Thư Viện Chùa Dược Sư
PHẬT HỌC CƠ BẢN
 
NHỮNG ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN CHO VIỆC TU TẬP
HT. Ấn Thuận - Thích Hạnh Bình Việt dịch
---o0o---
            Mục đích của việc học Phật pháp là tu trì. Chữ 'trì' là thọ  trì, có nghĩa là chọn  lựa những pháp lành mà hành trì; Còn chữ 'tu' là sự thu thập và tu tập, có nghĩa là y cứ vào Phật pháp mà tu tập. Từ này theo tiếng Hoa giải thích là tu thân, sửa đổi, sửa chửa…, như vậy, chữ 'tu' có nghĩa là sự cải chính. Căn cứ vào Phật  pháp  mà  giải  thích,  thì  chữ  này  mang  ý  nghĩa huân tập và phát triển; Do vì có sự tu tập, cho nên nó mới  tạo  thành  sự  huân  tập  và  phát  triển  thiện  căn trong hiện tại và tương lai. 
            Có người giải thích, tu trì có nghĩa là từ bỏ tất cả, ngay cả những việc làm chinh đáng của mình, quan điểm này mang ý nghĩa không đồng với sự  tu tập trong Đại thừa Phật giáo. Những pháp môn tu tập trong Đại thừa như Bố thí, trì giới, ái ngữ  lợi  hành,  đồng  sự,  tập  định,  tu  tuệ,,  niệm  Phật, cúng dường, sám hối… nói tóm lại, bất cứ làm việc gì mang  tính  tự  lợi  và  lợi  tha,  làm  tăng  trưởng  phước đức trí tuệ đều gọi là tu hành, nó không mang ý nghĩa từ bỏ những việc làm ích lợi của thế gian. Y cứ vào những  thiện  pháp  trong  nhân  gian  mà  tu  tập  Bồ  tát hạnh. Y cứ trong kinh luận, chữ tu trì trong Phật pháp được giải thích như dưới đây:
            - Tín nguyện. Tinh tấn 
            - Trí định. Phương tiện 
            - Bi thí. Giới. Nhẫn
            Trong quá trình tu học Phật pháp 'lòng tin' là giai đoạn đầu tiên và cơ bản nhật, nếu không có lòng tin thì Phật pháp không từ đâu mà sanh khởi, như cây cối từ gốc rễ mà được trưởng thành, nếu cây mà không có gốc thì nhành lá không từ đâu mà có; Trí tuệ là cái cơ bản để chặt đứt phiền não, cũng là cái đưa đến giác ngộ chân lý, giải thoát sanh tử, nếu như không có trí tuệ thì sự giải thoát giác ngộ cũng không từ đâu mà có. 
            Phật  giáo Tiểu  thừa  đặc  biệt  chú  trọng lòng  tin và trí tuệ, nhưng ngược lại Phật giáo đại thừa thì chú trọng 'từ bi', bỡi vì mục đích của Bồ tát hạnh lấy lợi tha cứu giúp chúng sanh làm sự nghiệp, nếu như lòng từ bi chưa đầy đủ, thì tinh thần Bồ tát hạnh không thể thành tựu, phải bị trở lui lại pháp môn Tiểu thừa mà tu tập. Như trong kinh nói rằng, 'lòng tin là nơi nương tựa của lòng mong muốn, sự mong muốn là động lực của sự tinh cần'. Nếu như chúng ta có lòng tin kiên cố thì chúng ta sẽ có sự ước muốn rất mạnh mẽ, tất nhiên nó sẽ là sự nổ lực hành trì thiện pháp. Như vậy, lòng tin  sự  mong  muốn  và  sự  nổ  lực  có  mối  quan  hệ  rất chặt  chẽ,  trong  đó  điều  căn  bản  là  lòng  tin. 
            Như  có người  nói  rằng,  pháp  môn  tu  tập  này  rất  tốt,  ngoài pháp  môn  này  không  thể  liễu  sanh  thoát  tử,  nhưng trên thật tế người ấy không y cứ vào pháp môn tu tập, điều đó chứng minh rằng, người đó không có lòng tin, vì người đó không có sự mong cầu, cho nên không có lòng tinh tấn hành trì. Ví dụ như người có bịnh nặng, nghe nói có loại thuốc nào đó có thể trị lành bịnh, nếu như người bịnh có lòng tin tưởng với lời nói ấy, chắc chắn  người  ấy  bằng  khả  năng  của  minh,  nổ  lực  tìm cầu loại thuốc ấy; nếu như người ấy không nổ lực tìm cầu,  điều  đó  có  nghĩa  là  không  tin  tưởng  loại  thuốc này có thể trị lành bịnh. Do đó, nguyện và tinh tấn lấy lòng tin làm cơ sở, có thể nói rằng, có lòng tin tức có sự mong cầu và tinh tấn, không có lòng tin không có mong  cầu  và  tinh  tấn.  Trí  tuệ  từ  định  mà  có,  nếu không có thiền định thì không thể có trí tuệ, như vậy thiền  định  làm  cơ  sở  cho  trí  tuệ  sinh  khởi.  Sự  hiện diện của trí tuệ mới có thể hình thành những phương tiện thiện xảo. Từ bi là động lực để thực hành hạnh lợi tha,  ví  như  dẫu  có  hại  mình  nhưng  vì  lợi  ích  người khác mà bố thí, kiềm chế mình mà vì đại chúng mà trì giới, sự nhẫn nại trong việc khắc chế mình khi sanh tâm  nóng  giận  người  khác,  tất  cả  những  hành  vi  đó đều xuất phát từ lòng từ bi. Y cứ vào hạnh của nhân thừa mà học tu Bồ tát thừa. Như vậy 3 pháp này bao gồm  tất  cả  pháp  môn  trong  đó  có  cả  lục  độ  và  Tứ nhiếp pháp, nó là điều kiện làm sống dậy tín tâm và sanh khởi trí tuệ, cũng là pháp nuôi dưỡng từ bi tâm, chính là pháp môn căn bản của Đại thừa Bồ tát đạo.
            Tin là tin Tam bảo, tin pháp tứ đế, những pháp nào mà làm tăng trưởng lòng tin chúng ta cần học tập những  pháp  ấy.  Trong  Đại  thừa  Phật  pháp  nói  rằng, người bắt đầu học pháp Đại thừa, trước hết phải khởi lòng tin. Những pháp môn như niệm Phật, lễ Phật, tán Phật, tuỳ hỷ, cúng dường, sám hối …. Đều thuộc về pháp của những người sơ học, nó là phương tiện làm tăng  trưởng  lòng  tín  tâm.  Mục  đích  của  người  học Phật là muốn được thành Phật thành Tổ, như vậy thời thời khắc khắc cần phải lễ Phật niệm Phật, niệm pháp và niệm tăng, nếu chúng ta có thành tâm tín tâm như vậy  mới  có  thể  thành  Phật.  Người  Phật  tử  lúc  nằm mộng hay trong lúc ngồi thiền thường thấy chư Phật và Bồ tát, điều đó biểu thị người đó có lòng tin kiên cố, sau khi đã có tín tâm rồi, chúng ta cần bước lên một bước thứ hai là học tập Phật pháp và hiểu rõ Phật pháp. 
            Sự hiểu rõ Phật pháp đó, nó có công năng cho chúng ta biết rằng, không phải là Phật pháp thì không thể có tư lợi và lợi tha. Sự xuất hiện lòng từ bi là từ lòng tin, nếu như lòng tin đó mà được trợ giúp của bi và trí thì lòng tin đó càng kiên cố, từ đó nó phát sinh một  sức  mạnh  tức  là  phát  nguyện,  bất  luận  sự  việc gian nan như thế nào đi nữa nhất định học tập và hộ trì Phật pháp. Cùng nói về ý này, Khổng tử có câu, ' Nếu như dân không có lòng tin thì (nhà vua) khó có thể thành tựu'. Việc của thế sự mà còn dựa vào chữ 'tín'  để  được  thành  tựu,  huống  gì  chúng  ta  là  người học  tập  pháp  xuất  thế  gian  ?  Nhưng  vì  để  đạt  được mục đích tự mình giác ngộ và giác ngộ người khác thì không  thể  thiếu  vai  trò  của  trí  tuệ,  tuy  rằng  ý  nghĩa của lời Phật dạy rất sâu xa khó hiểu, nhưng khi chúng ta  tụng  đọc  kinh  điển  có  sự  trợ  giúp  của  trí  tuệ,  thì chánh tri chánh kiến phát sanh, nhờ vậy mà hiểu được ý nghĩa sâu xa của Phật pháp. Nói đến lòng từ bi, mỗi tôn giáo lớn đều có dùng đến khái niệm này, như nhà Nho  gọi  là  lòng  'Nhân",  đạo  Ky  Tô  gọi  là  'ái',  khái niệm  nhân  và  ái  không  giống  như  khái  niệm  từ  bi trong đạo Phật. Pháp Bốn vô lượng tâm là từ bi hỷ và xả là nói đến cái tâm vô lượng vô biên, không có giới hạn.  Ví  như  người  phát  Bồ  đề  tâm,  tâm  họ  thường nghĩ nhớ thương mến đến mọi loài chúng sanh đang sống  trong  khổ  đau,  lòng  thương  không  giới  hạn  đó gọi  là  lòng  từ  bi.  Ý  nghĩa  này  cũng  được  nhà  Nho miêu tả 'Kiến ký sanh bất kiến kỳ tử, văn kỳ thinh bất nhẫn  kiến  kỳ  nhục'.  Khái  niệm  'bất  nhẫn'  là  nói  lên lòng  trắc  ẩn  mà  hình  thành. 
            Trong  Đại  thừa  cấm không được ăn thịt của chúng sanh, đây chính là biểu hiện lòng từ bi trong Phật giáo Đại thừa. Tóm lại, nếu chúng  ta  có  lòng  tin  kiên  cố  là  điều  kiện  cơ  bản  để phát  sanh  trí  tuệ,  cũng  là  yếu  tố  duy  nhất  để  nuôi dưỡng lòng từ bi, Phật pháp cũng nhờ vậy mà dần dần được hưng thịnh.
            - Tín là trang nghiêm cõi tịnh độ
            - Trí là thanh tịnh thân tâm
            - Bi là tịnh hoá loài hữu tình.
            Nếu như chúng ta thành tựu 3 pháp tín, trí và bi là, có nghĩa chúng ta đã thành tựu yếu tố cơ bản của Bồ tát, vì tín có năng lực để trang nghiêm cõi Tịnh độ, hay vãng sanh vào cõi tha phương Tịnh độ, những sự thành tựu này đều do công đức thâm tín chư Phật và phát nguyện mà thành; Trí là điều kiện cơ bản để thân tâm được thanh tịnh, là công năng để giác ngộ chân lý, đoạn  trừ  tất  cả  phiền  não. 
            Thành  đạt  được  chánh  trí tuệ 3 nghiệp thân khẩu ý liền được thanh tịnh; Từ bi
là pháp để cứu giúp loài hữu tình, thực thi Bồ tát hạnh. Bồ tát cứu độ chúng sanh bằng nhiều hình thức khác nhau, có thể lấy vật chất để giúp đỡ sự nghèo đói, có thể  dùng  chính  trị,  đưa  ra  những  chính  sach  đúng đắng   tiến   bộ,   để   kinh   tế   phồn   vinh,   xã   hội   an định…điểm  này  chúng  ta  thấy  trong  kinh  điển  Đại thừa  có  rất nhiều  nơi  ghi  chép.  Nhưng  vai  trò  chính của Bồ tát cứu độ các loài hữu tình chính là thúc đẩy khuyến  khích  loài  hữu  tình  phát tâm bồ  đề,  làm  các việc lành, theo con đường chánh mà hướng đến quả báo an lạc.
            Do  đó,  nếu  như  chúng  sanh  có  hạnh  lành  của nhân thiên thì Bồ tát dùng pháp lành của nhân thiên mà hoá độ họ; nếu như người nào ưa thích pháp của hàng nhị thừa thì dùng pháp nhị thừa độ họ, nếu như người nào thích pháp nhất thừa thì lấy giáo pháp nhất thừa giáo hoá cho họ, nếu như có người ưa thích Phật thừa thì dùng Phật thừa pháp môn giới thiệu cho họ, khiến cho họ học tập hạnh Bồ tát, hướng đến Phật quả. Những việc vừa liệt kê đều xuất phát từ lòng từ bi của Bồ tát. Như vậy 3 việc của Bồ tát đạo là khởi lòng tin, sanh  trí  tuệ  và  trưởng  dưỡng  lòng  từ  bi.  Từ  đó  cho chúng ta thấy rằng từ vị trí con người phát tâm thực hành Bồ tát hạnh, lấy lòng tin, trí tuệ và lòng từ bi làm phương tiện tu tập, 3 phương diện này cùng nhau phát triển, không bỏ một pháp nào trong 3 pháp này, cũng không nên xem thiên về một pháp nào. Đây là pháp chân chánh của Bồ tát đạo.
            09-14-2008 07:23:55
--o0o--