TẤT CẢ ĐỀU LÀ LẼ ĐƯƠNG NHIÊN
LỜI GIẢI ĐÁP CHO CON NGƯỜI
Nhận Lỗi, Cần Có Dũng Khí
Tinh Vân Hoà Thượng
Hạnh Huệ soạn dịch từ Tinh Vân Bách Ngữ
---o0o---
Người, chẳng sợ phạm lỗi, mà sợ không có dũng
khí nhận lỗi.
Giữa người và người, chỉ có mạnh dạn nhận lỗi,
mới không lỡ mất cơ hội tốt, mới có thể nơi nơi an hoà vui
vẻ.
Thời đại Xuân Thu Chiến Quốc, có một chàng trai
có tánh cố chấp cỡi xe ngựa, đến phương Bắc, giữa đường gặp
một ông bạn già lớn tuổi.
Người bạn hỏi chàng:
- Anh định đi đâu?
Chàng trai đáp:
- Tôi muốn đến nước Sở.
Người bạn nghi ngờ hỏi:
- Nước Sở ở phương Nam, anh đi hướng Bắc, là
chạy ngược đường rồi!
Chàng trai biện bác:
- Không sao! Ngựa của tôi rất giỏi.
Người bạn không cách gì giải thích, lại hỏi:
- Cho dù là một con ngựa hay, ngày đi ngàn dặm,
nhưng lầm phương hướng, lại là không có biện pháp nào đạt
được mục đích!
Chàng trai chẳng cho là đúng, nói:
- Bác chẳng cần phí tâm, tôi có đủ lộ phí.
Người bạn nói:
- Tiền đi đường anh có nhiều đi nữa, nhưng
phương hướng của đường rốt cuộc không đúng, anh làm sao đến
nước Sở được?
Tuy người bạn mấy phen ngăn cản, mà chàng trai
này vẫn kiên trì giữ ý mình, nói:
- Không hề gì! Tôi lại có một xa phu giỏi đánh
ngựa.
Tóm lại, mặc tình người bạn phân tích giải thích
thế nào, chàng trai vẫn y như cũ chấp cứng lí do của mình,
"chết chẳng nhận lỗi"! Đây chính là người ngu si, người chấp
trước!
Chúng ta không nên chỉ cho đây là một câu chuyện
mà thôi. Kì thực, việc như thế cũng thường phát sinh trong
xã hội hiện đại. Tôi từng trông thấy một người mẹ rất từ ái,
nhân vì cô con gái sắp đi du lịch vùng núi lạnh lẽo, sợ cô
ta rét cóng, nên bảo cô rằng:
- Cục cưng, chỗ con đi rất lạnh, chẳng nên chỉ
lo chưng diện, cần mang nhiều quần áo nhen!
Cô gái đáp:
- Không cần đâu, lúc lạnh, tùy tiện đến đâu cũng
đều có thể mua một cái áo lông.
Người mẹ không yên lòng, nói:
- Nơi hàn đới xa xôi, thông thường rất khó kiếm
ra một cửa tiệm.
Cô gái lại nói:
- Không sao đâu! Con có thể kiếm một người để
mượn một cái.
Người mẹ nói:
- Nơi càng lạnh, càng ít người ở, con mượn ở
đâu?
Cô gái nói:
- Vạn nhất nếu quá lạnh không làm sao được thì
con lập tức trở về, không được sao?
Chẳng kể người mẹ dặn dò cặn kẽ, ân cần khuyên
nhủ thế nào, cô con gái cũng chẳng chịu dự bị nhiều y phục
mang theo một chút.
"Chết chẳng nhận lỗi" là bệnh chung của một số
người. Do đó, "nhận lỗi, cần có dũng khí". Tôi suốt đời đều
đem câu nói này làm bài minh khắc bên phải ghế ngồi của
mình.
Năm 1971, tôi định đem kiến trúc Hội Quán Triều
Sơn liệt vào công trình thứ nhất của Phật Quang Sơn. Vì tôi
cho rằng, Phật giáo hiện đại nên kết hợp làm một thể với đại
chúng trong xã hội, có thể cung cấp chỗ ăn ở tốt, mới có thể
làm tín đồ an tâm vui vẻ triều sơn lễ Phật, do đó kiến nghị
thiết lập một Hội quán Triều Sơn lộng lẫy đẹp đẽ. Không ngờ,
rất ít tín đồ ủng hộ kiến thiết này, mắt xem công trình
không cách gì tiến hành. Một hôm, pháp sư Từ Huệ thưa với
tôi:
- Tín đồ Đài Loan căn bản là không hiểu cái gì
gọi là "Hội quán Triều Sơn". Họ chỉ mong có điện đường để lễ
Phật, Sư phụ nên xây Đại Hùng Bảo Điện trước mới đúng.
Tôi vừa nghe, biết được lời cô ta rất hợp lí,
nên lập tức sửa ngay. Nhân đây những kiến trúc sau này của
Phật Quang Sơn một mạch hết sức thuận lợi. Nếu như tôi chỉ
dựa vào lí tưởng, chẳng có "dũng khí nhận lỗi", lại làm sao
có phương tiện sau này?
Tôi đề xướng Tăng đoàn dân chủ, bắt chước lối ba
phen yết-ma thời Phật. Mỗi lần mở hội tại Phật Quang Sơn,
khó khỏi có một số ý kiến bất đồng giữa đồ chúng và tôi.
Nhưng chỉ cần hợp lí, tôi lập tức tự mình sửa đổi, do đó tôi
tự hứa là một người "tùng thiện như lưu" theo điều thiện như
nước xuôi dòng; rất sợ đồ chúng cho là Sư phụ cũng là một
người "chết chẳng nhận lỗi". Càng lâu, người trước chẳng dám
chống trái, chỉ biết vâng vâng dạ dạ, không có suy nghĩ sâu
xa. Người sau thì noi theo bắt chước, chỉ biết chỉ trích
người khác, chẳng thể kiểm thảo chính mình. Cứ kiểu này,
Phật Quang Sơn làm sao có thể có sáng kiến đột phá, vì chúng
tạo phước được?
Vì tôi có kinh nghiệm dạy học trò nhiều năm, hễ
là người có thể tiếp nhận dạy dỗ "mạnh dạn nhận lỗi" thì
phần nhiều tiến bộ rất mau. Còn người việc gì cũng cho mình
có lí toàn bộ "chết không nhận lỗi" phần nhiều dẫm chân tại
chỗ. Tôi thường khuyên một số đồ chúng không giỏi về học
vấn, cần nên học tập kỹ thuật khác cho sớm, nhưng bọn họ lại
giữ chặt ý kiến của mình, chẳng chịu nhận là sai, tốn bao
nhiêu năm dùi mài học vấn, mới phát hiện lầm đường, sau hối
chẳng kịp. Lại có một số đồ chúng làm việc không thể nhìn
khắp đại cuộc, lười biếng chẳng hoà chúng, được răn nhắc
nhiều lần, lại "chết chẳng nhận lỗi", rốt cuộc chẳng có một
đơn vị nào muốn nhận họ làm việc. Lại có một số đại chúng
sau khi bỏ đi, tự biết có lỗi, mà không có dũng khí nhận lỗi
trước đại chúng, chỉ đành lưu lãng bên ngoài. Tuy tôi có
lòng khoan dung tiếp nhận, nhưng cơ bản là pháp tắc của tông
môn, cũng chỉ đành thở dài mà chịu.
Nhân đây, sự bình thuận an nguy của một đời
người, thực ra quan hệ mật thiết thập phần ở chỗ mình có
nhận lỗi hay không. Thậm chí từ xưa đến nay, bất kể một quốc
gia hay một đoàn thể, người chủ sự cho đến phần tử tạo thành
có thể nhận lỗi hay không, thường thường lại là then chốt
của sự thành bại được mất. Như Hạng Vũ phải nuốt hận thất
bại trong cuộc tranh hùng giữa Hán – Sở, chính là vì ông ta
cứng cỏi độc đoán, do đó mọi người xa lánh, cuối cùng tự vẫn
ở Ô Giang. Trước lúc lâm chung vẫn "chết không nhận lỗi",
còn than thở: Trời quên ta rồi! Trời quên ta rồi!
Chu Du là danh tướng thời Tam Quốc, lòng dạ hẹp
hòi, đố kỵ người hiền và người tài, làm mất cơ hội "liên
Thục diệt Nguỵ", đã chẳng biết phản tỉnh, ngược lại còn cảm
thán: "Đã sanh Du sao còn sanh Lượng", cuối cùng đành chết
sớm khi tuổi trẻ tài cao.
Xem lại Lưu Bang và Tào Tháo, một người nguồn
gốc quê quán không rõ ràng, một người bị đời chê là gian
hùng, nhân vì có thể nghe theo lời can gián, sửa đổi lỗi lầm
mà thành tựu nghiệp bá.
Tiên sinh Y Trọng Dung từng làm Bộ trưởng Kinh
tế của Trung Hoa Dân Quốc, năm 1950 giữ chức Ủy viên Chủ
nhiệm Hội Ngoại Mậu (mậu dịch với ngoại quốc) từng ban bố
biện pháp Trung Dược Hạn Khu Thám Cấu (thăm dò việc mua hạn
chế thuốc Bắc). Ba ngày sau, phát hiện tin tức thương mại
phán đoán là sai lầm, lập tức thủ tiêu lệnh trước, và tập
họp báo chí, công khai xin lỗi dân chúng. Lúc đó có ký giả
hỏi ông:
- Ông như thế chẳng phải là sáng ra lệnh, tối
cải chính ư?
Ông thẳng thắn đáp:
- Biết lầm mà không chịu sửa, làm sao được?
Do Y tiên sinh thật sự cầu đúng, có phong độ cải
chính kịp thời, lúc ấy đã đưa kinh tế Đài Loan phát triển
mau chóng, đến nay vẫn còn nhiều người nhớ mãi không thôi.
Gần đây nhất, báo chí đăng tải về tiên sinh
Nghiêm Trường Thọ, kinh doanh Á Đô Phạn Điếm có thành tích
rất lớn, mọi người trong ngoài đều nhất trí khen ngợi, được
mời đến Viên Sơn Phạn Điếm ở Đài Bắc để làm Tổng kinh lí.
Lúc ấy, ông rất phấn khởi, rất mong mình có một phen triển
vọng. Nhưng không bao lâu ông bèn đệ đơn từ chức, vì nhân
viên công tác không cách gì sửa đổi tập khí uy quyền thời
đại, "chết chẳng nhận lỗi", phối hợp gian nan, Nghiêm tiên
sinh mắt thấy không cách cải tiến, chỉ đành rũ áo ra đi.
Điều này đã nói rõ: Nhận lỗi cần có dũng khí. Có
thể mạnh mẽ nhận lỗi mới không để mất cơ hội phát triển.
Nhớ ba mươi năm trước, nhân con đường từ Đài Bắc
đến Phật Quang Sơn xa xôi, tín đồ phương Bắc nhao nhao thỉnh
cầu lập đạo tràng tại Đài Bắc, để cho họ thường thường nghe
kinh lễ Phật. Tôi cũng rất mong làm thoả mãn nhu cầu của mọi
người, do đó nghe ngóng khắp nơi xem có đạo tràng nào thích
hợp. Ban đầu chúng tôi xem khoảnh đất ở đường Trung Dân
Quyền phía Đông đối diện với Thiên Cung. Qua sự bàn bạc với
một vị từng trải, tuy giá tiền một bãi đất không bằng một
phần ba giá ở chợ, nhưng Phật Quang Sơn lại gánh không nổi,
kết quả để mất cơ hội này. Về sau, trên đất này mọc lên một
toà nhà lớn, mỗi lần ngồi xe ngang qua, lòng tôi nổi lên sự
tiếc nuối, hổ thẹn vô cùng với lòng thành khẩn của tín đồ,
nhân đây tôi phát nguyện một ngày nào đó mình có đủ năng
lực, nhất định phải xây dựng một đạo tràng hiện đại hoá rộng
lớn tại Đài Bắc. Về sau, tín đồ nghe được việc này, nhận
thấy tôi đã vì không thể cấp cho mọi người một chỗ tốt để lễ
Phật mà nhận lỗi, buồn bực, liền kêu gọi mọi người, hiệp trợ
bỏ tiền của ra. Năm 1994, cuối cùng mua được mấy tầng lầu
trong một toà lầu lớn, tập hợp Đạo Tràng Đài Bắc, Tổng Hội
Trung Hoa Phật Quang Hội, Phật Quang Duyên Mĩ Thuật Quán,
Phật Quang Duyên Trích Thuỷ Phường vào một chỗ, thực hiện
bốn lí tưởng về kiến trúc Phật giáo hiện đại mà tôi đã ôm ấp
nhiều năm nay – truyền thống và hiện đại kết hợp, Tăng chúng
và tín đồ cùng có, tu trì và huệ giải cùng trọng, Phật giáo
và nghệ văn hợp nhất.
Cuối hạ năm 1992, gió bão ập đến, nước lũ cuồn
cuộn dâng, mưa như trút nước thành thiên tai, làm cho phía
Nam Đài Loan thành một biển nước mênh mông, đất đá núi Đông
của Phật Quang Sơn cũng bị trôi mất không ít. Khi ấy tôi
đang ở nước ngoài, nghe tin vội vã trở về, nhìn đến đất đá
bị sụt lở và ruộng nương tan hoang xơ xác, thật là một trận
thương cảm, nhưng tôi chẳng hề trách móc chức sự chủ sự
không trông nom đầy đủ, phòng giữ chẳng nghiêm, ngược lại
chiêu tập đại chúng, rồi bảo họ:
- Lần này xảy ra việc ngoài ý muốn là tại tôi
lúc đầu không có dụng tâm làm bờ tường ngăn cho tốt, để
thường trụ phải chịu tổn thất.
Đồ chúng nghe rồi đều đồng thanh trả lời:
- Đây không phải là ngăn tường đất mà ổn cố
được, mà là chúng con không tùy thời thanh lí đường nước.
Thầy trò chúng tôi hỗ tương nhận lỗi, mọi người
đồng tâm hiệp lực ra sức cứu chữa, thậm chí mời công binh
thuộc Quân Đoàn Thứ 8 nghiên cứu công trình đại địa, lên núi
giúp đỡ, rất mau chóng, Đông Sơn lại khôi phục sự an tĩnh
tốt đẹp ngày xưa. Từ việc này, tôi thầm thầm cảm được: Một
cá nhân cần chịu "nhận lỗi", mới có người vui lòng giúp đỡ.
Nhân đây, chỗ nói rộng kết duyên lành, không hẳn hỏi han ấm
lạnh, cởi áo bưng cơm là đủ, mà lại nên ở lúc nhận lỗi, có
thể làm đến "nghiêm để trách mình, khoan để đãi người".
Trung Quốc thời xưa khi có tai hoạ, Hoàng đế bèn
hạ chiếu kể tội mình để cầu vỗ về lòng người. Ngày nay tại
thời đại dân chủ, ở Tây phương cũng có tình huống tương tợ.
Triết học gia Socrate lúc lâm chung, vẫn nhớ mãi
không quên đã thiếu người hàng xóm một con gà mà không cách
gì trả nổi. Mãi đến ngày nay, chẳng có ai phê bình Socrate
là nghèo túng, ngược lại ca ngợi ông là một triết gia thản
nhiên, chân thật ngay thẳng. Ba thế kỉ trước, vua A-dục
thống nhất toàn cõi Ấn Độ đã hướng về một Sa-di nhỏ mà xưng
tội. Tự xưa đến nay, không ai chê cười A-dục Vương là bậc
trên ngôi Cửu ngũ mà xin lỗi, ngược lại đồng thanh khen ngợi
mĩ đức mạnh dạn nhận lỗi của ông. Do đó, nhận lỗi không
những chẳng làm mất thân phận của chính mình mà ngược lại có
thể được tôn trọng nhiều hơn. Chỉ đáng tiếc rất nhiều người
không rõ ràng được sự áo diệu của nó, mà làm việc ngang
ngược, chẳng chịu cúi đầu, cuối cùng chính mình thành người
thua cuộc lớn nhất.
Nhớ lại hơn ba mươi năm trước, lúc xây dựng lại
chùa Lôi Âm lần đầu, nhiều lần thương lượng với nhà dân ở
trước cửa để họ bán đất dời đi nơi khác, tiện cho việc chỉnh
thể quy hoạch đạo tràng, tuy nhiều phen đề xuất phương án
tốt đẹp, chủ nhà vẫn trước sau chấp chặt ý kiến của mình,
không chịu lợi ích người khác. Về sau tín đồ nhân lúc tu
chung, ra vào bất tiện cũng nhiều lần khuyến cáo nhỏ nhẹ,
nhưng đối phương vẫn khăng khăng chẳng chịu nhượng bộ. Kết
quả bị mọi người oán trách, thật là tổn mình mà bất lợi cho
người.
Phật Quang Sơn khai sơn không bao lâu, mời một
vị dân làng ở kế bên làm một ít việc vặt cho chúng tôi. Tôi
từng cấp cho ông ta một ít tiền, nhờ ông ta mua một ít giống
cây ăn quả trồng chung quanh tự viện, đâu dè ông ta mua
xong, trồng trên đất của mình, rồi lại lén sửa đường nước,
đem nước dùng của chùa tưới ruộng vườn của mình, còn khoe
với người, đất của ông là đất hoàng kim. Trong lòng tôi
không khỏi nghĩ đến: Cây trái của anh như vàng, đều do Phật
Quang Sơn mà có, đâu có trồng cái gì được mà cho là tươi
tốt?
Về sau, tôi vì muốn cất Đại Hùng Bảo Điện, bèn
hỏi mua đất của ông ta. Đất của ông ta ngày lên giá ba lần.
Tôi hỏi:
- Tên của anh là Chúc Thành, vì sao không có
thói quen »trợ thành«.
Ông ta cứ nhơn nhơn đáp:
- Mỗi cá nhân đều muốn vì mình mà tính toán, tôi
không trợ thành là hẳn rồi.
Kết quả vì ông ta làm việc gì cũng không trợ thành, nên mọi
người đều ghét, nhất trí quyết nghị không dùng ông ta nữa.
Về sau nghe nói cả người nhà cũng không đếm xỉa đến ông ta.
Đây chính là hậu quả không có duyên với người.
Rất nhiều người hỏi tôi, vì sao đến đâu cũng
được người hoan nghênh? Tôi tự biết chỗ sở trường lớn nhất
của đời mình chính là có thể rõ lí, chịu nhận lỗi, nhân đây
chẳng kể lớn nhỏ quý tiện đều thích ở với tôi.
Có một năm, tôi dẫn phái đoàn đến Ấn Độ bái
Phật, giữa đường thỉnh mua một tượng Phật bằng đá, nhờ một
đoàn viên là cư sĩ Thái Thương Châu mang về Đài Loan. Việc
xong mới phát giác tượng đá này nặng một trăm ký, chẳng biết
cư sĩ Thái Thương Châu làm sao xoay sở? Nghĩ đến mình lúc đó
chỉ biết thỉnh mua, lại hoàn toàn chẳng xét đến người khác
vận chuyển cay đắng, tự nhiên lòng thầm xin lỗi. Về sau tôi
lúc nào cũng đến tiệm bánh mì Á Châu tại Thiện Hoá mua bánh
mì, để bù đắp lỗi vô tâm của mình. Thái cư sĩ nhiều năm nay,
một thầy một đạo, hộ trì Phật Quang Sơn, tuy không phải là
vì tôi thường mua bánh mì cho ông ta, nhưng vì tôi có thể
mạnh dạn nhận lỗi, tin rằng tình đạo giữa thầy trò gắn bó
nên cũng có chỗ trợ giúp dài lâu. Đến nay tượng Phật này
được đặt trong Bảo Tàng Quán Phật Quang Sơn cho mọi người
chiêm ngưỡng. Nay Thái cư sĩ ở cõi Phật có biết thì sẽ tha
thứ lỗi không biết của tôi.
Giác Mục theo học tại Mĩ từ nhỏ đến lớn, sau khi
tốt nghiệp Đại học Kiến trúc ở Đức, theo tôi xuất gia về đến
Đài Loan, một lòng định đến Tòng Lâm Học Viện Phật Quang Sơn
nghiên cứu Phật học, gặp đúng lúc Phật Quang Sơn xây cất Đại
Học Nam Hoa, cần sự chuyên môn của anh ta, do đó muốn anh ta
trước tiên đến chỗ trù bị Đại học để trợ giúp. Chỉ nhìn thân
thể ốm gầy của anh, bôn ba Nam Bắc không dừng, lúc thì đến
Đại Học Nam Hoa ở rừng lớn Gia Nghĩa xem xét tiến độ thi
công, lúc thì đến Đại Học Phật Quang ở suối đá Nghi Lâm để
giải quyết trạng huống công trình. Tuy anh ta bày tỏ tâm
tình nguyện như thế, nhưng tôi lại bất nhẫn, do đó mỗi lần
thấy anh về núi, đều phải lưu tâm vồn vã đến anh một chút,
cũng cho là một lối biểu lộ lòng đền bù, đâu ngờ lại khiến
anh ta càng ra sức công tác, như nay anh ta đã là Phó chấp
hành Trưởng hội quỹ Tịnh Độ Văn Giáo.
Xuất gia học đạo tròn sáu mươi năm đến nay, ứng
sự tiếp vật, khiến tôi ngộ ra cái đạo lí làm người:
"Anh đúng tôi sai,
anh tốt tôi hư,
anh lớn tôi nhỏ,
anh vui tôi khổ".
Tôi chẳng những đem bốn câu kệ này treo ở bên
miệng để giáo dục đồ chúng, mà lại thường dẫn dùng một câu
chuyện để nói rõ đạo lí đó:
Ngày trước có một nhà họ Trương và một nhà họ Lí
ở sát cạnh nhau. Nhà họ Trương thường gây gổ nhau không dứt,
họ Lí lại hoà mục tương kính. Một hôm ông Trương hỏi ông Lí:
- Vì sao nhà ông chỗ nào cũng vui vẻ sung mãn,
nhà tôi ngày ngày cứ y như bãi chiến trường?
Ông Lí trả lời:
- Bởi vì nhà ông đều là người tốt, còn nhà tôi
đều là người xấu.
Ông Trương không hiểu, hỏi lại:
- Lời này là sao?
Ông Lí đáp:
- Ví dụ như ở nhà tôi, nếu có người làm vỡ tách
trà, nhất định có người vội vàng nhận lỗi: Tôi
thật tệ quá, đặt chén trà quá gần mép bàn, làm anh bị ướt cả
người, tay anh có bị sao không? Người làm vỡ tách trà cũng
vội vàng nói: Không sao! Không sao! Tại tôi vô ý, xin lỗi,
đã khiến anh hết hồn!
Nhưng, việc này nếu xảy ra ở nhà ông thì người
làm vỡ sẽ nói:
- Ai đây thật chẳng có đầu óc, đem tách trà để
gần mép bàn thế này, hại ta toàn thân ướt hết?
Một người khác lập tức cãi lại:
- Chính tôi để tách trà, thì sao? Tự anh không
cẩn thận, lại muốn đổ cho người khác!
Cứ thế anh một lời, tôi một tiếng, mọi người đều chẳng nhận
lỗi, đương nhiên là không có an ninh.
Em trai pháp sư Y Không là cư sĩ Trương Tấn Huy
ở Phổ môn Trung học Giáo thư có nuôi hai đứa con thiên tư
thông huệ, hoạt bát đáng yêu. Một hôm, chính lúc ông vì sự
dạy dỗ con mà mệt óc, nghe tôi kể lại chuyện này, thấy rất
có đạo lí, lập tức về nhà ứng dụng. Trên bàn ăn, đứa con
than thở cơm rau ăn chẳng ngon. Trương cư sĩ lập tức áy náy
hiện lên mặt nói:
- Đều tại cha vô dụng, cha không kiếm được nhiều
tiền, không thể cung cấp cho các con đời sống thật tốt, cha
xin lỗi các con!
Mấy đứa con nghe cha nhận lỗi, lại cảm động, lại
thẹn thùng, cả hai đều nhất trí nói:
- Cha rất vĩ đại, tụi con muốn học cho giỏi, về
sau sẽ dâng món ngon nhất để trả hiếu cho cha.
Có thể thấy, nhận lỗi không phân lớn nhỏ, chỉ ở
chỗ chúng ta có đủ dũng khí hay không. Người có thể nhận lỗi
chân thành, mới có thể ở khắp nơi hoà hợp an ổn, một bề hoan
hỉ.
Phật giáo mười phần chú trọng tu trì "nhận lỗi",
ngoài các pháp môn Sám hối ra, đạo tràng tòng lâm tuyển chọn
trụ trì, cũng lấy sự cúng dường đại chúng, có mĩ đức "dám
mạnh dạn nhận lỗi" hay không để làm một trong những tiêu
chuẩn. Vì người mạnh dạn nhận lỗi mới có thể đem thân giáo
ra lãnh chúng, dạy chúng, làm chúng phục, hoà hợp chúng.
Như thiền sư Pháp Ngộ đời Tấn là Trụ trì chùa
Trường Sa ở Giang Lăng. Một hôm, nhận gậy phạt của Sư phụ là
đại sư Đạo An gởi đến, lập tức lãnh ngộ: Đây là Sư phụ răn
nhắc lỗi Sư trước đó không lâu đã xử phạt sơ sài một chú
Sa-di uống rượu mà không dời chỗ (thiên đơn). Sư lập tức
đánh chuông họp chúng, thành kính thắp hương trước gậy trang
có hình phạt, biểu thị kính lãnh lời dạy của Thầy, rồi nằm
xuống đất, sai Duy-na lấy gậy đó đánh Sư ba cái, và khóc lóc
tự trách. Sau đó, hai chúng Tăng tục càng thêm tinh tấn đạo
nghiệp. Trong ngữ lục thiền môn lại đầy dẫy công án giữa
thầy trò dùng hét mắng để luận đạo. Chẳng những học trò lúc
lỗi lầm có đủ mạnh dạn để nhận tội, mà ngay nếu ông thầy
chẳng đúng cũng hào hiệp cúi đầu xin lỗi. Chính vì vậy,
thiền tông có thể đem đạo phong hoạt bát linh lợi mà lưu
truyền lâu xa, những câu "Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác
chậm", "Buông dao đồ tể, ngay đó thành Phật". Người ta,
chẳng sợ phạm lỗi, chỉ sợ không có "dũng khí để nhận lỗi".
Trong thời đại khai phóng ngày nay, thường thấy sách vở
ngành nghề và các nhân sĩ nổi tiếng thường khuyến khích mọi
người "Tiến lên, cần có dũng khí", "Biểu đạt, cần có dũng
khí". Tôi thường nghĩ có nên đề xướng tinh thần "Nhận lỗi,
cần có dũng khí" hay không? Vì chỉ có giữa cha mẹ với con
cái, giữa thầy trò, giữa chủ tớ, giữa quan và thuộc hạ đều
có thể có đủ mĩ đức "mạnh dạn nhận lỗi", đất nước chúng ta
mới có thể tiến bộ phát triển thêm, xã hội chúng ta mới
thuận hoà an ổn.