SỐNG VỚI HAI TRUYỀN THỐNG
Nguyễn Duy Nhiên Phỏng dịch
---o0o---
Ông Gil Frondal tu tập theo đạo Phật hơn
hai mươi lăm năm, và đã hành trì theo cả hai truyền thống
Bắc tông và Nam tông. Ông đã từng xuất gia và tu tập theo
truyền thống thiền Tào Động của Suzuki Roshi, và được Truyền
Pháp (dharma transmission) vào năm 1995.
Và ông cũng đã tu tập theo truyền thống
Vipassana của Phật giáo Nguyên thuỷ, dưới sự hướng dẫn của
ngài U Pandita. Từ năm 1990, Fronsdal trở thành vị thầy giáo
thọ thường trú tại
trung
tâm thiền Insight Meditation Center tại
Mid-Peninsula ở thành phố Redwood, California.
Trong bài phỏng vấn dưới đây, ông Gil Frondal có
chia sẻ về kinh nghiệm thực tập của mình theo hai truyền
thống Zen và Vipassana. Ông nói về những khác biệt cũng như
sự hỗ tương lẫn nhau của hai truyền thống này. Và ông cũng
chia sẻ những nhận xét của mình về vấn đề truyền dạy Phật
pháp ở phương Tây, những đổi mới và sự khác biệt của Phật
giáo Hoa kỳ.
Theo nhận xét của ông, người Tây phương cũng cần
nên học hỏi thêm về truyền thống và văn hóa Phật giáo ở Á
châu, vì nó có thể giúp cho sự tu học của họ được thêm phần
sâu sắc.
Xin gửi đến các bạn bài phỏng vấn đăng trên tạp
chí Phật học Tricycle, ông Frondal chia sẻ về những kinh
nghiệm thực tập của mình trong hai truyền thống Zen và
Vipassana.
Ít có người nào lại là vị thầy hướng dẫn thiền
cho cả hai truyền thống Zen và Vipassana cùng một lúc. Vì
ông bắt đầu tu tập theo truyền thống Zen trước, nên ông có
thể kể lại ông đã đến với pháp môn Zen như thế nào không?
Tôi bắt đầu chú ý đến đạo Phật khi còn ở đại học,
khi tôi đang theo học ngành Khoa học Môi Trường
(environmental science). Trong thời gian ấy tôi quan tâm về
vấn đề làm sao để đối phó lại với sự thoái hoá của môi
trường, và tìm hiểu những đóng góp của chúng ta trong vấn đề
này.
Việc này đã đưa tôi bước sâu vào những tư tưởng
của Đông phương – nhất là của Trung hoa, đạo Lão – nó mang
lại một mô hình hoàn toàn khác biệt về mối tương quan giữa
con người với thiên nhiên.
Tôi bắt đầu đọc những bài viết của Alan Watts và
những sách về Phật giáo, và tôi cảm thấy rất phấn khởi, vì
chúng dường như mang lại cho tôi những câu trả lời mới lạ.
Rồi một năm sau, tôi đọc được quyển Thiền Tâm Sơ
Tâm của thiền sư Suzuki, và rất thích. Tôi cảm thấy như là
nó trình bày một quan niệm sống mà tôi đang theo, mặc dù
không hề ý thức đến. Và tôi cũng chú ý đến sự quan trọng của
việc ngồi thiền mà quyển sách này nhấn mạnh. Mặc dù trong
thời gian này tôi đã bỏ học đại học và đang sống trong một
cộng đồng tâm linh, nhưng dường như chưa bao giờ ngồi thiền.
Cũng chính ở nơi này mà tôi đã khám phá ra quyển
Thiền Tâm Sơ Tâm. Sau đó, khi vừa có dịp, tôi liền đi đến
thiền viện San Francisco Zen Center của thiền sư Suzuki
Roshi. Nơi đây tôi học zazen, tức phương pháp ngồi thiền.
Tôi rất thích lối thực tập zazen này và công phu rất chuyên
cần.
Dần dà, tôi muốn mang phương pháp ngồi thiền ấy
vào trong đời sống hằng ngày của mình. Từ đó tôi xuất gia và
trở thành một tu sĩ, mỗi lúc tôi càng bước sâu hơn vào con
đường của đạo Phật.
- Thế thì còn ông bắt đầu thực tập pháp môn
Vipassana như thế nào?
Sau bảy năm tập thiền theo truyền thống Zen ở
Hoa kỳ, tôi lại tiếp tục sang tu tập trong một thiền viện ở
Nhật bản. Trong thời gian ở đây, tôi phải ra khỏi nước để
xin lại hộ chiếu mới. Và tôi sang Thái lan.
Trong khi chờ đợi được cấp hộ chiếu mới, tôi đi
đến một thiền viện ở ngoại ô Bangkok. Tôi tò mò muốn biết ở
đây người ta hành thiền theo truyền thống Nguyên Thuỷ như
thế nào. Tôi thực tập theo lời hướng dẫn của vị sư cả, và
lúc đó lại ngay vào một khóa tu thiền tập Vipassana tích cực.
Vì lúc ấy hộ chiếu của tôi cũng phải mất ít nhất
mười tuần mới xong, nên khóa tu im lặng Vipassana đầu tiên
của tôi cũng kéo dài hết mười tuần.
Trong khóa tu ấy tôi có được một định lực rất
mạnh, nó giúp tôi tiếp xúc được với cái mà tôi chỉ có thể
diễn tả là những yếu tố cốt lõi của tâm mình, và nó thúc đẩy
tôi muốn tiếp tục đi sâu hơn. Một năm sau, tôi trở lại Thái
lan và Miến điện, và tôi tinh chuyên tu tập theo truyền
thống Vipassana thêm trong vòng một năm rưỡi.
- Sau nhiều năm thực tập theo truyền thống Zen,
khi đổi sang Vipassana ông nhận thấy như thế nào?
Bản chất của Vipassana là chính niệm, hay
là sự thực tập có mặt và ý thức rõ ràng với những gì đang
xảy ra trong giờ phút hiện tại. Thật ra chính niệm cũng
là một phương thức mà ta có thể thực tập trong nhiều truyền
thống khác nhau. Và trong khuôn khổ giáo lý của Vipassana mà
tôi tiếp xúc ở Á châu thì đây là một pháp môn có mục tiêu rõ
rệt.
Ngài U Pandita, vị thầy Miến điện của tôi, rất
cứng rắn và cương quyết trong vấn đề đi đến Niết bàn, đạt
được những tuệ giác và các quả vị tu chứng. Nếu như tôi là
một thiền sinh mới, tôi chắc chắc là mình không thể nào sống
sót được trong môi trường ấy đâu! Có lẽ tôi sẽ bị mắc kẹt
trong những hoài bão và sự tự phê phán của mình.
Nhưng nhờ năm tháng tu tập theo truyền thống
Zen, tôi đã thực tập hoàn toàn chấp nhận những gì có mặt
trong giây phút hiện tại. Tôi thích ứng rất mau và không dễ
bị nản lòng. Trong khi vẫn cố gắng hết sức mình để theo sát
lời hướng dẫn thực tập Vipassana, ngay khi ấy tôi vẫn thấy
rằng, sự thực tập shikantaza, chỉ quản đả toạ, chỉ
cần ngồi an nhiên thôi, cũng đã giúp ích cho tôi rất
nhiều.
- Thực tập theo hai truyền thống khác nhau như
vậy có mang lại một sự xung đột nào cho ông không?
Lúc đầu tôi cũng hơi vất vả khi cố gắng phối hợp
giữa một truyền thống Zen, chủ trương rằng tu chứng nhất như,
thực hành với chứng ngộ là một, với lại truyền thống của
Nguyên thuỷ, chủ trương rằng ta phải cố gắng tu tập bây giờ
để đạt được sự chứng ngộ về sau.
Nhưng sau cùng, tôi khám phá ra rằng hai phương
pháp này không những chúng hỗ tương cho nhau, mà còn được
xem như là hai mặt của cùng một đồng tiền. Thiền Tào Động
dạy cho tôi chú ý đến bản chất thanh tịnh của mỗi giây
phút hiện tại trong tiến trình ngồi thiền. Thiền
Vipassana dạy cho tôi rằng, tiến trình ấy sẽ mang đến cho ta
một sự tự do rộng lớn, mặc dù ta không hề xem đó làm
một mục tiêu.
Trong khi thực tập Vipassana tôi ý thức rằng,
thái độ chấp nhận chính mình và những gì xảy ra trong giây
phút hiện tại, mà tôi học từ Zen, tự nó cũng là một tác ý
cho sự giải thoát. Hiểu vậy, tôi thấy mình không cần phải
đặt một mục tiêu để cố gắng buông bỏ những chướng ngại cho
tác ý tự nhiên ấy.
Và một trong những khó khăn tôi gặp phải trong
thiền Zen là một thái độ tự mãn nguyện – một sự chấp nhận
hơi dễ dãi và thoải mái. Thái độ ấy khiến tôi thiếu một sự
thúc đẩy để cố gắng nhìn sâu hơn, để thấy rằng mình cũng vẫn
còn nắm bắt và chống đối thực tại một cách rất vi tế. Và
thiền Vipassana, nhờ nhấn mạnh vào việc nhìn rõ những gì
đang xảy ra trong giờ phút hiện tại, giúp tôi thoát ra
khỏi trạng thái tự mãn ấy.
- Ông có mang những yếu tố của Zen vào phương
pháp dạy Vipassana của mình không?
Trong truyền thống Zen, tôi nhấn mạnh rằng mỗi
giây phút ta thực tập chính niệm là mỗi giây phút toàn vẹn,
tự chính nó là đầy đủ và hạnh phúc. Tôi khuyến khích các
thiền sinh nên nhìn sâu hơn để nhận diện những gì
đang ngăn chận không cho ta kinh nghiệm được điều ấy.
Tôi dạy họ rằng, cái cứu cánh phải được biểu
hiện ngay trong cái phương tiện, tức sự thực tập của mình.
Nếu mục tiêu của ta là muốn được an lạc, thì sự thực tập của
ta cũng phải có biểu hiện một chút an lạc nào đó. Muốn có
tâm từ, hãy thực tập tâm từ. Nếu muốn trở nên rộng lượng,
hãy thực tập rộng lượng. Nếu muốn có tự do, thì đừng để
những hình thức thực tập hay sự chứng ngộ trở thành những
đối tượng nắm bắt.
- Có những yếu tố nào trong truyền thống
Vipassana mà ông cảm thấy xung đột với mình không?
Tôi hơi có chút vấn đề với giáo pháp về Tam
Pháp Ấn trong truyền thống Nguyên thuỷ: vô thường, khổ
và vô ngã. Khi tu tập ở Thái lan và Miến điện, tôi hơi khó
chịu về việc giáo pháp ấy được dùng như những giáo điều nền
tảng trong hầu hết tất cả các bài pháp thoại.
Tôi hơi khó chịu khi cứ phải nghe đi nghe lại
mãi về ba đặc tính này của sự sống vô thường, khổ và vô ngã.
Tôi có cảm tưởng rằng chúng chỉ là những giáo điều hay quan
điểm mà người ta chấp nhận, không phải vì họ có tuệ giác về
chúng, mà là vì họ đã được dạy đi dạy lại như thế! Tôi không
tin vào việc ta nên chấp nhận một giáo điều nào mà không
phải bằng tuệ giác của chính mình.
- Có phải ý ông nói là chấp nhận một quan điểm
nào đó mà mình không hiểu thấu hết?
Ý tôi nói tuệ giác không phải là một quan điểm.
Vì tôi xuất thân từ truyền thống Zen nên tôi có một sự ngờ
vực về các quan điểm. Trong truyền thống Zen chúng tôi phá
đổ hết bất cứ một quan điểm nào ta áp đặt lên trên những
kinh nghiệm của mình.
- Ông có vấn đề gì với giáo pháp về Tam pháp ấn
này?
Tôi đã không thể nào hoàn toàn hiểu hết được. Lẽ
dĩ nhiên, nếu chúng ta nhìn rõ ta sẽ thấy mọi vật đều vô
thường. Những ngọn núi là vô thường, điều đó tôi chấp nhận
được. Nhưng nếu bảo rằng những ngọn núi phải chịu khổ đau
thì tôi thấy hơi khó hiểu. Và cho rằng những ngọn núi "không
có một cái ngã" cũng không có nghĩa lý gì nhiều lắm đối với
tôi.
Giáo pháp về tất cả đều vô thường, nếu ta phân
tách và giải thích ra thì nó rất là dễ hiểu, nhưng tôi thấy
dầu sao đó vẫn chỉ là một quan niệm suông, mà không có một
chứng nghiệm cá nhân nào sâu sắc hết.
Cuối cùng, tôi quyết định rằng mình chỉ có thể
hiểu ba đặc tính ấy như là một sự diễn tả về tự tính
của những kinh nghiệm của ta về thế giới chung quanh. Có rất
nhiều vấn đề trong việc ta cho rằng mình biết thực tại thật
sự là gì, và phải như thế nào. Tôi không nhìn thấy đạo Phật
như là một hình thái mới của khoa Vật lý. Mà tôi thấy chính
niệm phơi bày cho tôi thấy được mình đã nhận thức thế giới
này như thế nào.
- Như vậy thì ba đặc tính trong Tam pháp ấn ấy
có những giá trị gì?
Khi sự thực tập Vipassana được sâu sắc, ba đặc tính ấy sẽ
trở nên rất hiển nhiên. Nhưng chúng không phải là kiến thức,
một sự hiểu biết mà ta áp đặt vào, chúng trở thành một kinh
nghiệm rất rõ rệt và nổi bật. Nó rất là trực tiếp và ngay
trước mắt ta. Và tuệ giác này sẽ có năng lực giúp tâm ta
bớt đi những dính mắc. Khi ta kinh nghiệm được rằng,
không có gì là lâu bền và cố định để nắm bắt, tâm ta sẽ dần
dà không còn bị dính mắc nữa.
- Ông có thể nói thêm về vấn đề quan điểm với
lại tuệ giác không?
Trong thời gian còn ở đại học, tôi thấy mình có
khuynh hướng bám chặt vào những kiến thức và quan điểm, mà
không hề mang chúng ra thử lại với những kinh nghiệm hoặc
các chứng cớ khác.
Ở đại học UC Davis tôi theo khoa Nông học, một
ngành chuyên môn về sự chăm sóc và quản lý cách trồng trọt
và mùa màng. Là một người có chủ trương bảo vệ môi sinh rất
mạnh, tôi có những quan điểm rất cứng rắn về vấn đề trồng
trọt hữu cơ (organic farming) với lại lối trồng trọt theo
cách bình thường.
Nhưng khi tôi có dịp học hỏi thêm về những môn
khoa học của đất đai, mùa màng, và phân bón, tôi thấy rằng
những quan điểm của tôi quá khái quát và sơ sài. Và có nhiều
điều lại hoàn toàn rất là sai lầm. Vậy mà tôi đã bám chặt
vào chúng như là một chân lý vậy.
Kinh nghiệm này đã giúp tôi trở nên thật sự biết
khiêm tốn hơn. Vì vậy, khi bước chân vào học Phật, tôi cũng
rất để ý và không muốn mình lại bị sa vào cái bẫy ấy. Tôi
cũng thấy rằng, trong đạo người ta rất dễ có khuynh hướng
đem suy diễn một cách tổng quát, và không chịu nhìn sâu sắc.
Và tôi không muốn mình bị vướng vào lỗi lầm đó một lần nữa.
- Và ông làm thế nào để tránh được việc ấy?
Theo tôi thì học hỏi sâu sắc thêm về giáo lý và
kinh điển có thể giúp mở rộng thêm phần tri thức của ta rất
nhiều. Nó giúp tôi thấy được mình đang nắm giữ những quan
điểm nào, tôi có những sự suy diễn nào về giáo lý, và bên
dưới chúng là những giả định gì.
Tôi dựa trên thẩm quyền nào để cho rằng một điều
nào đó là sự thật? Những câu hỏi ấy xuất phát từ truyền
thống Zen của tôi, trong đó ta không được bị mắc kẹt vào
bất cứ một quan điểm nào.
Khi hướng dẫn các thiền sinh, tôi cố gắng nhìn
sâu xem họ đang nắm bắt vào một quan điểm nào. Quan điểm ấy
có thích hợp không? Và có phải đây là lúc để tôi có thể
giúp họ thoát ra khỏi quan điểm ấy không?
- Nhưng đôi khi ông cũng có một lối dạy có vẻ
hơi dễ dãi quá. Như là khi tóm tắt giáo lý về Tứ Diệu Đế,
ông viết "Sự có mặt của hạnh phúc, và nguyên nhân của hạnh
phúc." Tại sao lại có công thức mới đó? Nó có yếu ớt quá
chăng?
Công thức đó chắc chắn không phải là một định
nghĩa dứt khoát của Tứ Diệu Đế. Nhưng kinh nghiệm của tôi
thì đôi khi trong đạo Phật người ta hơi quá nghiêm trọng
trong vấn đề tu tập. Đôi khi lại còn là hơi khắc khổ nữa. Họ
cứ chú trọng tìm kiếm những dính mắc, những nắm bắt của mình
và tìm mọi cách buông bỏ. Và sự tu tập của họ vì vậy mà cũng
trở nên quá nặng nề.
Nếu ta có thể nhớ rằng hạnh phúc và an lạc cũng
là một phần của sự tu tập, ta sẽ không bị sa vào chiếc bẫy
ấy. Và sự tu tập của mình nhờ vậy cũng sẽ được dễ dàng hơn.
- Trong thời đại ngày nay, mọi người từ các giám
đốc doanh nghiệp cho đến những nhân vật chơi thể thao, nhận
thấy thực tập chính niệm – hay thiền quán – mang lại cho họ
nhiều lợi ích. Và thường thì chữ đạo Phật lại hoàn toàn bị
loại bỏ ra ngoài sự thực tập ấy. Ông thấy điều ấy có một sự
nguy hại nào không? Ví dụ, có gì ngăn chặn một vị giám đốc
một doanh nghiệp, CEO, thực tập chính niệm như là một phương
tiện giúp gia tăng lợi nhuận cho mình, thay vì một mục tiêu
đạo đức hay từ bi nào khác?
Thật ra tôi cũng không chắc phải trả lời câu ấy
như thế nào, nhưng ta hãy nhìn nó dưới khía cạnh này: đối
với tôi thì thiền Vipassana và thực tập chính niệm là một
pháp môn rất mạnh mẽ và hiệu quả. Tôi rất vui khi thấy chúng
đã giúp ích cho mọi người tùy theo nhu cầu của họ. Có rất
nhiều người không quan tâm đến đạo Phật và họ cũng không đi
theo con đường Bát Chính Đạo. Tôi cũng không có ý muốn cải
đổi họ.
Điều mà tôi muốn làm đây là mang sự thực tập của
đạo Phật đến với tất cả mọi người, mọi tầng lớp và giới
thiệu sự ích lợi của nó có thể áp dụng cho mọi giới khác
nhau.
Tôi thực tập theo tinh thần bồ tát trong truyền
thống Zen: nguyện làm vơi bớt khổ đau của tất cả mọi
người. Tôi không bao giờ từ chối bất cứ một ai đến với
trung tâm của chúng tôi và muốn tiếp nhận những gì tôi có
thể giúp được, như là: thiền tập, Phật pháp, một nơi ngồi
thiền và một cộng đồng thực tập chung với nhau.
Có người dành hết cả cuộc đời mình cho sự thực
tập Phật pháp. Có người tham dự những khóa thiều nhiều ngày,
nhiều tháng, và họ còn đi sang Á châu để xuất gia trở thành
tu sĩ. Một bên thì trung tâm của chúng tôi luôn chú tâm và
hỗ trợ cho những người này. Và một bên kia là cố gắng giúp
đở cho những người trong các tầng lớp khác của xã hội.
Họ là những người có những cuộc sống căng thẳng,
có những khó khăn đối phó với cuộc sống, và rồi họ tình cờ
có dịp tìm đến trung tâm của chúng tôi. Và tôi rất hoan hỷ
vì đã trao cho họ những phương thức thực tập mà có thể giúp
ích được cho họ.
Họ không nhất thiết phải trở thành những Phật tử.
Nếu như họ chỉ muốn sống hạnh phúc hơn, tôi sẽ cố gắng giúp
họ. Tôi cố gắng gặp họ trong hoàn cảnh của chính họ.
Người ta có thể than phiền về một thứ "Đạo Phật
nhẹ nhàng" (Buddhism lite), nhưng tôi có niềm tin vào sự
thực tập. Tôi có rất nhiều niềm tin vào trái tim của người
khác. Tôi tin rằng trong chúng ta bao giờ cũng có một xung
lực cố hữu, lúc nào cũng muốn đẩy ta đến giải thoát và một
tình thương lớn.
Và khi ta giúp người khác một cách chân chính,
những tính thiện ấy tự chúng sẽ biểu hiện ra. Tôi không cần
bắt họ phải quy y hoặc khuyến khích họ đi theo một chiều
hướng nào đó. Cách hay nhất là ta gặp họ ngay trong chính
hoàn cảnh của họ.
Nếu sự thực tập của họ quá vị kỷ, không chóng
thì chày họ cũng sẽ bỏ cuộc hoặc nhận thấy được những giới
hạn của sự vị kỷ ấy. Đến một lúc nào đó, ta không thể nào
chỉ thực tập riêng cho chính mình được. Động cơ thúc đẩy
chúng ta trên con đường tu tập, một phần cũng là vì tình
thương đối với kẻ khác nữa.
- Ông thấy có vấn đề gì khi ta bắt đầu tu tập
bằng ngồi thiền, như là Vipassana, thay vì là với những thực
tập cơ bản như là học giáo lý, tụng kinh, tập nghi lễ trước
hết hay chăng?
Không có gì là sai trật với việc chúng ta bắt
đầu sự tu tập bằng thực tập ngồi thiền. Nhưng ta sẽ khó giữ
cho sự thực tập ấy được lâu bền nếu ta không có được những
sự hỗ trợ khác.
Theo truyền thống thì sự thực tập Vipassana
phải có sự ủng hộ và bảo vệ của giới luật, cộng đồng, nghi
lễ, và những sự thực tập khác như là quán tâm từ, thiền định.
Người ta cũng thường tổ chức những ngày hội vui hoặc nghi
thức hành lễ, mà mục đích là để mang cộng đồng tu học lại
với nhau, để thiết lập một môi trường nương tựa lẫn nhau.
Và nó cũng nhắc nhở rằng, ta không phải thực tập cho riêng
chính mình, mà còn là cho những người chung quanh nữa.
Tôi thấy phong trào Vipassana ở Hoa kỳ có một
khuyết điểm là nó chưa có được một tăng thân vững mạnh đủ,
và vì vậy mà có một số hành giả trở nên quá vị kỷ trong sự
thực tập của mình. Thực tập nương tựa vào cộng đồng, vào
tăng thân, và theo truyền thống, có thể giúp ta sửa đổi được
khiếm khuyết này.
- Ông có thể cho một ví dụ về một sự đổi mới nào
trong đường lối tu tập đạo Phật ở Hoa kỳ, và ông nghĩ nó có
giúp ích gì không?
Một ví dụ là phong trào Vipassana ở Hoa kỳ ngày
nay thường hay nhấn mạnh về sự "tương quan kết nối"
(interconnected) trong giáo lý về vô ngã, anatta. Ý niệm
này thường được nhấn mạnh nhiều đến nỗi người ta có thể hiểu
lầm rằng, giác ngộ được lý tương-quan-kết-nối này là mục
tiêu rốt ráo của đạo Phật.
Sự thật không phải vậy! Thật ra thì đó chỉ là
một sự nhấn mạnh riêng cho người Hoa kỳ. Theo tôi nghĩ, ý
thức về sự nối-liền này được đưa ra như là một liều thuốc
giải độc cho chủ nghĩa cá nhân (individualism) của chúng ta,
và giúp chữa trị những khổ đau do sự chia cắt ấy gây nên.
Đối với những người Phật tử ở Á châu, đặc biệt
là ở Ấn độ và Đông Nam Á, những giáo lý này rất xa lạ đối
với họ. Và có lẽ nó cũng không mang lại một ích lợi gì nhiều,
vì ở Á châu họ không có chủ nghĩa cá nhân.
Trong kinh điển Pali, sự tương quan liên kết
(interconnectedness) không được xem như là một giá trị tuyệt
đối. Sự giải thoát của ta không hề tùy thuộc vào một thế
giới nối-liền nhau.
Ở chỗ này, hiểu được truyền thống và thế giới
quan của Á châu, giúp ta thấy rõ được sự khác biệt trong sự
truyền dạy ở Tây phương. Và khi nhận thấy được sự khác biệt
ấy rồi, chúng ta có thể tự hỏi tại sao lại có sự khác biệt
ấy. Chúng ta nhấn mạnh lý tương quan với ý nghĩa gì đây?
Tại sao nó lại quan trọng đến như vậy? Chúng ta cũng có thể
hỏi rằng, sự nhấn mạnh này của chúng ta có đúng với nền tảng
giáo lý phật pháp hay không?
Mỗi người sẽ có một câu trả lời khác nhau. Có
người cho rằng sự quan trọng hóa lý tương quan là một sự sai
lạc của giáo pháp, dharma; người khác cho rằng nó là một sự
cải tiến của giáo pháp. Có một quan điểm cho rằng, đó là
một sự truyền đạt chính xác của đạo Phật áp dụng rất thích
hợp cho văn hóa Tây phương. Hoặc là nó làm sáng tỏ thêm
những khía cạnh trong Phật pháp mà vô tình đã bị chìm khuất
ở Á châu.
Tôi không quan tâm đến vấn đề ta nên đồng ý theo
quan điểm nào, có lẽ mỗi quan điểm đều có phần đúng. Tôi
chỉ muốn hiểu cho sâu sắc truyền thống Phật giáo ở Á châu,
để ta đừng tự đánh lừa mình, cho rằng những gì ta đang giảng
dạy và tu tập ở đây là cách Phật giáo đã và đang được hành
trì từ xưa đến nay.
Nếu như ta chấp nhận một cái ngã tương quan liên
kết này (interconnected self), thì có phải chăng cái ngã
tương quan ấy cũng vẫn cần được xem xét lại như cái ngã cá
nhân (individual self) chăng?
Tôi hy vọng là như vậy! Cho rằng cái ngã ấy là
một với tất cả vạn hữu hay là "cái ngã không độc lập" thì nó
vẫn là một ý niệm về cái ngã. Người ta rất dễ chấp vào một
kinh nghiệp sâu sắc nào đó như là mục tiêu của sự tu tập,
hoặc liên kết kinh nghiệm ấy với lại một ý niệm về cái Tôi.
Nhận diện được sự liên kết mật thiết giữa mọi sự
sống là một cảm nhận rất mãnh liệt. Nhưng nếu ta cho đó là
cứu cánh là ta đã tự dối lừa mình, vì sự giải thoát phải
vượt ra hết mọi những kinh nghiệm nào còn điều kiện. Chứng
nghiệm được sự tương quan giữa mọi vật là một kinh nghiệm
rất kỳ diệu, nhưng dầu sao thì nó vẫn còn bị điều kiện.
Một lời dạy trong đạo Phật là bất cứ một quan
điểm nào mà ta có về tự tính của cái ngã, cho dù là cái ngã
độc lập hay tương quan, thì vẫn chỉ là một ý niệm mà thôi,
chưa phải là sự giải thoát rốt ráo.
Vì vậy mà tôi thường hay nhấn mạnh về sự thực
tập chính niệm, một cái nhìn thẳm thấu không biện luận, thay
vì là những suy tư và phân tách. Ta phải thực tập một
chính niệm không suy diễn, bằng một kinh nghiệm trực
tiếp.
- Ông có lạc quan về tương lai của Phật giáo ở
Hoa kỳ chăng?
Có chứ! Tôi rất lạc quan khi tôi nghĩ đến những
cộng đồng tu học đang mỗi lúc một bành trướng. Tôi cũng rất
phấn khởi khi thấy những hành giả từ nhiều truyền thống khác
nhau có thể trao đổi và học hỏi lẫn nhau. Và dù vậy, tuy
chúng ta học hỏi lẫn nhau, nhưng tôi hy vọng rằng chúng ta
cũng sẽ giữ cho các truyền thống vẫn được riêng biệt.
Tôi là vị thầy của hai truyền thống Zen và
Vipassana, và tôi nghĩ điều quan trọng là chúng ta đừng bao
giờ pha trộn hai truyền thống lại và làm thành một.
Mỗi cái có một nét đơn nhất và cá biệt. Chúng bắt nguồn từ
những thế giới quan khác nhau.
Mỗi truyền thống có những tuệ giác và đường lối
khác nhau về giáo pháp. Tôi mong muốn những truyền thống
cùng có mặt hoà hài với nhau, trở thành những tấm gương soi
lẫn nhau, để giúp ta đi sâu hơn vào truyền thống của chính
mình.
- Nhưng ông là một ví dụ rất cụ thể của một
người Tây phương được tiếp xúc và hành trì nhiều hơn là một
truyền thống của đạo Phật. Và có thể nào ta tránh được khỏi
vấn đề chúng ảnh hưởng và nhồi nắn lẫn nhau chăng?
Tôi rất hoan hỷ với sự ảnh hưởng bỡi hai truyền
thống của mình. Nhưng tôi không hề muốn những truyền thống
hoà nhập chung lại với nhau thành một hình thức hỗn hợp,
không rõ ràng.
Là một vị thầy của hai truyền thống, tôi bao giờ
cũng rất cẩn thận về việc duy trì sự khác biệt ấy. Đối với
người chỉ theo một truyền thống thì họ có thể dễ dàng áp
dụng và vay mượn từ những truyền thống khác mà không có gì
lo ngại hết. Nhưng tôi thì phải quan tâm, vì tôi không muốn
biến Vipassana thành một hình thái mới của Zen, cũng như
biến Zen thành một hình thái mới của Vipassana.
Chúng có những sự khác biệt và tôi tôn trọng sự
khác biệt ấy. Và tôi cũng rất biết ơn là nhờ ở cả hai
truyền thống mà tôi thấy mình được trở nên giàu có hơn.
Nguyễn Duy Nhiên
phỏng dịch
(Hoằng Pháp)
10-31-2008 07:23:55