Ý NGHĨA BỜ BÊN KIA
HT. Thích Trí Quảng
(Bài giảng khóa tu Một ngày an lạc lần thứ 38 tại chùa Phổ
Quang ngày 14-9-2008)
---o0o--
Bờ bên kia dịch từ chữ Hán là đáo bỉ ngạn, tức
đến bờ bên kia. Có người dùng từ hồi đầu thị ngạn nghĩa là
quay đầu là bờ, từ này cũng khó hiểu, ít có người hiểu đúng.
Bờ bên kia ở đâu và hồi đầu là gì?
Trước nhất chúng ta phân ra hai bên, một bên là
thử ngạn, tức bên này và bỉ ngạn là bên kia. Chúng ta đứng
bên bờ này là bên bờ của sanh tử, cho nên đối với sanh tử,
chúng ta có bờ bên kia là Niết bàn. Người tu Thiền còn gợi
thêm một ý nữa là “Sanh tử Niết bàn đẳng không hoa”, tức
sanh tử thuộc ảo, nhưng Niết bàn cũng ảo; đó là đỉnh cao của
Bát Nhã. Đức Phật dạy rằng vì chúng ta đứng ở sanh tử, nên
hướng về Niết bàn; nhưng đạt được Niết bàn thì Niết bàn đó
cũng là ảo. Ý này mở ra cho chúng ta nhận biết được có một
thế giới vượt trên Niết bàn.
Trước nhất, chúng ta đang đứng ở bờ sanh tử, hay
sống trong sanh tử, tức có sanh thì phải có chấm dứt cuộc
sống. Tuy nhiên, ý nghĩa mà chúng ta muốn nói đến là bờ bên
kia, tức sau khi chết, chúng ta về đâu. Thông thường chúng
ta nghĩ rằng sau khi chết, chúng ta về thế giới Phật, về
Niết bàn, về thiên đường, hoặc tái sanh lại cõi người. Như
vậy, cứu cánh Niết bàn là điểm tối hậu, còn phía bên kia có
nhiều thứ, không nhất thiết có một. Khi chúng ta đến thế
giới Ta bà này, mỗi người đều mang theo mình nghiệp riêng từ
quá khứ. Có thể nói chúng ta hiện hữu ở thế giới này là thể
hiện nghiệp quá khứ và hành vi tạo tác của chúng ta trong
kiếp này là hạt nhân để tạo thành cuộc sống của kiếp sau. Vì
vậy, chúng ta sống như thế nào trong hiện tại thì sau khi
chết, sẽ có đời sau thể hiện cuộc sống hiện tại của chúng ta.
Thật vậy, sinh hoạt hàng ngày của chúng ta được
đưa vào và lưu giữ lại trong tiềm thức, Duy thức học gọi là
A lại da thức. Và tất cả những gì xảy ra trong cuộc sống
hiện tại đều được gom vào đầy đủ trong kho tiềm thức và
chúng thường hiện ra trong giấc mơ khi chúng ta chìm vào
giấc ngủ. Tiềm thức hay tâm thức của chúng ta đã nói lên
được cuộc sống của chúng ta sau khi chết. Những người tham
lam, hung dữ, độc ác, hơn thua tranh giành trong cuộc sống
hàng ngày, những việc này phát xuất từ tâm tham vọng, nên
tâm thức đó đã chất chứa hạt giống ác. Chính vì vậy mà khi
còn sống, tâm trạng họ đã bất an và trong giấc ngủ, họ cũng
mộng mị bất an, cho đến giấc ngủ dài là sau khi chết, tâm họ
chắc chắn cũng rơi vào thế giới bên kia bất an là địa ngục.
Những người sống trong trạng thái tâm như vậy, thì đối với
họ “Dương gian là cảnh, âm phủ là quê, sống ở thác về”. Thác
về là về địa ngục, nghĩa là họ phải trải qua từ tầng địa
ngục thứ nhất cho đến tầng địa ngục thứ mười. Qua mười chặng
đường của thế giới âm, đến chặng cuối cùng để giải quyết
những việc mà con người đã làm trên trần gian và trước khi
tái sanh lại cuộc đời, họ đến nhà bà lão do Ngọc hoàng gởi
xuống. Bà lão này cho ăn bát cháo lú thì tái sanh trên cuộc
đời, họ quên tất cả quá khứ và trở lại con người bình thường
trần tục mà sống, để rồi kết cuộc chấm dứt cuộc sống cũng
lại đi một vòng giống y như vậy, lại đi qua mười cửa ngục,
rồi tái sanh… Đó là cuộc sống hẹp, lẩn quẩn trong địa ngục
luân hồi, nhưng nếu mở rộng là lục đạo luân hồi, tức có sáu
con đường luôn mở rộng là mở rộng tâm thức, không phải chỉ
đi vào địa ngục; tùy theo suy nghĩ và hành động mà mỗi người
có kết quả khác nhau sau khi chết.
Đương nhiên tạo ác thì vào địa ngục, còn người
tạo phước nhưng nhiều sân hận, họ có thể sanh lại thế giới A
tu la. Hoặc người sống lương thiện không thể vào mười địa
ngục, họ có hạt nhân làm người thì tái sanh làm người và nếu
có phước cao, đã sống trọn mười điều lành, họ sẽ sanh lên
cõi Trời dục, tức Tứ thiên, Đao lợi thiên, Dạ ma thiên, hay
Hóa lạc thiên. Như vậy, đối với những người vừa nói, bờ bên
kia được giới hạn trong phạm vi luân hồi tái sanh từ địa
ngục cho đến cõi người, cõi trời. Những người không tu chưa
hiểu đạo, chưa thực tập Thiền quán, chưa hạ thủ công phu thì
chỉ đi vào lục đạo luân hồi này.
Còn bờ bên kia mà Đức Phật dạy xa hơn cho người
có hạ thủ công phu thì như thế nào. Trước tiên, Phật dạy
hàng Thanh văn thực tập 37 trợ đạo phẩm, bờ bên kia của họ
hoàn toàn khác, vì họ tu hành sống cuộc đời khác với phàm
phu, họ không huân tập tâm xấu ác, không làm việc tội lỗi,
kể cả tâm tốt, việc thiện cũng không huân tập. Họ chỉ muốn
làm cho tâm thanh tịnh mà thôi. Khởi đầu tu, Phật dạy Thanh
văn tu Tứ niệm xứ quán: quán thân bất tịnh, quán tâm vô
thường, quán thọ thì khổ, quán pháp vô ngã; cuối cùng đến bờ
bên kia là Không. Và thế giới Không này theo tinh thần Bát
Nhã mà Đức Quan Âm đã “Hành thâm Bát Nhã ba la mật đa thời
chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhứt thiết khổ ách…”. Mở
đầu Tâm kinh, Đức Phật giới thiệu Bồ tát Quan Âm nhờ thực
tập Bát Nhã đến mức đào sâu ngũ uẩn, thấy tất cả đều là
không, thì không có nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, không có
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, cũng không có cứu cánh
Niết bàn; từ đó, tâm hoàn toàn trống không, đạt đạo giải
thoát.
Vì vậy, bước đầu tu hành của chúng ta là cứu
cánh Niết bàn, giải thoát. Các Phật tử tu học Phật pháp cố
gắng thực tập cho được giai đoạn một, phải nhận thấy rõ tất
cả mọi người cuối cùng đều phải rời bỏ thân tứ đại, huống
chi là vật sở hữu làm sao giữ được, mang theo được sau khi
chết. Ý thức sâu sắc như vậy sẽ bỏ được tâm chấp trước,
chúng ta liền có cuộc sống an lạc.
Đầu tiên kinh Bát Nhã mở ra cho chúng ta hiểu
được ý nghĩa của đến bờ bên kia; nhưng chỗ này không phải là
điểm dừng của chúng ta. Thật vậy, Bát Nhã là đỉnh cao của Tứ
Thánh Đế mà Phật đã dạy. Người tu thành tựu giới, định, tuệ,
mới thấy được thế giới không, không này là không chấp trước,
không tham đắm. Còn chấp trước, còn tham đắm thì còn khổ.
Đỉnh cao của người tu là tâm hoàn toàn thanh thản, vì không
chấp trước, không tham đắm, nên tất cả mọi việc đối với
chúng ta trở nên nhẹ nhàng. Nhưng chúng ta không dừng ở chỗ
này, vì có thế giới không này để thoát ly bờ sanh tử mà thôi
và sau cái không này còn có cái vi diệu hơn nữa. Vì vậy, khi
mở được mắt trí huệ, chúng ta sẽ thấy rõ những gì bờ bên kia
có, không phải KHÔNG là trống không.
Trên tinh thần này, Ngài Huệ Năng dạy rằng Bản
lai vô nhất vật. Người không hiểu, chấp vào cái “vô” này,
rồi thấy không là không suông, chẳng có gì cả. Phải hiểu
rằng tất cả mọi sự mọi việc trên cuộc đời này đều là không,
tức tất cả đều là ảo giác. Chúng ta đạt đến không là trạm
dừng chân để thưởng thức được cuộc sống giải thoát so với
khổ đau của phàm phu, chứ đó chưa phải là cứu cánh.
Vì vậy, đạt được “Vô nhất vật” rồi, cánh cửa
sanh tử bên này đóng thì cánh cửa Niết bàn bên kia mới mở ra,
bấy giờ sẽ có “Hữu hoa, hữu nguyệt, hữu lầu đài”, tức phía
bên kia còn đẹp hơn gấp bội phần. Chúng ta thấy thế giới này
đẹp, cho nên tham đắm; nhưng Lục tổ Huệ Năng dạy chúng ta
rằng ở bờ bên kia còn đẹp hơn nhiều, không phải trống không,
không phải không suông như mọi người nghĩ tưởng. Bờ bên kia
có Cực lạc của Phật Di Đà, có Niết bàn của chư vị Thánh La
hán, có cung Trời Đâu Suất của Đức Di Lặc, v.v…
Và khi nhận thức được bờ bên kia giải thoát còn
có những điều kỳ diệu hơn, tốt đẹp hơn ở cõi này, chúng ta
bắt đầu khám phá bờ bên kia để hướng tâm đến. Hành giả tu
pháp môn Tịnh độ dễ nhận ra bờ bên kia. Đức Phật Di Đà xưa
cũng làm vua là Vô Tránh Niệm, Ngài có tất cả những sở hữu
vật chất lớn nhất trần gian, vì Ngài là Chuyển luân Thánh
vương; nhưng Ngài cảm nhận được sở hữu vật chất này không
tồn tại vĩnh viễn và khi hết phước báu, những sở hữu vật
chất này liền trở thành trần lao nghiệp chướng cho mình.
Thực tế cuộc sống cho thấy rõ khi có phước, người thân hết
lòng với họ, người giúp việc cũng trung thành, thậm chí
người chống đối không dám hại mà còn phải làm tốt. Nhờ phước
như vậy, họ dễ dàng tạo sự nghiệp lớn lao trên cuộc đời;
nhưng khi hết phước, người ủng hộ bắt đầu chống phá, thậm
chí con cháu trong gia đình cũng phá hại. Đức Phật Di Đà
nhận ra phước này chỉ là tạm bợ trong sanh tử, không đáng để
quan tâm. Vua Trần Thái Tông cũng thể hiện ý này qua câu nói
nổi tiếng “Ta xem ngai vàng như chiếc giày rách”.
Tất cả phước báu thế gian không đáng quan tâm,
cho nên vua Vô Tránh Niệm mới quan tâm cái khác thì mới được
Bảo Tạng Như Lai hướng dẫn tiến tu theo Phật đạo. Ngài liền
từ bỏ cuộc sống tạm bợ thế gian, xuất gia làm Tỳ kheo Pháp
Tạng, sống thánh thiện. Từ người có phước báu hữu lậu thế
gian mà đánh đổi lấy phước báu vô lậu như vua Vô Tránh Niệm
là người biết tu; không biết tu thì phước báu hữu lậu đã có
tiêu xài phung phí sẽ hết.
Bảo Tạng Như Lai dạy vua Vô Tránh Niệm chuyển
đổi phước báu hữu lậu thành vô lậu bằng cách nào ? Tất cả
những gì nhà vua có đều chuyển thành vô lậu, ví dụ như có
tiền thì dùng bố thí, cúng dường; vì bố thí sẽ được người
quý trọng, cúng dường sẽ có phước và có phước mới kết duyên
được với cao Tăng, Thánh hiền. Kinh nói rõ rằng Ngài thường
tham học với tất cả đại thiện tri thức, hay các Đức Như Lai.
Nhờ những phước báu là thông minh, có tiền, sức khỏe tốt và
sử dụng phước này để tham vấn cầu học, phước của Ngài càng
tăng thêm, nên mới có tên là Pháp Tạng Tỳ kheo; nghĩa là
Ngài đã đem phước thế gian đổi thành kho tàng quý báu vô giá,
gọi là Pháp. Tu theo Phật, phải triển khai được như vậy.
Pháp Tạng Tỳ kheo có kho báu là phước đức và trí tuệ; phước
đức do bố thí, cúng dường và trí tuệ nhờ học được pháp của
Như Lai. Đức Phật Di Đà khởi đầu cách tu như vậy.
Trong kinh Hoa Nghiêm, Phật cũng dạy người tu
cần tri thức, không có Phật nào không xả thân học đạo cầu
tri thức và chính Đức Phật Thích Ca cũng đã từng làm như
vậy. Tỳ kheo Pháp Tạng có kho phước mới dễ dàng tạo thêm
phước và Ngài có khả năng hiểu biết mới thâm nhập được tri
kiến Như Lai. Điều này chúng ta thấy rõ trong cuộc sống,
những người không có khả năng hiểu biết thì không thể học
được. Có thể nói rằng muốn trí thức hóa nông dân rất khó,
nhưng lao động hóa trí thức không khó. Tôi nhận thấy tuy
cùng học một lớp, nhưng người thành đạt dễ dàng, người không
học nổi vì không có khả năng tiếp thu.
Đức Phật Di Đà trở thành giáo chủ thế giới Tây
phương Cực Lạc một cách nhẹ nhàng vì Ngài sở hữu kho tàng vô
lậu và sử dụng kho báu này để phát huy lên. Thật vậy, mở đầu,
Ngài khai mở một quốc gia gọi là An Dưỡng Quốc để làm nơi
tập hợp những người có tri thức và khi tập hợp được nhiều
thiện tri thức, Ngài sử dụng kho tàng pháp bảo này thành lập
được An Dưỡng Quốc thật sự có toàn những người giỏi, tốt; vì
thực tế một người giỏi đến đâu cũng không thể một mình làm
được. Muốn được việc, phải tập trung được nhiều người có
năng lực thật sự và có đạo đức mà kinh gọi là Đại thiện tri
thức.
Vì vậy, thế giới của Phật Di Đà xây dựng đầu
tiên theo tiêu chuẩn là những người được Ngài mời tới là
người sạch nghiệp, trong kinh gọi là hàng Thượng thiện nhân.
Nếu tu theo Nhị thừa, thì phải là La hán, Bích chi Phật; nếu
tu theo Đại thừa, phải là hàng Nhứt sanh bổ xứ A Bệ Bạt Trí.
Đó là quy cách của Phật Di Đà, tập hợp những người có tri
thức và đức hạnh. Ngài xây dựng được như vậy vì đã học được
mô hình Tịnh độ của chư Phật mười phương; nói cách khác, có
học và có phước mới làm được.
Từ thế giới Không của Bát Nhã bước qua, liền gặp
các thế giới của Phật Di Đà, Phật Dược Sư, Phật Hương Tích,
v.v… Có rất nhiều Tịnh độ của chư Phật cho chúng ta đến là
bước đầu vào bờ bên kia. Và để đến bờ bên kia, mỗi pháp môn
tu có hướng riêng chỉ rõ cho chúng ta; không phải có một con
đường lên Niết bàn, hay về Cực lạc, về các Tịnh độ. Ví dụ
tôi chuyên tu Bổn môn Pháp Hoa tất nhiên có hướng khác, có
cái nhìn khác với những vị tu pháp môn khác. Con đường Phật
đạo qua bờ bên kia theo kinh Bát Nhã, hay theo Tịnh độ của
Phật Di Đà, hoặc bờ bên kia theo kinh Pháp Hoa đều có cách
hành trì khác nhau và đạt đến kết quả cũng khác nhau.
Riêng tôi, thường xuyên lạy Hồng danh Pháp Hoa
để tạo mối giao cảm với chư Phật và Bồ tát; vì tôi không
biết các Ngài ở đâu, nhưng bằng niềm tin và tâm kính trọng
của tôi đối với các Ngài, nên mỗi ngày tôi lễ bái, tạo mối
tương thông với các Ngài. Tôi cảm giác chung quanh mình có
Phật và Bồ tát, nhưng vì mang thân ngũ ấm, nên ta không thấy
được các Ngài. Tuy nhiên, tôi vẫn cảm thấy các Ngài qua niềm
tin. Ý này được kinh Pháp Hoa dạy rằng Xá Lợi Phất thuộc
hàng trí tuệ bậc nhất mà cũng phải dùng niềm tin vào đạo; vì
thật sự chúng ta khó thấy được những gì của bờ bên kia,
người nói chưa thấy mà người nghe cũng không thấy bờ bên
kia.
Vì vậy, với pháp môn hành trì là lễ lạy chư
Phật, chư Bồ tát với tất cả niềm tin son sắt, đã tạo cho tôi
sự bình an trong lòng. Ở bên bờ sanh tử này, trong thế giới
đầy bất an này, nhưng tôi cảm thấy hoàn toàn an lành, vì tâm
tôi hướng về Phật, Bồ tát. Đem tâm mình gắn kết với Phật này,
Phật kia, Bồ tát nọ, nhờ sự gắn kết sâu xa mật thiết như vậy,
đã giúp cho tôi có được tâm bình an ở bước ban đầu. Và trải
qua nhiều năm tu hành, từ độ cảm tâm trong lòng mà cuộc sống
bên ngoài của tôi được thay đổi tốt đẹp theo. Những gì tôi
thấy trong giấc mơ, trong thiền định, trong suy tư dần dần
trở thành hiện thực.
Bước đầu tôi chỉ thấy mình đi nghe pháp ở các
giảng đường, xa hơn, nghe pháp của các Bồ tát giảng. Trên
bước đường tu, tuy thấy như vậy trong giấc mơ, nhưng ít nhất
trong tâm thức chúng ta đã có hạt giống tốt lành rồi. Mơ
thấy đi chùa, lễ Phật, nghe pháp là điều rất quý. Tôi có bạn
đồng tu kể rằng trong giấc mơ ông không biết mình là thầy tu,
mà lại thấy mình đi chài lưới bắt cá. Một khoảng thời gian
sau, ông này trở thành người chài lưới thật. Vì túc nghiệp
là chài lưới, nên tu hành, nghiệp này cứ hiện lên và ở trong
tiềm thức lâu, nghiệp này trở thành hiện thực trong cuộc
sống. Thưở mới tu, tôi thường mơ thấy chùa, thấy đang tu với
Đại chúng, nghĩa là thế giới tiềm thức đã ghi đậm dấu ấn như
vậy và xa hơn, tôi thấy trong giấc mơ, mình tụng kinh,
thuyết pháp ở nhiều đạo tràng. Theo tôi, giấc mơ và cuộc
sống thực tế phải gắn kết với nhau, tức giữa thế giới vô
hình và thế giới vật chất hữu hình, giữa tiềm thức và hiện
thực cuộc sống đã có một sự nối kết chặt chẽ; không phải ảo
giác, nhưng là thật.
Tiến xa hơn nữa trên bước đường tu, hành giả
Pháp Hoa nhận ra rằng đi vào cửa Phật tuy bằng pháp phương
tiện, nhưng đi qua được bờ bên kia, mới thấy được thiên bá
ức hóa thân Phật hiện vào tâm thức chúng ta và điều quan
trọng là tất cả những hóa thân Phật lại hiện thành thiện tri
thức của chúng ta trên cuộc đời này. Như Hòa thượng Thiện
Trí ngồi kế bên tôi đã là thiện tri thức trong tiềm thức của
tôi thì nay trong Ban Tổ chức khóa tu Một ngày an lạc, ngài
cũng là thiện tri thức của tôi. Phải khẳng định rằng tu Pháp
Hoa không phải là sống với cái ảo, những gì có trong tiềm
thức phải có trong cuộc sống của chúng ta.
Vào cửa Phật qua giáo pháp phương tiện và thực
tập pháp phương tiện này, chúng ta nhận biết được rằng Phật
có thiên bá ức hóa thân với vô số hành trạng khác nhau.
Chẳng những chúng ta thấy ở Việt Nam mà cũng có thể mở rộng
tầm nhìn khắp các quốc gia khác. Tùy theo sự tu hành của
chúng ta đến mức độ nào thì giấc mơ cũng trải rộng như vậy.
Vào cửa phương tiện thực tập để lần vào thế giới của bờ bên
kia và nếu tu Bổn môn Pháp hoa, đạt đến đỉnh cao là vào thế
giới Thường Tịch Quang, gọi là Bổn độ; đó là thế giới của
Đức Phật Thích Ca hay của Đức Phật Tỳ Lô Giá Na, tức là Phật
gốc.Vì vậy, trong kinh Pháp Hoa, Đức Phật nói rằng từ ta
thành Phật đến nay trải qua vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp
thường ở ta bà thị hiện sanh thân trong nhiều quốc độ,
thuyết pháp, giáo hóa vô số chúng sanh.
Đến được bờ bên kia, chúng ta thấy thị hiện sanh
thân Phật, thấy các hóa thân Phật cứu độ chúng sanh trong
khắp pháp giới và tiến tu xa hơn nữa, chúng ta mới gặp được
báo thân viên mãn của Phật Thích Ca, tức là phước đức và trí
tuệ của Phật đã thành tựu trải qua suốt lộ trình Bồ tát đạo
từ vô lượng kiếp. Đức Phật nói rằng: Ta tu Bồ tát đạo, cảm
thành thọ mạng dài lâu, đến nay chưa hết mà còn lớn hơn nữa.
Tu hạnh Bồ tát để cảm thành thọ mạng, nghĩa là
tạo thành thân phước đức trí tuệ mới là điều quan trọng đối
với người tu, không phải chết là hết, nhưng càng tu thì
phước đức trí tuệ càng lớn hơn. Phước đức trí tuệ của Đức
Phật Thích Ca vẫn lớn lên mãi theo dòng thời gian vô tận,
điều này thể hiện rõ trong Mạn đà la, ở giữa tâm có Đức Phật
Lô Xá Na, bốn bên có bốn vị Phật, phía Tây có Phật Di Đà,
phía Đông có Phật A Súc, phía Nam có Phật Bảo Sanh, phía Bắc
có Phật Thành Tựu. Bốn vị Phật này tiêu biểu cho phước đức
trí tuệ vẹn toàn của Đức Phật Lô Xá Na hiện hữu ở bốn phương.
Tu Bổn môn Pháp Hoa, đi sâu vào thế giới tâm, sẽ nhận thấy
được các vị Phật này.
Trên bước đường tu, ở giai đoạn đầu, chúng ta
cần học hiểu pháp Phật cho đúng. Sang giai đoạn hai, phải
phát huy được đạo lực của chính mình, thấy được các thế giới
Phật xung quanh chúng ta. Từ đó, dù có đọc tụng hay không
đọc tụng kinh điển, nhưng tâm hành giả đã duyên được với thế
giới Thật báo trang nghiêm của Đức Thích Ca, nên thường thấy
chư Phật, chư Bồ tát, thường nghe pháp và thâm nhập vào đạo
tràng của các Ngài. Đó chính là loại hình thế giới thứ hai
là tâm thức của chính mình.
Thiết nghĩ bằng niềm tin dũng mãnh sẽ đi vào
được các thế giới này và nhận ra những gì chúng ta đã nói.
Bờ bên kia là thế giới tâm thức mà nơi đó, chúng ta diện
kiến được một Phật cho đến nhiều Phật, vào được các thế giới
Phật như Cực lạc của Phật Di Đà, hay Tịnh độ của Đức Di Lặc
ở cung Trời Đâu Suất, v.v… và trở lại hiện thực cuộc sống
này, chúng ta sẽ gặp được những người bạn tốt, đạo đức đến
hợp tác với chúng ta trong các Phật sự. Cao hơn nữa, trên lộ
trình hành Bồ tát đạo cho đến thành Phật còn có nhiều loại
hình Tịnh độ khác nữa, điều này còn xa đối với chúng ta,
nên không bàn đến. Mong rằng mỗi hành giả trong khóa tu này
học và thực hành Phật pháp, đều xây dựng được Tịnh độ riêng
cho mình an trú để phát huy được phước đức và trí tuệ, nuôi
lớn được báo thân của chính mình.
HT.Thích Trí Quảng
(Giác Ngộ)
03-06-2009 11:34:56