PHẬT GIÁO VÀ NỀN HOÀ BÌNH THẾ GIỚI
Ht. Thích Trí Quảng
---o0o---
Phật giáo và nền hòa bình thế giới là một trong
những vấn đề quan trọng trong thời hiện đại mà chúng ta
cần quan tâm, nhất là Liên Hiệp Quốc đã đánh giá cao về cuộc
đời và lời dạy của Đức Phật, mới có Lễ Vesak được Giáo hội
chúng ta và Liên Hiệp Quốc cùng tổ chức để kỷ niệm ngày Đản
sanh của Đức Phật trong tháng Tư năm nay tại Hà Nội.
Thực tế cho thấy nhân loại ngày nay đang kỳ vọng
Phật giáo sẽ có những đóng góp nhất định cho nền hòa bình
toàn cầu. Chúng ta hãy cùng suy nghĩ về lời dạy cao quý của
Đức Phật để ứng dụng và đạt được kết quả tốt đẹp trong cuộc
sống tu hành của chính mình, cũng như góp phần cho việc xây
dựng nền hòa bình chung của trái đất này.
Là đệ tử Phật, chúng ta luôn ghi nhớ lời Phật
dạy rằng tâm của con người là quan trọng, vì tâm có thể mang
lại sự an lạc và cũng có thể mang đến khổ đau cho bản thân
của mỗi người, đồng thời ảnh hưởng đến cộng đồng xã hội.
Loài người từ khi có mặt trên trái đất, vì không ý thức được
tác động quan trọng của tâm, nên cứ phát triển tâm theo
hướng bất thiện, nghĩa là khởi lên tham vọng cá nhân, muốn
chinh phục người khác, chinh phục xã hội và cả thiên nhiên.
Chính tâm tham lam ích kỷ này đã gây ra muôn vàn khổ đau cho
loài người và tất cả hữu tình chúng sinh trên trái đất này.
Vì thương xót ý nghĩ sai lầm và việc làm tội lỗi
của chúng sinh trong Nhà lửa tam giới, Đức Phật đã hiện thân
trên thế gian này để cứu giúp mọi người thoát khỏi cuộc sống
mê lầm và khổ đau.
Những người không biết nói rằng Đức Phật là
người mới tu thành Phật. Nhưng Đức Phật đã khẳng định trong
kinh Pháp Hoa rằng: “Trời, Người, A tu la cho rằng Ta xuất
thân từ cung dòng họ Thích đến cội bồ đề gần thành Già Da mà
thành Vô thượng Chánh đẳng giác, nhưng thật sự từ ta thành
Phật đến nay trải qua vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp…”.
Như vậy, Đức Phật đã thành Phật từ lâu xa, vì
thương chúng sinh mà Ngài thị hiện vào loài người, mang thân
người và tu thành Phật. Cốt lõi bên trong của Ngài là Phật
với đời sống vĩnh hằng bất tử ở thế giới Thường Tịch Quang,
nhưng Ngài vào sống trong loài người để cứu độ họ. Phải biết
rằng tất cả mọi người cùng sống trên trái đất này, tuy bề
ngoài cùng có thân người, nhưng phần cốt lõi bên trong của
mỗi người đều khác nhau. Có người cốt lõi là Bồ tát tái hiện
lại thế gian này để cứu giúp chúng sinh, có vị trụ Thánh quả
vì thương nhân gian mà tái sinh trên cuộc đời. Cũng có người
mang thân người nhưng cốt lõi là ác ma hay quỷ thần. Nếu là
ác ma tái sinh, họ chỉ sống theo tham vọng, muốn làm chúa tể
sai khiến mọi người và thống trị xã hội, nên họ đã giết hại
không biết bao nhiêu chúng sinh. Có người vì lòng sân hận
ngút trời đã gây khổ đau cho vô số người và cho chính họ.
Chúng ta thấy dòng lịch sử khổ đau luôn tiếp
diễn dưới gót giày của những nhà chinh lược khét tiếng tàn
bạo từ thời Alexandre đại đế, cho đến Tần Thủy Hoàng, rồi
Hitler, rõ ràng những người này hiện hữu trên cuộc đời chỉ
để gieo rắc nỗi kinh hoàng, nỗi khổ đau và mang đến chết
chóc cho nhân loại, để thỏa mãn tâm khát máu và lòng cuồng
vọng của họ muốn làm bá chủ cả thế giới này.
Thực tế cho thấy văn minh con người càng cao thì
nỗi khổ càng lớn, mà nhiều người lại lầm tưởng sự văn minh
sẽ giúp cho con người hết khổ. Thử nghĩ xem ở thời thượng
cổ, đời sống con người chẳng có chút văn minh nào cả, họ
đánh nhau bằng tay, hay bằng vũ khí thô sơ thì chỉ gây
thương tích hơn là mất mạng. Khi con người văn minh hơn, chế
tạo đao kiếm đánh nhau giữa các bộ tộc, cho đến thời kỳ hình
thành các quốc gia đánh dấu sự tiến bộ văn minh cao hơn nữa
của con người, thì số người bị thảm sát và thương tật trong
chiến tranh đã lên đến hàng triệu. Và đến thời kỳ đương đại
được coi là tột đỉnh của nền văn minh nhân loại, với vũ khí
tối tân như bom nguyên tử, hay vũ khí hạt nhân, thì sự sống
của cả nhân loại mong manh như sợi chỉ mành treo chuông. Sự
sống và cái chết của con người dễ dàng như trở bàn tay, văn
minh càng cao khổ đau càng lớn là vậy.
Đức Phật ra đời trong thời kỳ phong kiến, quyền
hạn trong tay vua chúa và họ toàn quyền định đoạt cuộc sống
của con người. Vua chúa đã nhân danh Thượng đế thống trị con
người. Đức Phật vì thương xót loài người mà Ngài sanh lại
thế gian này để giải tỏa khổ đau cho loài người.
Trong kinh Pháp Hoa, Đức Phật nói rằng ở trong
tam giới thật sự không có sinh tử, không có khổ đau; kinh
Bát Nhã cũng nói rằng thật tướng các pháp không có sinh tử,
Niết bàn, nhưng vì vô minh vọng kiến của con người khiến cho
họ có các ham muốn khác nhau, mới tạo ra các tội sai biệt và
tội trước làm nhân cho tội sau sanh ra, cứ như thế mà mỗi
một kiếp sống, tội lỗi của con người lại tăng thêm, thì tự
làm khổ mình và làm khổ cho người khác. Không ai khác, chính
chúng ta tự tạo khổ đau cho mình và mọi người để rồi cùng
trôi lăn trong dòng sinh tử luân hồi vô tận. Bao giờ con
người đoạn trừ được ba món độc trong lòng là tham sân si,
mới nhận ra được sự thật của cuộc sống là không có sinh tử,
không có khổ đau.
Đức Phật đã trải thân thể nghiệm và chứng đắc
điều này. Ngài dạy rằng con người vì tham lam, ích kỷ đã tạo
nghiệp ác và nghiệp cũ chưa trả xong lại tiếp tục tạo nghiệp
mới, nên phải gánh lấy hết khổ đau này đến khổ đau khác lớn
hơn. Theo Phật, nếu chúng ta đoạn trừ một phần tham dục sẽ
cắt đứt được một phần khổ đau thì được một phần an lạc.
Thật vậy, từ xa xưa cho đến ngày nay, lời dạy
của Đức Phật vẫn còn nguyên giá trị. Tham vọng của con người
quá lớn, nên đã khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên
một cách bừa bãi, đến độ các tổ chức thế giới hiện nay đã
phải báo động rằng thế giới của chúng ta sắp bị hủy diệt nếu
con người không biết ngừng lại những việc làm gây tác hại
như vậy. Ngừng lại bằng cách nào?
Hãy thử áp dụng lời Phật dạy trong cuộc sống.
Khóa tu của chúng ta đang làm điều này và sẽ chứng minh cho
xã hội thấy rằng nhu cầu vật chất của chúng ta không cần
nhiều như người ta tưởng. Đơn giản như một bữa ăn của người
giàu có tốn kém quá nhiều, cũng đã góp phần vào việc khai
thác cạn kiệt tài nguyên trên trái đất này. Thực tập lời
Phật dạy, bữa ăn trưa của chúng ta trong khóa tu này không
quá mười ngàn đồng, tức không đến nửa đô la, nếu so với
người tiêu đến một trăm hay một ngàn đô la cho bữa ăn, chúng
ta đã giảm được một trăm lần, hay một ngàn lần trong việc
khai thác tài nguyên thiên nhiên. Ngày nay khoa học đã chứng
minh những chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể con người
trong một ngày chỉ cần khoảng 100 gram chất bột, 50 gram
chất đạm và một số khoáng chất là đủ bảo đảm sự sống của con
người. Các vị thiền sư đã thể hiện điều này, một ngày chỉ ăn
một bữa vẫn duy trì được sức sống mà còn khỏe mạnh hơn người
bình thường. Bữa ăn chay thanh đạm như vậy đã hiển nhiên
chứng tỏ cho mọi người thấy việc ăn uống không đòi hỏi nhiều
như người ta nghĩ. Thực tế cho thấy giới y học trên thế giới
đã lên tiếng báo động về bệnh béo phì ở những người ăn quá
nhiều, dư thừa chất đạm, chất đường và bệnh sanh ra thì phải
cần tiền chữa trị, phải chi tiêu tốn kém hơn, trong khi năng
suất làm việc lại bị giảm sút vì bệnh hoạn chi phối. Một khi
sự tiêu xài tốn kém nhiều hơn để thỏa mãn đời sống vật chất
của con người mỗi ngày lớn hơn nữa, tất yếu dẫn đến sự góp
phần vào việc khai thác tài nguyên tăng thêm.
Như trên đã nói, trên bước đường tu, về nhu cầu
thiết thực cho cuộc sống hàng ngày là ăn uống, chúng ta đã
chứng tỏ cho mọi người thấy được rằng việc tiêu xài rất đơn
giản, không tốn kém nhiều, tránh được sự lãng phí tối đa và
không cần khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách bừa bãi.
Việc ăn uống cầu kỳ và tốn kém nhiều, nhưng ăn không bao
nhiêu mà số thừa thãi bỏ đi rất nhiều. Nếu không tiêu pha vô
lý như vậy, sẽ không cần phải khai thác tài nguyên nhiều để
cung cấp cho sự đòi hỏi vô bổ này và không đòi hỏi nhiều thì
các cuộc tranh chấp cục bộ giữa cá nhân với nhau, giữa bộ
tộc với nhau, giữa các quốc gia với nhau, cho đến tranh
chấp toàn cầu sẽ không xảy ra.
Đức Phật dạy rằng loài người vì miếng ăn mà
tranh giành và giết hại nhau. Khi còn là Thái tử, Ngài đã
động lòng thương xót khi trông thấy luống cày của nông dân
đã cắt đứt biết bao nhiêu con trùng thành nhiều mảnh. Thiền
sư Vạn Hạnh cũng nói đến sự sát hại của con người gây khổ
đau cho muôn loài chúng sinh qua bài kệ :
"Hằng ngày trong bát canh ăn
Quán sâu như biển hận bằng non cao
Muốn hay binh lửa thế nào
Lắng nghe quán thịt tiếng gào đêm thâu".
Vào thời Lý ở nước ta, nhà vua đã ra lệnh không
được sát sanh vào ngày 15 và mùng 1 mỗi tháng, đã cứu sống
nhiều loài súc sinh và không gây ô nhiễm môi trường do việc
nuôi giết súc vật gây ra. Rõ ràng lời dạy của Đức Phật và
chư vị Thiền sư được áp dụng trong cuộc sống đã mang đến cho
xã hội những kết quả tốt đẹp.
Đối với Tỳ kheo, trước nhất hạn chế tối đa việc
ăn uống, một ngày chỉ ăn một lần vào đúng ngọ. Phật giáo
Nguyên thủy vẫn còn giữ gìn nghiêm ngặt truyền thống này.
Ngoài ra, tu sĩ còn hạn chế vấn đề mặc. Phật dạy Tỳ kheo chỉ
có một y một bát, nơi lạnh thì cho phép có ba y và một bát.
Như vậy, Tỳ kheo cũng hạn chế việc tiêu thụ y đến mức tối
đa; khi y cũ xả bỏ, mới được có y mới.
Ngày nay nhiều người ăn mặc phung phí, quần áo
dư thừa, chưa hư, thậm chí chưa mặc đến hay chỉ mặc qua một
lần, đã mua sắm thêm, mà mua sắm thật nhiều thì phải làm
nhiều và cũng kích động cho sự sản xuất tăng thêm; sản xuất
tăng thì việc khai thác tài nguyên thiên nhiên càng mau cạn
kiệt hơn. Hệ quả tất yếu là xảy ra tình trạng xung đột giữa
các quốc gia, cho đến xung đột thế giới. Lịch sử đã cho thấy
nguyên nhân của cuộc đệ nhất thế chiến và đệ nhị thế chiến
đều phát xuất từ các nước tư bản tranh giành nhau khai thác
các vùng có tài nguyên thiên nhiên dồi dào và chiếm lãnh thị
trường tiêu thụ. Và hai cuộc chiến tranh thế giới đã tiêu
diệt trên bốn chục triệu người và hàng trăm triệu người khác
phải gánh chịu thương tật, mất mát, khổ đau. Nếu con người
biết hạn chế ăn mặc sẽ giảm được sự xung đột, không tranh
chấp cục bộ hay toàn cầu và hòa bình chắc chắn có ngay trước
mắt.
Đức Phật dạy hàng Phật tử ăn mặc đơn sơ chẳng
những tránh được việc tranh giành giết hại, giảm bớt được sự
tàn phá môi trường một cách vô lý, mà quan trọng hơn nữa,
còn có nhiều thì giờ dành cho việc thực tập giáo pháp, để
cuộc sống được giải thoát và có ý nghĩa.
Ngày nay vật giá leo thang vì người ta tiêu thụ
dầu hỏa quá nhiều, và mọi thứ đều bị lệ thuộc vào giá dầu
hỏa. Chúng ta đã biết dầu hỏa không phải là nguồn tài nguyên
vô tận, vậy mà có rất nhiều việc không cần thiết người ta
cũng tiêu xài. Thử một ngày không sử dụng điện, không đi ô
tô, bớt tiêu thụ dầu hỏa xem sao. Nếu cứ theo đà tiêu thụ
dầu hỏa càng ngày càng nhiều hơn, nguồn cung ứng thiên nhiên
tất yếu mau bị cạn kiệt và không còn dầu hỏa nữa, thì điều
gì sẽ xảy ra trên trái đất này, quả là không lường được.
Sinh hoạt của Phật tử trong đời sống hằng ngày
nếu biết tiết giảm sẽ góp phần duy trì được tuổi thọ của
trái đất chúng ta tốt đẹp hơn và dài lâu hơn, cho đến hạn
chế được những cuộc xung đột tàn khốc giữa cá nhân, giữa các
khu vực và trên toàn cầu.
Ngoài ăn mặc, Phật tử cũng không nên tham cầu
nhà ở, mà cần hạn chế tối đa. Người xưa đã nói nhà rộng trăm
gian, một người cũng chỉ ngủ trên một cái giường bốn mét
vuông là đủ. Thiết nghĩ việc hạn chế vấn đề xây dựng nhà ở
cũng cần thiết. Đất không thể mở rộng thêm được, nhưng nếu
số nhà ở xây dựng mỗi ngày cứ tăng thêm, cuối cùng không còn
đất để sản xuất lương thực, chưa nói đến việc xây dựng tràn
lan sẽ gây ra vấn đề ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn nước,
thì rõ ràng hậu quả tai hại không phải là nhỏ.
Phật tử tu hành nếu biết sống tri túc, sẽ có
được đời sống an lạc; lâu nay cứ tưởng vật chất phải có
nhiều, nhưng nay nghe Phật dạy, đã giác ngộ thì nhu cầu cuộc
sống của chúng ta cũng không nhiều. Và lâu nay, người ta
quen kích cầu để tăng sản xuất, nhưng ngày nay Phật tử đã ý
thức được rằng không nên tham cầu quá đáng, từ đó chẳng
những không kích cầu mà lại tự hạn chế nhu cầu. Các Phật tử
ngẫm nghĩ xem chúng ta làm được vài triệu đồng mỗi tháng,
nhưng biết sống thì cũng nuôi sống được bản thân mình và gia
đình; trong khi người giàu có kiếm được vài chục triệu đồng
một tháng cũng tiêu xài hết, thì cuộc sống của họ cũng chẳng
hơn gì mình và mình cũng chẳng kém gì họ, mà so cho cùng tâm
hồn chúng ta được thảnh thơi an lạc hơn họ nhiều và chúng ta
phát huy được trí giác, đó là kho báu vô giá mà những người
sống triền miên với vật chất không bao giờ vói tới được.
Và xa hơn, trên bước đường tu thể hiện tinh thần
Phật dạy, chúng ta hạn chế nhu cầu để tăng mức cung thì mình
được sanh phước. Riêng tôi, thuở còn là du học Tăng ở Nhật
Bản; vào thời đó, mỗi sinh viên chỉ được đổi chính thức 150
đô la, nhưng các sinh viên nhà giàu xài không đủ, cha mẹ họ
phải tìm cách mua thêm Mỹ kim cho con họ tiêu xài. Còn tôi
mỗi tháng chỉ tiêu 60 đô la và dành thì giờ đọc sách nghiên
cứu, trong khi các sinh viên thuộc gia đình giàu có được cha
mẹ cho nhiều tiền thì họ lao vào những thú vui trác táng,
không còn thì giờ học, nên cuối năm kết quả học tập rất kém.
Theo tôi, nếu biết sống tiết giảm, dù có ít tiền
cũng được thặng dư; còn sống theo tham vọng thì bao nhiêu
cũng phung phí hết và càng có nhiều tiền lại càng dễ chơi
bời đọa lạc.
Người tu tập giảm việc ăn mặc ở, thể hiện nếp
sống thanh đạm, không tranh chấp với người khác và xã hội.
Tâm chúng ta được an bình sẽ ảnh hưởng cho người xung quanh
cảm thấy nhẹ nhàng, nên họ cũng không tranh chấp với ta, vì
ta không hề tranh với họ. Có thể nói tâm an thì xã hội an và
sự bình an cao nhất là Niết bàn, nghĩa là tâm an trú trong
sự thanh tịnh giải thoát, lòng chúng ta không đặt nặng ở vật
chất, nên vật chất ít hay nhiều, chúng ta vẫn an lạc, đó là
Niết bàn ngay trong cuộc sống mà kinh điển gọi là hữu dư y
Niết bàn.
Xa hơn nữa, Đức Phật chỉ dạy chúng ta tạo dựng
một cuộc sống cao thượng để làm nền tảng cho xã hội phát
triển theo hướng tốt đẹp trang nghiêm như thế giới Phật gọi
là Cực lạc, hay Tịnh độ của chư Phật. Đó chính là mục tiêu
mà hàng đệ tử Phật hướng đến cho chính mình, hướng đến cho
xã hội và chúng ta hướng dẫn mọi người hiểu được tinh thần
Phật dạy để tâm an, trí sáng và mang đến hòa bình cho nhân
loại trên trái đất này.
HT.Thích Trí Quảng
(Khóa tu Một ngày an lạc lần thứ 26, tại chùa
Phổ Quang ngày 25-5-2008)
(http://giacngo.vn/)
09-25-2008 10:23:12