MANG NGHIỆP ĐI VỀ
Thích Thái Hòa
---o0o---
Thân ta tuy ở Ta bà mà niềm tin, hạnh và nguyện
của ta đã thực sự có mặt ở Tịnh độ. Niềm tin, hạnh và nguyện
của ta đã và đang mang nghiệp của ta đi vào Tịnh độ, đang và
sẽ tạo thành thế giới Tịnh độ cho ta trong hiện tiền và
trong cả tương lai.
Các kinh điển thuộc văn hệ A-hàm và Nikàya là
những kinh điển được các Thánh đệ tử kết tập bằng trùng tụng
và bằng văn bản sớm nhất, sau khi đức Phật Niết-bàn so với
các kinh điển thuộc văn hệ Phương đẳng, Bát nhã, Hoa nghiêm,
Pháp hoa và Niết-bàn. Ở trong các kinh điển thuộc văn hệ
Ahàm và Nikàya ấy, ta có giáo lý nói về Tứ Thánh hướng và Tứ
Thánh quả của các hàng đệ tử đức Phật chứng ngộ.
Trong giáo lý ấy nói rằng, Thánh quả A-la-hán là
Thánh quả giải thoát cao nhất. Khi một vị tu tập Tứ Thánh đế
hiện quán một cách sâu sắc, vị ấy có khả năng chiến thắng và
diệt trừ sạch hết thảy các phiền não, vượt ra khỏi khổ đau
sinh tử, chứng nghiệm đời sống Niết-bàn ngay trong từng giây
phút hiện tại của sự sống; họ đã đặt gánh nặng sinh tử xuống
ở phía sau lưng, họ có hạnh phúc và an lạc ngay trong đời
sống hiện tại và tự tuyên bố:
“Sự tái sinh đã diệt tận,
Sự thanh tịnh đã hình thành,
Điều đáng làm đã làm xong,
Vĩnh viễn không còn sinh tử”
Ngay trong đời sống hiện tại, vị ấy thành tựu
Chánh hạnh, Tịnh hạnh, Chân hạnh, đã đi đến đời sống của
Chánh trí và Chánh giải thoát, nên Thánh giả A-la-hán là
xứng đáng được cung kính, đảnh lễ và cúng dường bởi thế giới
của chư thiên và loài người.
Vị chứng Thánh quả Bất lai hay còn gọi là
A-na-hàm, họ thành tựu Thánh quả này là do tu tập Tứ Thánh
đế hiện quán, vĩnh viễn đoạn trừ Thân kiến thủ, nghĩa là
vĩnh viễn đoạn trừ những vướng mắc sai lầm đối với những
nhận thức về sự hiện hữu hay không hiện hữu đối với tự ngã;
vĩnh viễn đoạn trừ những nghi ngờ đối với Phật, Pháp và
Tăng; vĩnh viễn đoạn trừ giới cấm thủ, nghĩa là vĩnh viễn
không còn có tâm mê tín, tin và tuân thủ vào những giáo điều
và tín điều sai lạc, cũng như những tín ngưỡng sai lầm; vĩnh
viễn đoạn trừ tham dục và sân hận thuộc Dục giới, họ hoàn
toàn thoát ly sự sống chết ở nơi cõi tham dục, đi từng bước
vững chãi về hướng của A-la-hán và sẽ thoát ly sinh tử.
Vị chứng Thánh quả Nhất lai hay còn gọi là
Tư-đà-hàm, là do tu tập Tứ Thánh đế hiện quán, vĩnh viễn
đoạn trừ Thân kiến thủ, Nghi, Giới cấm thủ, giảm trừ tham
dục và sân hận, phải còn trải qua một lần sống chết ở trong
thế giới tham dục và sẽ từng bước vững chãi đi về hướng
Thánh quả A-nahàm và hướng tới đời sống giải thoát, giác
ngộ.
Vị chứng Thánh quả Thất lai hay còn gọi là
Tu-đà-hoàn là do tu tập Tứ Thánh đế hiện quán, vĩnh viễn
đoạn trừ Thân kiến thủ, Nghi và Giới cấm thủ, tuy họ dự vào
được dòng dõi của bậc Thánh, hoàn toàn không đọa vào thế
giới của địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh, nhưng còn phải trải
qua bảy lần sống chết ở trong thế giới của tham dục nữa để
tu tập và thực nghiệm giáo lý Tứ Thánh đế, từng bước vững
chãi đoạn trừ các lậu hoặc, hướng đến các thánh quả giải
thoát cao hơn.
Như vậy, ta thấy Tứ Thánh quả mà kinh điển A-hàm
và Nikàya đề cập, trong đó chỉ có Thánh quả A-la-hán là hoàn
toàn dứt sạch các phiền não, còn từ Thánh quả A-na-hàm trở
xuống thì các phiền não vẫn còn. Điều ấy cho chúng ta biết
rằng, ta có thể mang phiền não hay nghiệp mà đi vào cõi
Thánh và ngay nơi cõi Thánh, ta tiếp tục tu tập để chuyển
hóa và thăng tiến để đạt tới đời sống giải thoát hoàn toàn.
Và tinh thần của giáo lý này lại rất gần gũi và tương ưng
với giáo lý “Đới nghiệp vãng sinh” của Tịnh độ.
Trong Tịnh độ, ta có giáo lý “Đới nghiệp vãng
sinh”, nghĩa là người đã vãng sanh về cõi Tịnh độ mà còn
mang nghiệp đi theo. Đây là giáo lý rất đặc biệt và rất
khoáng đạt của Tịnh độ. Giáo lý ấy đã chuyển tải chất liệu
đại bi và đại trí của Phật giáo Đại thừa. Và chính giáo lý
ấy đã khẳng định rằng, Tịnh độ là quê hương của tất cả mọi
người, và là giáo lý đáp ứng nhu cầu tu tập cũng như sống
đời giải thoát cho mọi thành phần xã hội.
Sự tu tập Tịnh độ của ta hằng ngày chưa đủ năng
lực để chuyển hóa những tạp niệm, hoặc chưa đủ năng lực để
chuyển hóa những tập khí phiền não lâu đời của ta thành chất
liệu Tịnh độ ở trong tâm ta; chỉ đến khi lâm chung do đức
tin Tịnh độ của ta phát khởi một cách mãnh liệt và dẫn đạo
tương ứng với tâm, nguyện và cảnh Tịnh độ của đức Phật
A-di-đà, nên ngay trong giây phút ấy, dù ta đang còn nghiệp,
nhưng vẫn có thể tái sinh lên cảnh giới Tịnh độ của Ngài một
cách dễ dàng.
Nhưng, khi ta sinh về đó, môi trường sinh hoạt
không còn có điều kiện nào để cho những tập khí cũ hay
nghiệp cũ của ta phát sinh, nên chúng từ từ bị hủy diệt và
vô thời hiệu. Cũng giống như một người ghiền thuốc lá, họ
đem cái chất liệu ghiền thuốc lá của họ đi đến một xứ sở
khác, mà ở xứ đó không có một người nào hút thuốc lá, không
có ai bán thuốc lá, không có nguyên liệu và nhà máy chế tạo
thuốc lá và cũng chẳng có ai nhắc nhở gì đến thuốc lá cả,
thì cho dù người kia mang nghiệp ghiền thuốc lá đến xứ kia,
nghiệp ấy vẫn không có điều kiện để biểu hiện, và lâu ngày
nghiệp ghiền thuốc lá của người ấy mất hẳn thời hiệu và tự
tiêu.
Nên, để đi về thế giới Tịnh độ của đức Phật
A-di-đà thực tế có rất nhiều cách, ta có thể đi về Tịnh độ
bằng chính tự tâm thanh tịnh ở nơi ta, hay bằng sự thực tập
quán chiếu A-di-đà là bản thể không sinh diệt ở nơi linh
tính của ta, và ta cũng có thể quán chiếu để nhận ra tự tính
A-di-đà nơi bản tâm ta có vô lượng ánh sáng, có vô biên ánh
sáng, có ánh sáng vô ngại, có ánh sáng mà không có bất cứ
một loại ánh sáng nào có thể đối lập, ánh sáng ấy là vua của
hết thảy các loại ánh sáng, có ánh sáng thanh tịnh, có ánh
sáng hoan hỷ, có ánh sáng trí tuệ, có ánh sáng không thể
nghĩ bàn, có ánh sáng liên tục, có ánh sáng tuyệt vời không
thể ca ngợi hết, có ánh sáng siêu việt cả ánh sáng mặt trời
và mặt trăng,…
Tự tính ấy không bị lệ thuộc bởi bất cứ không
gian và thời gian nào, tự tính ấy không bị hạn chế bởi không
gian và không bị hủy diệt bởi bất cứ thời gian nào, nên ta
có thể về Tịnh độ trong từng giây phút của sự quán chiếu tự
tính A-di-đà nơi bản tâm ta; hoặc ta đi về Tịnh độ bằng sự
nhất tâm chấp trì danh hiệu của Ngài, nhưng dù ta có đi về
bằng cách nào đi nữa, thì trước hết ta phải có đức tin Tịnh
độ, ta tin rằng tâm ta là Tịnh độ, tâm ta có Phật tính và có
khả năng tạo thành thế giới Tịnh độ của chư Phật.
Ta cũng tin rằng, ngoài đức Phật Thích-ca còn có
vô số đức Phật quá khứ, có vô số đức Phật trong hiện tại và
ta sẽ có vô số đức Phật thị hiện ở trong tương lai nữa; và
ta không phải chỉ có một cõi Ta bà mà ta có rất nhiều cõi Ta
bà đã có mặt trong quá khứ, đang có mặt trong hiện tại và sẽ
tiếp tục có mặt trong tương lai nữa.
Không những vậy, mà ta còn tin rằng có vô số thế
giới Tịnh độ của chư Phật quá khứ, chư Phật hiện tại và chư
Phật trong tương lai ở khắp mười phương. Và ta cũng tin
rằng, A-di-đà là tự tính vốn sẵn ở tự tâm của mỗi chúng ta,
ta có thể tiếp xúc với tính ấy mỗi ngày và mỗi ngày làm cho
tự tính ấy hiển lộ trong đời sống của chúng ta.
Mỗi thế giới Tịnh độ đều có mỗi nét đặc thù, do
công hạnh tu tập cũng như bản nguyện của các Ngài và những
người cùng hạnh nguyện tạo nên.
Và cũng vậy, thế giới Ta bà được hình thành
không do bản nguyện mà do cộng đồng nghiệp lực ô nhiễm của
những chúng sinh có nhân duyên với cõi này tạo thành.
Ta sinh ra trong cõi Ta bà, nhằm thời đại kiếp
trược, nghĩa là thời đại mà sự hủy diệt càng lúc càng tăng,
đời sống dơ bẩn càng lúc càng nặng nề, con người càng lúc
càng sa đọa vào đời sống vật chất, sự thanh cao giảm thiểu,
mạng sống ngắn lại.
Những nhận thức của ta thì lại quá thô thiển,
cạn cợt và nhiều sai lầm; thời đại sa đọa, chúng dẫn ta đi
theo những sự sa đọa về nhận thức và tâm hồn. Tâm hồn của ta
đầy dẫy những tham dục, những hận thù, những si mê cố chấp,
những kiêu mạn và nghi ngờ, khiến cho ta không còn thanh cao
trong sự đối xử với nhau và đời sống của ta lại được nuôi
dưỡng bằng chính những xảo trá và lừa đảo, chính những chất
liệu ấy đã tạo nên thế giới của ta và chính ác nghiệp của ta
đã tạo ra thế giới ấy. Cái gì được tạo nên bởi nghiệp, cái
ấy hoàn toàn không có tự do.
Nên, ta muốn có tự do ở trong cõi Ta bà thì
trước hết ta phải tu tập để chuyển hóa nghiệp lực thành
nguyện lực. Ta phải chuyển hóa những hạt giống Ta bà ở trong
tâm thức ta thành hạt giống Tịnh độ. Ta phải tịnh hóa những
ước muốn của ta thành những bản nguyện Tịnh độ.
Ta phải tịnh hóa mọi hoạt động của ta thành
những hoạt động Tịnh độ và quan trọng hơn hết là ta phải
biết chuyển hóa tâm thức ta thành linh tâm Tịnh độ.
Một khi chúng ta đã chuyển hóa, tịnh hóa được
những điều đó thì Tịnh độ Tây phương của đức Phật A-di-đà,
dù xa cách thế giới Ta bà của chúng ta trải qua khoảng mười
vạn ức cõi Phật, cũng đều có mặt trong đôi mắt và tâm hồn
của ta.
Thế giới Tịnh độ là thế giới của nguyện lực, nên
ta muốn sinh về thế giới Tịnh độ của đức Phật A-di-đà, ta
không phải chỉ có đức tin, mà còn phải có nguyện lực và còn
phải có sự thực tập đời sống Tịnh độ một cách cụ thể để bảo
chứng cho niềm tin và nguyện lực của chúng ta.
Ta thực tập đời sống Tịnh độ với niềm tin, với
hạnh và nguyện như vậy, dù ta đang sống ở cõi Ta bà, nhưng
ta đã dự phần vào thế giới Tịnh độ, ta đã và sẽ có niềm tin
không thối chuyển đối với địa vị giác ngộ cao tột của chư
Phật và thế giới Tịnh độ của các Ngài.
Nên, thân ta tuy ở Ta bà mà niềm tin, hạnh và
nguyện của ta đã thực sự có mặt ở Tịnh độ. Niềm tin, hạnh và
nguyện của ta đã và đang mang nghiệp của ta đi vào Tịnh độ,
đang và sẽ tạo thành thế giới Tịnh độ cho ta trong hiện tiền
và trong cả tương lai.
Thích Thái Hòa
(Hoằng Pháp)
09-30-2008 08:34:12