi sát na
là một tiểu niệm. Sự sinh diệt nhỏ nhiệm của mỗi sát na chỉ có
Phật trí mới thấy được. Ba phạm trù thuộc ba phân loại Vô thường
ở trên không chỉ có nơi các hiện tượng vật lý, mà thâu gồm luôn
trong các hiện tượng sinh lý và tâm lý nữa.
-
Kinh Pháp Hoa, phẩm
Thí Dụ. Phật dạy: "Chúng sanh bị chìm đắm trong vô số nạn khổ,
thế mà không biết lại hoan hỷ vui chơi, chẳng kinh chẳng sợ,
chẳng hề biết chán, chẳng chịu tầm cầu giải thoát. Ở trong nhà
lửa tam giới cứ dong ruổi Đông Tây. Tuy gặp đại khổ mà chẳng
biết đó là nguy khốn".
-
Phật nói Vô thường
(nhà lửa) nhằm phá cái chấp thường của phàm phu, vì mê mờ điên
đảo, vọng nhận các pháp là thực hữu, bèn đem cái tâm Vô thường,
dùng cái thân Vô thường, nắm bắt các pháp Vô thường, cho đến mãn
kiếp không bao giờ được thỏa mãn tâm vọng cầu. Người lớn hay
sống về quá khứ, tuổi trẻ hay mơ mộng về tương lai, người tỉnh
thức biết khéo sống nơi giây phút hiện tại. Mảnh đất lập thân
của người phàm là quá khứ vị lai. Nơi an thân và lập mệnh của
người tỉnh thức là hiện tại. Những kỷ niệm vui buồn quá khứ chỉ
còn là những viễn ảnh mờ xa rơi rớt lại trong ký ức. Những dự
hướng tương lại chưa đến chỉ là những bóng ma của hư tưởng. Một
cuộc vui nào rồi cũng phải qua đi. Một nỗi buồn nào rồi cũng
phải nhạt theo năm tháng. Cổ Đức có dạy: "Thời gian tợ tên bắn,
ngày tháng như thoi đưa. Vô thường chóng qua mau, gắng gỗ chớ
dần dà! Ngày tháng cứ thản nhiên trôi qua, mạng sống cũng theo
đó dần dần đoạn giảm, như cá thiếu nước, nào có vui gì...".
-
(Quang âm tợ tiễn,
nhựt nguyệt như toa, Vô thường tấn tốc, thiết mạc ta đà!. Thị
nhựt dĩ quá, mạng diệc tùy giảm, như thiểu thủy ngư, tư hữu hà
lạc...).
-
Trong một giây có đến
125 triệu tế bào chết đi, nhường chỗ cho 125 triệu tế bào khác
sinh ra, trong ấy thực không thể tìm thấy cái Tôi. Theo đây,
luật Vô thường bình đẳng đối với tất cả chúng sanh (5 uẩn), dầu
là kẻ sang người hèn, kẻ ngu người trí. Quỷ Vô thường tuy không
thấy hình dạng nhưng có khả năng làm mạng căn con người chết dần
mòn. Sự nhận diện thường trực nơi tất cả mọi đổi thay chuyển dời
của cuộc sống không phải để đi đến bi quan chán đời, mà là sự
nhận diện cần thiết nhằm thực hiện sự chuyển hóa nơi tâm thức,
vốn là sự mê lầm cố hữu đang đè nặng lên thân phận kiếp người,
bình tâm mà nhận xét, vui thú thế gian tuy tạm bợ mong manh
nhưng vẫn có hấp lực phi thường, hấp lực đó cũng chính là ma lực
vô hình dẫn dắt chúng sanh trôi lăn theo sáu nẻo. Chúng sanh
chịu khổ sanh tử không khác nào con tằm mùa Xuân kéo tơ làm kén
tự trói buộc mình, cũng như con thiêu thân tự lao vào đèn chịu
cái họa chết thiêu. Nếu như không đủ phước duyên gặp minh sư dẫn
dắt thì làm sao tỏ ngộ được chánh pháp.
-
Cổ đức dạy: "Tuy sống
một trăm năm như trong khoảng sát na, như lượn sóng rút về biển
Đông, như ánh sáng còn sót lại của buổi chiều tà, như đánh đá
nhà lửa, như ngựa câu thoáng qua khe cửa, như ngọn đèn trước
gió, như giọt sương sớm mai trên đầu ngọn cỏ. Nếu không gặp được
chánh pháp, ắt phải chịu vĩnh kiếp trầm luân!".
-
(Tuy niên bách tuế du
nhược, sát na, như đông thệ chi trường ba, tợ tây thùy chi tàn
chiếu, kích thạch chi tinh hỏa, sậu khích chi tấn câu, phong lý
chi vi đăng, thảo đầu chi triêu lộ. Nhược bất ngộ ư chánh pháp,
tất vĩnh đọa ư ư đồ hỷ!). Một tâm thức mê mờ quay cuồng trong
cảnh sống say chết mộng thêu dệt nên hoàn cảnh sống, trong đó
mình là tác giả. Thế nên kinh Hoa Nghiêm cho rằng tâm chính là
một đại danh họa, họa ra thân năm uẩn và thế giới y báo:
-
"Tâm như người thợ vẽ
-
Vẽ mỗi mỗi ngũ uẩn
-
Trong tất cả thế giới
-
Đều do tâm tạo tác".
-
(Tâm như công họa sư
-
Hỏa chủng chủng ngũ
uẩn
-
Nhất thiết thế giới
trung
-
Giai do duy tâm tạo).
-
Vô thường thuộc yếu
tố thời gian, là một diễn trình đi từ nhân đến quả. Diễn trình
đó nơi chúng sanh hữu tình thì biểu hiện thành sinh, già, bệnh,
chết; nơi các pháp thì có sinh, trụ, dị, diệt; nơi thế giới thì
có thành, trụ, hoại, không. Sự thay đổi của bốn mùa, sự di
chuyển của các hành tinh, vệ tinh cũng không ra ngoài quy luật
của diễn trình đó. Thế giới vĩ mô, thế giới vi mô và thế giới
trung bình cũng cùng một loại. Hễ có thành ắt có hoại, có hợp ắt
có tan. Người quán thông lý Vô thường thì liền dừng, ấy là người
tỉnh, người giác. Cái thực vĩnh cửu vốn vô hình vô tướng, còn
cái hữu hình hữu tướng chỉ là giả tạm. Nhưng sự sống vĩnh hằng
cũng không thể tìm ngoài cái Vô thường ảo mộng. Hãy bình thường
trong mọi hoạt dụng của cuộc sống, và tìm cách giải thoát ngay
trong cảnh bình thường đó. Xin thay lời kết thúc bằng đoạn thơ
của Thiền sư Thanh Đàm, thuộc đời thứ 42, tông Tào Động, khoảng
đầu thế kỷ thứ 19:
-
"Công danh cái thế
màn sương sớm
-
Phú quý kinh nhân
giấc mộng dài
-
Chẳng hiểu bản lai vô
nhất vật
-
Công phu luống uổng
một đời ai"
- --o0o--
|
|