ĐIỀU PHỤC CÁC CĂN
Ni sư AYYA KHEMA
Diệu Liên Lý Thu Linh (Trích dịch từ Who is Myself)
---o0o---
Để hoàn thiện bất cứ điều gì cũng đòi hỏi sự khổ
luyện. Tuy nhiên, không nên nghĩ đến việc rèn luyện như là
một điều gì áp đặt cho chúng ta từ bên ngoài. Đúng hơn, đó
là những gì chúng ta tự đặt ra cho bản thân vì ta nhận thức
rằng khi đã chiến thắng những bản năng và các bốc đồng tiêu
cực, dần dần ta sẽ chiến thắng được mọi ảo tưởng tạo nên khổ
đau cho chúng ta. Mỗi bước trong giáo lý của Đức Phật đều
được tạo dựng để giúp ta tiến gần hơn đến với mục đích. Biết
rằng bản thân không làm điều gì sai trái, chúng ta không mặc
cảm tội lỗi, không có cảm giác thiếu sót hay sa đà, do đó
tâm ta cảm thấy rất thoải mái, tự tại.
Đức Phật đã đưa ra một ẩn dụ:
Như một vị Sát-đế-ly (Khattiya) đã làm lễ quán
đảnh, đã hàng phục kẻ thù địch, không còn thấy sợ hãi từ chỗ
nào nữa về phương diện thù địch. Cũng vậy, này Potthapàda,
Tỷ-kheo ấy nhờ đầy đủ giới luật nên không thấy sợ hãi từ một
chỗ nào về phương diện hộ trì giới luật. Vị ấy nhờ đầy đủ
giới luật cao quý này, nên hưởng lạc thọ nội tâm không lỗi
lầm.
Điều này cũng được lặp lại đối với các căn
khác:
- Khi tai nghe tiếng,... khi mũi ngửi mùi,...
khi lưỡi nếm vị,... thân cảm xúc,...ý nhận thức các pháp, vị
ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng.
Rồi Đức Phật thuyết:
"Vị ấy, nhờ sự hộ trì cao quý các căn ấy, nên
hưởng lạc thọ, nội tâm không lỗi lầm. Như vậy, này
Potthapàda, Tỷ-kheo hộ trì các căn".
Nhiều khi điều này bị hiểu lầm, do đó đem ra
thực hành sai. Người ta thường hiểu là không được nhìn,
nghe, ngủi, nếm hay xúc chạm. Làm sao có thể thực hiện điều
đó. Chúng ta có đầy đủ các căn nên phải nhìn, nghe, nếm, xúc
chạm, ngửi. Tâm ta không thể không suy nghĩ, ta biết rất rõ
điều này lúc tọa thiền. Vậy mà phương pháp này vẫn thường
được dạy thực hành.
Dĩ nhiên nếu chúng ta không nhìn cái gì đó, thì
ta sẽ không bị nó chi phối. Nhưng làm sao ta có thể tránh
không nhìn, nhất là trong cuộc sống hàng ngày? Do đó cần
phải hiểu rõ đoạn kinh này nói gì, đó là điều rất quan
trọng, nhất là khi ta muốn sống đúng theo giới luật:
“(Người) không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng
riêng”. Khi mắt thấy, nó chỉ ghi nhận màu sắc và hình dáng.
Tất cả mọi thứ khác đều phát khởi nơi tâm. Thí dụ, chúng ta
thấy một miếng kẹo sô-cô-la. Mắt chỉ nhìn thấy hình dạng màu
nâu. Chính là tâm mới nói:
“À, sô-cô-la! Thứ này ngon lắm, tôi muốn ăn một
miếng!”.
Để “không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ
tướng riêng”, là bắt tâm dừng ngay lại, không làm việc
đó.
Chúng ta có thể thực hành điều này khá dễ dàng
với bất cứ thứ gì chúng ta hoặc là rất thích hoặc là rất
ghét. Hai giác quan mạnh mẽ nhất là mắt và tai, vì thế,
chúng ta cần chọn một trong hai và quán sát xem tâm phản ứng
như thế nào, ý thức về những điều nội tâm nói với chúng ta.
Mắt hay tai không thể quyết định những gì nó phải thấy hay
phải nghe. Thí dụ, tai nghe tiếng động của một chiếc xe. Tâm
nói “xe”. Rồi nó nói, “Rất ồn ào. Khó chịu quá. Hèn chi tôi
không thể hành thiền”. Tất cả những thứ này đều đến từ tâm;
nó không liên quan gì đến chính tiếng động. Tiếng động chỉ
là tiếng động. Màu sắc chỉ là màu sắc. Hình dáng chỉ là hình
dáng.
Những người nguyện giữ giới sống độc thân đôi
khi được khuyên không nên nhìn người khác phái. Nhưng làm
sao người ta có thể thực hiện điều đó? Tôi đã gặp những vị
sư thực tập điều này, nhưng nó dẫn đến những mối liên hệ khó
chịu, cứng nhắc. Làm sao ta có thể nói chuyện với người cố ý
không nhìn mình? Đó không phải là những gì mà việc kiềm chế
các căn muốn ám chỉ. Đúng hơn, khi mắt nhìn thấy hình dáng,
tâm đã nói “đàn ông”, “đàn bà” thì chúng ta dừng ngay lại ở
đó. Chúng ta không nên để tâm thêm thắt gì nữa. Tất cả những
gì có thể thêm bớt sẽ làm phát khởi tâm tham hay sân, tùy
hoàn cảnh. Phần đông chúng ta đều có khả năng thực hành điều
này, và thật sự là nếu chúng ta thực hiện được điều đó, nó
có thể làm cho cuộc sống dễ chịu hơn. Thí dụ, khi đi mua
sắm, chúng ta mang theo tờ giấy liệt kê những thứ ta thực sự
cần. Nhưng khi mắt ta nhìn thấy những dãy hàng hóa bán trong
chợ, tất cả đều được gói bao bì đẹp đẽ, tất cả đều như dành
sẵn cho ta, có cái còn đại hạ giá. Ngay lập tức, tâm trở nên
thích thú, và cuối cùng ta mua nhiều hơn là những thứ ta
cần. Đối với một số người đi mua sắm thực sự ra là đề tìm
những thứ gì quyến rũ, lôi cuốn tâm và mua chúng như là một
thứ giải trí, như là một cuộc cắm trại cuối tuần, nếu ta có
tiền.
Nếu ta dễ dàng bị lôi cuốn bởi những gì ta thấy,
thì tốt nhất là ta phải nhận ra sự tiếp xúc của các giác
quan (căn-trần) và dừng tâm lại ở tưởng, ở việc đặt tên. Rất
khó dừng lại ở giai đoạn trước đó. Thí dụ, nếu ta thấy một
người, hay ngay cả khi nghĩ tưởng đến một người mà ta ghét
hay ganh tỵ. Một ai đó mà chúng ta hoặc là không thích hay
thương yêu tha thiết, thì ta phải thực hành dừng lại ở việc
đặt tên như là: bạn, đàn ông, đàn bà. Không có gì hơn thế
nữa. Những gì còn lại là lòng tham ái của chúng ta. Đó mới
là kiềm chế các căn.
Các căn là hệ thống sinh tồn của ta. Người có
thể thấy, có thể nghe thì sinh hoạt đời sống sẽ dễ dàng hơn
người mù hay điếc. Tuy nhiên hầu hết mọi người đều nghĩ rằng
các căn có mặt là để giúp họ tìm được khoái lạc. Chúng ta sử
dụng chúng như thế đó và khi chúng không làm được như thế,
ta trở nên bực bội giận dữ. Lúc đó ta trách cứ đối tượng
kích động nào đó gây ra. Thí dụ nếu có ai làm ta phật lòng,
ta trách cứ người đó. Nhưng thật ra họ không liên can gì, vì
cũng như chúng ta, họ được tạo thành bởi bốn yếu tố, có cùng
các giác quan, các tứ chi, và cũng đang đi tìm hạnh phúc như
chúng ta. Không có gì trong người đó phát sinh ra sự khó
chịu. Tất cả là trong chính tâm ta.
Khi ta nghĩ rằng người khác có thể mang đến cho
ta hạnh phúc thì cũng giống như thế. Lần nữa, ta lại thấy
người đó cũng là thân tứ đại, với cùng các giác quan, các bộ
phận cơ thể, cùng ước muốn đi tìm hạnh phúc như chúng ta.
Không có lý do gì ta dựa vào họ để từng hạnh phúc hay oán
trách họ vì đã không mang lại cho ta hạnh phúc. Tất cả những
gì chúng ta cần làm là nhìn thấy được "một con người". Không
có gì hơn thể nữa. Có quá nhiều "con người" trên thế giới
này, tại sao ta lại để cho một người đặc biệt nào đó làm chủ
sự vui buồn của ta.
Nếu ta biết kiềm chế các căn, kiềm chế được lòng
ham muốn của mình, thì ta có thể sống với tâm buông xả nhiều
hơn. Chúng ta không còn ở trong tình trạng cò cưa không dừng
dứt; vui sướng khi được điều ta muốn, khổ đau khi vọng, mà
điều đó đưa đến một trạng thái nội tâm luôn khao khát, mong
muốn những gì không ở trong tầm tay ta. Không có gì cần phải
có trên thế gian này, ở bất cứ đâu, trong điều kiện nào, có
thể mang đến cho ta thỏa mãn. Tất cả những gì mà thế giới
này có thể mang đến cho chúng ta là các căn trần thấy, nghe,
nếm, chạm, ngửi và suy tư. Tất cả đều chóng qua va phải được
tái tạo, không dừng dứt.
Thật lãng phí thời gian và năng lượng, và ở đây
cũng thế, không phải là sự xúc chạm của các căn tự nó có
thể làm thỏa mãn chúng ta. Chính là tâm đã làm nên điều đó.
Điều quan trọng nhất mà ta có thể làm là kiềm chế các căn,
nếu ta muốn sống một cuộc sống an vui hòa hợp, không có
những phiền não vì muốn cái ta không có, hay không muốn cái
ta đang có . Đây là hai nguyên nhân mang đến khổ đau; không
còn gì khác hơn nữa. Nếu chúng ta biết quán sát gìn giữ các
căn, không vượt quá việc đặt tên (labeling), thì chúng ta
dễ sống bình an, tự tại.
Tâm là một nhà ảo thuật - lúc nào nó cũng có thể
dựng lên các màn ảo thuật. Ngay giây phút chúng ta vượt quá
tưởng (việc đặt tên) thì đủ để nó hoạt động, khiến ta bị lôi
kéo vào trạng thái ưa ghét. Đức Phật đã có nói đến Màra,
quỷ cám dỗ. Màra luôn có mặt bên trong ta, chờ đợi cơ hội để
ra tay. Không nên tạo ra những cơ hội cho sự cám dỗ. Ở đâu
chúng có mặt, ta cần phải chế ngự chúng, nhưng tốt nhất là
đừng tạo ra chúng. Chúng ta có thể dừng lại trước khi chúng
xuất hiện, và điều đó có nghĩa là ta phải kiềm chế các
căn.
(Trích dịch từ Who ls Myself)