PHỎNG VẤN THIỀN SƯ S.N. GOENKA
(trích dịch từ Superscience: An Interview with S.N.Goenka,
Tricycles, Winter 2000)
---o0o---
Thiền sư S.N.Goenka đã giảng dạy về thiền Minh
Sát (Vipassana) hơn ba mươi mốt năm và rất nổi tiếng, có lẽ
vì những khóa tu thiền tích cực 10 ngày của thiền sư, được
tổ chức tại các trung tâm thiền ở khắp nơi trên thế giới
hoàn toàn miễn phí, nhờ vào sự hỗ trợ của các cựu thiền
sinh.
Thiền sư S.N.Goenka sinh năm 1924, tại Mandalay,
Miến Điện, là đệ tử của Ngài Thiền Sư Sayagyi U Ba Khin
(1899-1971). Sau mười bốn năm tu tập, ngài S.N.Goenka đã
quyết định từ bỏ vị trí của một nhà doanh nghiệp thành đạt
để dốc toàn lực vào việc dạy thiền. Ngày nay Thiền sư coi
quản một tổ chức với hơn tám mươi trung tâm thiền trên thế
giới và đã thành công vang dội trong việc mang thiền Minh
Sát (Vipassana) vào các trại giam, đầu tiên là ở Ấn Độ, rồi
lan rộng đến nhiều nước trên thế giới. Tổ chức này ước tính
đã có khoảng hơn 10,000 phạm nhân, cũng như nhiều thành viên
trong ngành cảnh sát, và quân đội, đã dự các khóa thiền 10
ngày này.
Bà Helen Tworkov, biên tập viên của tạp chí
Tricycles đã phỏng vấn thiền sư S.N.Goenka nhân dịp Thiền sư
đến tham dự Hội Nghị Thượng Đỉnh về Hòa Bình Thế giới Thiên
Niên Ký tại Liên Hiệp Quốc vào mùa Thu, năm 2000.
Nhân dịp Thiền sư S.N.Goenka sắp đến Việt Nam để
tổ chức hai khóa thiền Minh Sát 10 ngày tại TX Ngọc Thành,
Thủ Đức, chúng tôi xin trích dịch bài phỏng vấn này để giới
thiệu với bạn đọc một số nét về Thiền sư và phương pháp tu
thiền Minh sát (Vipassana) của Ngài.
Theo một số người thì thiền Minh Sát
(Vipassana) là một phương pháp thiền đặc biệt của hệ phái
Nguyên Thủy; theo một số khác, thì đó là một dòng thiền độc
lập. Thưa theo ý Thiền sư thì như thế nào?
Đó là một dòng thiền, nhưng không liên quan đến
một hệ phái nào. Theo tôi, Đức Phật chẳng bao giờ thiết lập
ra các tông phái. Khi tôi bái kiến ngài Sayagi U Ba Khin,
thầy tôi, ngài chỉ hỏi tôi vài điều. Ngài hỏi, là một người
Ấn Độ có danh phận, tôi có phản đối việc giữ giới (sila)
không? Làm sao tôi lại phản đối việc giữ gìn đạo đức, giới
luật chứ? Nhưng làm sao giữ được giới luật khi tâm ta không
ổn định? Ngài bảo, ta sẽ dạy cho con thực hành giữ giới với
tâm bình ổn. Ta sẽ dạy con thiền định (samadhi). Đồng ý
không? Làm sao có thể không chấp nhận thiền định? Rồi sư
phụ tôi tiếp, nhưng chỉ đơn thuần được định cũng không ích
lợi gì –định chỉ có thể thanh lọc tâm con ở bề nổi. Sâu
thẳm bên trong còn có những điều phức tạp hơn, có những thói
quen hành động mà thiền định không thể phá vỡ. Ta sẽ dạy
cho con prajna, trí tuệ, giúp con đi sâu hơn vào tâm thức,
cội nguồn, nơi phát sinh của những ô uế, bất thiện, rồi nhân
rộng, tích lũy chúng, để ta phải ra sức tiêu trừ.
Do đó khi sư phụ bảo tôi: Ta sẽ dạy cho con chỉ
ba điều –giới, định và tuệ- và không có gì hơn thế nữa, tôi
hoàn toàn bị thuyết phục. Tôi trả lời: Xin ngài, hãy cho
con được thử.
Làm sao có thể giữ được giới chỉ bằng cách theo
dõi tâm?
Khi tôi bắt đầu học thiền Minh Sát (Vipassana),
tôi đi đến kết luận rằng Đức Phật không phải là người tạo
dựng nên một tôn giáo, Ngài là một nhà khoa học, một nhà
khoa học tâm linh siêu việt. Khi Đức Phật dạy về Giới, dĩ
nhiên, mục đích là vì chúng ta là những con người, sống
trong xã hội loài người, thì chúng ta không nên làm bất cứ
điều gì có thể xâm hại đến xã hội. Điều đó hoàn toàn
đúng. Nhưng rồi –như một nhà khoa học- Đức Phật nói những
lời sau đây, khi ta làm hại người, khi ta làm những điều bất
thiện, thì ta sẽ là nạn nhân đầu tiên. Trước tiên là ta hại
mình, rồi mới hại đến người. Ngay khi một tư tưởng ô uế,
bất thiện phát khởi trong tâm, thì tự nhiên ta sẽ cảm thấy
bứt rứt, bất an. Tuệ minh sát đã dạy cho tôi biết điều đó.
Như thế nếu người ta có thể thấy rằng tâm bất
thiện tạo ra sự đau khổ, bất an cho bản thân, thì đó có phải
là sự khởi đầu của giới và tâm bi mẫn?
Nếu bạn có thể chuyển hóa điều đó thành tâm bi
mẫn, thì lúc đó một thực tại khác sẽ trở nên rõ ràng. Nếu
thay vì dấy khởi sân, oán thù, sợ hãi, ngã mạn, tôi phát
khởi lòng thương yêu, bi mẫn, thiện tâm, thì rồi tự nhiên
tôi sẽ được đáp trả. Tôi sẽ cảm thấy rất tự tại, bình an
trong nội tâm. Tương tự, nếu tâm tôi ô uế, bất thiện thì
tôi sẽ bị trừng phạt bằng cách này hay cách khác, cũng như
khi tôi thanh lọc tâm thì tôi sẽ được đền đáp bằng cách này
hay cách khác.
Khóa thiền Minh Sát (Vipassana) 10 ngày là gì?
Cả quá trình là một phần của sự chứng nghiệm
hoàn toàn, quá trình của sự tự chứng, chân lý liên quan đến
bản thân, do bản thân, tự trong bản thân. Đó không phải là
một trò chơi của lý trí, cũng không phải là trò chơi của
tình cảm hay lòng tín ngưỡng: “Ồ, Đức Phật nói rằng, và rằng
. . . Thật quá tuyệt vời, tôi phải chấp nhận chúng thôi. .
. “. Trái lại, nó hoàn toàn khoa học, tôi phải thật sự
hiểu điều gì đang xảy ra bên trong tôi. Chân lý nào ở bên
trong tôi? Chúng ta bắt đầu bằng hơi thở. Có vẻ như là một
khái niệm vật lý, hơi thở vào, ra. Đúng là thế. Nhưng ở
một mức độ sâu xa hơn, hơi thở gắn kết chặt chẻ với tâm, với
những uế nhiễm, bất thiện trong tâm. Trong khi hành thiền,
chúng ta theo dõi hơi thở, nhưng khi tâm bắt đầu phóng đi xa
–về những kỷ niệm trong quá khứ, những viễn ảnh trong tương
lai- thì lập tức ta nhận thấy hơi thở không còn bình thường:
hơi gấp rút, hơi nặng nề. Và ngay khi các uế nhiễm qua đi,
thì hơi thở trở lại bình thường. Điều đó có nghĩa là hơi
thở được kết nối với tâm một cách mãnh liệt, không chỉ với
tâm bình thường, mà còn với các tâm uế nhiễm. Do đó, chúng
ta có mặt ở khóa thiền 10 ngày là để trải nghiệm, khám phá
ra những gì đang xảy ra bên trong ta. Ở một mức độ sâu xa
hơn, người ta thấy rằng tâm và thân gắn kết nhau qua các cảm
xúc (sensations).
Điều này đưa đến một sự khám phá lớn khác –rằng
bạn không phản ứng với một đối tượng bên ngoài. Thí dụ tôi
nghe âm thanh và tôi nhận ra đó là lời khen hay tiếng chê
của ai đó. Tôi trở nên hài lòng hay giận dữ. Ở bề nổi thì
là bạn đã phản ứng lại với âm thanh. Đúng. Bạn đang phản
ứng. Nhưng Đức Phật cho rằng chính là bạn đang phản ứng lại
với cảm xúc, cảm xúc nơi thân. Rằng khi bạn cảm nhận một
cảm xúc nơi thân, và nếu bạn vô minh, thì bạn cứ tiếp tục
làm uế nhiễm tâm mình bằng lòng ham muốn, hay ghét bỏ, bằng
ái dục hay sân hận. Vì bạn không biết điều gì đang xảy ra.
Khi bạn nghe lời khen hay tiếng chê, có phải là
phản ứng được lọc qua tâm lý để đưa đến cảm xúc nơi thân,
hay cả hai xảy ra cùng một lúc?
Việc này xảy ra tiếp theo việc kia, nhưng vì
chúng xảy ra quá nhanh đến nỗi bạn không thể tách rời chúng
ra. Quá nhanh! Cho đến một lúc nào đó, tự động bạn có thể
bắt đầu nhận thức được rằng, “Hãy xem điều gì đang xảy ra
này! Tôi vừa khởi tâm giận”. Và người thiền sinh hành minh
sát tuệ sẽ lập tức nói: “Ồ, rất nhiều sân hận! Rất nhiều
sân hận nơi thân, mạch đang nhảy liên hồi. . . Ôi, tôi khổ
sở quá. Khổ sở quá”.
Nếu không đối mặt với những cảm giác nơi thân,
thì ta chỉ đối phó với nó trên lý trí. Bạn có thể nói, “Sân
hận là không tốt”, hay “Tham là không tốt”, “Sợ hãi là không
. . . “. Tất cả đều là tri thức, những đạo đức chúng ta
được dạy từ ấu thơ. Tuyệt vời. Cũng ích lợi. Nhưng khi đã
tu tập, bạn sẽ hiểu tại sao chúng không hoàn hảo. Không chỉ
là chúng ta đem lại tai hại cho người khác, bằng cách phát
khởi những uế nhiễm của tâm sân hận hay đam mê, sợ hãi, hay
thủ đoạn, mà ta cũng hại chính bản thân.
Thiền Minh sát quán sát sự thật. Với hơi thở
tôi đang quán sát chân lý ớ bề nổi, ở trên mặt. Nhưng từ đó
nó đưa tôi đến những tầng sâu, sâu hơn nữa. Trong ba ngày
thực tập rốt ráo, tâm trở nên sắc bén, vì bạn luôn thực tập
quán sát chân lý. Không phải là sự tưởng tượng, không phải
là triết lý hay tư duy. Chân lý, hơi thở, chân lý cũng như
là hơi thở, sâu hay cạn. Tâm trở nên rõ ràng, sắc bén quanh
vùng mũi, bạn bắt đầu cảm nhận được một số phản ứng sinh hóa
(biochemical), nghĩa là một số cảm xúc nơi thân. Những cảm
xúc này luôn có mặt khắp thân, nhưng tâm thô lậu chỉ có thể
cảm nhận được những cảm xúc mạnh mẽ như đau đớn hay gì đó.
Trong khi có biết bao cảm xúc khác nơi thân mà tâm không thể
nhận ra.
Thưa Thiền sư có phải phương cách tu tập này là
trọng tâm của Phật giáo?
Đúng vậy. Nếu sự quán sát đúng đắn không được
hướng đến các cảm giác thì chúng ta sẽ không thể đi vào
những tầng thức sâu hơn trong tâm. Tầng thức sâu nhất của
tâm, theo Đức Phật, luôn kết nối với các cảm giác nơi thân.
Và bạn chỉ có thể khám phá ra điều đó bằng thực hành.
Vai trò của người thầy như Ngài là như thế nào?
Một người thầy vì lòng bi mẫn và thương yêu,
thấy rằng ai đó đang đau khổ nên muốn chỉ cho họ con đường.
Nhưng chính mỗi cá nhân phải tự đi trên con đường đó. Người
thầy không có phép mầu gì. Chắc chắn như thế. Ông chỉ là
người chỉ đường. Đó là nhiệm vụ duy nhất của người thầy,
không có gì hơn thế nữa.
Thiền sư đã tạo dựng nên hệ thống tu thiền này
khắp thế giới, nhưng dường như Ngài không có người kế thừa.
Có quá nhiều người theo học, do đó để chọn ra
một người nào đó để kế thừa sẽ làm xáo trộn sự thanh tịnh.
Đức Phật chẳng bao giờ đề cử ai để làm người kế thừa. Vậy
tôi là ai mà chọn lựa? Tất cả năm hay sáu trăm người thầy
tôi đã huấn luyện, họ sẽ kế thừa. Nếu tôi không còn có mặt,
họ vẫn tiếp tục. Không phải vì họ có lòng tin vào vị thầy
–mà họ có lòng tin vào phương pháp, vào phương pháp đã đem
đến cho họ kết quả. Đó là những gì sẽ còn tồn tại. Nếu
không, họ sẽ nghĩ rằng vì thầy ta còn đó nên ta được tất cả
mọi điều lợi ích –khi thầy không còn nữa, tất cả đều cũng
mất. Đó là sự sùng bái cá nhân. Phương pháp thiền Minh sát
này rất tuyệt vời. Nó sẽ tồn tại. Đừng lo (cười). Tôi rất
tự tin. Nó sẽ tồn tại.
. . . Nhìn về Á châu, thấy các quốc gia
như Miến Điện, Sri Lanka, với những sự bạo động, đau thương
trong các quốc gia Phật giáo này –chúng ta có thể sử dụng sự
tu tập, thực hành của mình như thế nào để có thể mang lại
hòa bình, thưa Thiền sư?
Qua bao thế kỷ, trong lịch sử của Phật giáo chưa
từng có một sự kiện nào trong đó người Phật tử nhân danh
truyền bá đạo pháp để gây ra đổ máu. Phật giáo đi tới đâu,
cũng mang theo tình thương yêu, lòng bi mẫn. Vì thế truyền
thống đó đã nói lên rằng đây là con đường không có bạo động
hay đổ máu. . .
Theo giáo lý của Đức Phật, theo khoa học, khoa
học nhân văn, và thực tại mà chúng ta đang đối mặt, chúng ta
rất mong muốn hòa bình trong xã hội loài người. Chắc chắn
là ai cũng mong muốn điều đó. Phật tử hay không Phật tử,
đều mong muốn điều đó. Nhưng làm sao có một xã hội hòa
bình, nếu con người sống trong xã hội đó không có hòa bình,
an lạc. Nếu các cá nhân luôn giận dữ, sôi sục, thì không
thể có an lạc. Thì làm sao ta có được xã hội hòa bình.
Theo tôi, đó là điều không tưởng. Không hợp lý chút nào.
Thưa Thiền sư, không sử dụng từ “Phật giáo” có
ích lợi không, như thế ai cũng có thể tiếp cận với nó, tất
cả mọi người?
Có hai từ tôi tránh dùng trong suốt ba mươi mốt
năm qua. Trong suốt ba mươi mấy năm qua kể từ khi tôi bắt
đầu giảng dạy, tôi không dùng từ “Phật giáo”. Tôi cũng
không bao giờ dùng từ “tôn giáo”, để nói về giáo lý của Đức
Phật. Theo tôi, Đức Phật chưa bao giờ thiết lập ra một tôn
giáo. Đức Phật chưa bao giờ dạy về Phật giáo. Đức Phật
chưa biến ai thành một Phật tử.
Mọi người công nhận rằng mọi tôn giáo trên thế
giới đều có những yếu tố chung, mà tôi gọi đó là cốt lõi nội
tại của tôn giáo –đạo đức, làm chủ tâm, thanh tịnh tâm, vân
vân. Tôi coi đó là cốt lõi, cốt lõi thiện của tất cả mọi
tôn giáo. Rồi mới đến cái vỏ bên ngoài. Cái vỏ bên ngoài
của mỗi tôn giáo có khác nhau. Hãy để mọi người tự do, bằng
lòng với các nghi lễ, hình thức tôn giáo của họ -nhưng họ
không được quên điều cốt lõi bên trong. Nếu họ quên điều
đó, mà lại tự xưng, tôi là người theo tôn giáo này hay tôn
giáo kia vì tôi đã tuân theo các nghi lễ, các quy cách, thì
là họ tự lừa dối mình, họ đang lừa dối người.
Diệu Liên Lý Thu Linh
(trích dịch từ Superscience: An Interview with
S.N.Goenka, Tricycles, Winter 2000)