TẤT CẢ ĐỀU LÀ LẼ ĐƯƠNG NHIÊN
LỜI GIẢI ĐÁP CHO CON NGƯỜI
Bị Lãnh Đạo Học
Tinh Vân Hoà Thượng
Hạnh Huệ soạn dịch từ Tinh Vân Bách Ngữ
---o0o---
Hoa hồng phải có lá xanh kề cận, trăng sáng phải
có các ngôi sao tô điểm thêm, đem chính mình dung nhập người
khác, nhập khắp trong đại ngã, cũng là thành tựu chính mình
trong tự kỉ rộng lớn.
Rất gần đây, những sách vở về lãnh đạo học,
thống ngự học, thống soái học, chủ quản học đầy dẫy ở các
tiệm sách, rất phù hợp với quan niệm của người Trung Quốc
"Thà làm đầu gà hơn làm đuôi trâu". Kì thực theo sự lịch
duyệt một đời của tôi mà nói thì bị người lãnh đạo mới là
một môn học trọng yếu, hơn nữa người có thể bị người lãnh
đạo, tương lai mới có thể làm tốt vai trò lãnh đạo. Tôi cảm
nhận sâu xa rằng lãnh đạo người khác cố nhiên rất khó làm
cho tốt, nhưng có thể khéo bị người lãnh đạo cũng chẳng phải
là việc dễ. Do đó, ngay lúc mắt thấy mọi người khao khát làm
người lãnh đạo, tôi chẳng đừng được mà phải vội kêu to lên:
Làm một người bị lãnh đạo thành công mới là một môn học
trọng yếu nhất.
Tôi từ nhỏ xuất gia, cứ mong có thể có một vị
lãnh đạo để cho tôi theo học hỏi bắt chước, lúc đó đại sư
Thái Hư nhận thấy Phật giáo Trung Quốc chứa chất những tệ
hại rất sâu, do đó cực lực đẩy mạnh sự cải cách giáo chế,
giáo lí, giáo sản. Lòng từ bi và nguyện lực của Ngài, học
vấn và sự hàm dưỡng của Ngài, nhiệt tình đam mê vì đạo của
Ngài, sự dũng mãnh gánh vác của Ngài… đâu đâu cũng đều trở
thành đối tượng rất đáng ngưỡng mộ trong tâm mắt của bao
nhiêu Tăng-già thanh niên. Tuy tôi chỉ đích thân nhận lời
dạy dỗ một hai lần, nhưng tâm thường hướng về Ngài, thậm chí
thường nghĩ, nếu như ngày nào đó được hết lòng phục vụ cho
Ngài, dù cho vào dầu sôi lửa bỏng cũng chẳng từ nan.
Năm 1964, tôi thật chẳng dễ dàng gì khi được Sư
phụ là Thượng nhân Chí Khai cho phép chuẩn bị trở về nhà.
Đây là lần đầu tiên kể từ khi xuất gia, tôi được về thăm
thân thuộc. Đúng lúc mừng chưa kịp dứt thì tin tức truyền
đến đại sư Thái Hư đề xướng tổ chức "Ban Huấn Luyện Nhân
Viên Hội Vụ lần thứ I của Hội Phật Giáo Trung Quốc", tôi lập
tức bỏ ngay kế hoạch về quê, tranh thủ tham gia, trở thành
một trong những hồi ức khó quên suốt đời tôi.
Trung Quốc Phật Giáo Hội chính ngay lúc dự trù
tổ chức Đại hội lần thứ I, thì đại sư Thái Hư viên tịch tại
Thượng Hải, tin buồn làm kinh động toàn thể giới Phật giáo,
hai chúng Tăng tục đều đau xót khôn tả, tôi cũng như sét
đánh giữa trời quang, suốt ngày mất hồn lạc vía, cảm thấy
tiền đồ một trời mù mịt, giống như mặt trời mặt trăng không
ánh sáng, mặt đất một màu đen tối, chẳng biết đi đâu, đến
đâu? Vì đây không phải là một tổn thất riêng cá nhân tôi, mà
cũng vì tương lai của Phật giáo Trung Quốc mà lo lắng. Về
sau tôi nghĩ đến bạn đồng học là pháp sư Trí Dũng là người
viết hay nói giỏi, văn võ song toàn, bèn một lòng tìm theo,
và nhiều lần gởi thơ muốn đem chức Hiệu trưởng trường Quốc
Tiểu ở Nghi Hưng giao cho Sư, mời mau đến lãnh đạo. Sau này
vì một cơ duyên nọ, chúng tôi chia tay rời khỏi Nghi Hưng.
Lúc vừa đến chùa Hoa Tạng ở Nam Kinh, tôi cũng ủng hộ Sư làm
trụ trì và tự nguyện làm phó, tiếp nhận lãnh đạo, hết lòng
hết dạ tận trung, cùng vì phục hưng Phật giáo mà gắng sức.
Năm 1949, chúng tôi giao ước với nhau chia ra để
gắng sức, hi vọng nhân ở chân trời góc biển này, chia đèn vì
đạo. Về sau Sư từ Nam Kinh lại trở về Nghi Hưng, tôi từ Đại
Lục đến Đài Loan, từ đây quan san cách trở, chẳng có một
chút âm hơi. Trong lòng tôi vẫn mong có một vị đại đức để
tôi theo bên cạnh, vâng theo sự lãnh đạo, do đó tôi quan sát
rất lâu, chuẩn bị chọn Chúa để thường theo. Trong lúc tìm
tìm kiếm kiếm, tôi phát hiện chỉ toàn có đại đức giỏi về
nghiên cứu giáo lí, có đại đức rành về phân tích thời thế,
có đại đức khéo về phê bình chính luận, có người ngồi yên ở
địa vị vinh hiển trên cao, nhưng đều chưa thể hoài bão lí
niệm chấn hưng Phật giáo. Ngoài lúc mịt mù vô chủ ra, tôi
càng thêm khát vọng có thể xuất hiện một vị không có lập
trường chủ quan tự lợi, mà là bậc Cao tăng đại đức chân
chính quan tâm đến toàn bộ Phật giáo để làm đối tượng cho
mình y chỉ.
Năm 1955, đoàn tuyên truyền Đại Tạng Kinh Hoàn
Đảo Hoằng Pháp thành lập, tôi đảm nhiệm lãnh đội đi theo
Pháp sư đoàn trưởng là Nam Đình bố giáo khắp nơi. Nắm giữ
phận thuộc hạ gánh vác lo lắng lao nhọc cần phải có thái độ
vâng lời, chỉ là pháp sư Nam Đình có tánh bảo thủ, thường ra
chỉ thị cho tôi kiểu này không làm được, lối kia không thể
làm, do đó tuy thời gian hợp tác chưa hề phát sanh tranh
chấp, nhưng trong lòng tôi thầm lấy làm tiếc. Tôi tự thuỷ
chí chung chưa hề có vẻ mặt không vui, tôi vui mừng vì may
mà chính mình có thể tiếp nhận sự lãnh đạo của người khác.
Năm 1963, tôi và pháp sư Bạch Thánh tổ chức đoàn
phỏng vấn đầu tiên của hội Phật giáo Trung Quốc đến phỏng
vấn các nước trên thế giới, từng nhiều lần suy nghĩ đóng vai
trò trợ lí tốt, đâu dè thân làm Phát ngôn nhân mà tôi lại
không được phát ngôn. Tôi có thứ cảm giác không được người
tôn trọng, tuy người khác không tôn trọng tôi như thế, nhưng
tôi vẫn muốn tôn trọng người khác, cuối cùng mới được kết
cuộc viên mãn.
Bốn mươi năm trước, thấy rằng Thánh giáo không
được sáng sủa, phần lớn Phật tử theo tập quán cũ chỉ nghĩ
hướng bên ngoài cầu phước, chẳng biết chính mình phải thực
tiễn, tôi cũng từng một phen vì người biên tập tạp chí Nhân
Sinh, vì người giúp công tác in ấn phát hành in ảnh Đại Tạng
Kinh, hi vọng nhờ đây thúc đẩy sự nghiệp văn hoá Phật giáo,
nhưng người chủ sự chỉ nghĩ việc giữ sự thành công, cùng với
lí niệm khai mở của tôi không cách gì phù hợp, tuy tôi không
vừa lòng tác phong lãnh đạo ấy trước sau nhiều năm, đến khi
tôi bảo với ông ta xin rút lui, ông ta vẫn khăng khăng không
bỏ, nói rằng tôi rất thích hợp theo ông ta công tác. Đây có
thể chứng minh một điểm là tôi hiểu cách để người lãnh đạo
mình.
Cho dù việc đời không cách gì trọn vẹn như mình
mong ước, tôi lại mười phần tận lực làm tốt công tác trợ tá.
Tôi từng thân cận Lão Hoà thượng Diệu Quả là Lí sự trưởng
Hội Phật giáo ba nơi Tân Trúc, Đào Viên, Miêu Lật, làm trợ
lí cho Ngài. Trong ký ức, các loại kế hoạch tôi đã dự định,
các thứ công văn hồi đáp, chưa từng thấy Ngài động thêm một
chữ, các loại sự hạng kiến nghị, các thứ hoạt động xếp đặt
chỗ tùng sự, cho đến hội khách, phiên dịch cũng chưa từng
thấy Ngài phủ quyết. Chẳng những như thế, vào thời đại giao
thông bất tiện lúc ấy, lại nhờ ơn Ngài đích thân đem tôi
trèo non lội suối, chu du các khu vực của khách mời, như núi
Sư Đầu Trúc Nam, chùa Pháp Vân ở Đại Hồ, Sư Thiện Đường ở
Trúc Đông, chùa Triều Âm ở Quan Tây, cho đến Bình Trấn,
Dương Mai, còn có rất nhiều đạo tràng Tân Trúc, Miêu Lật,
đều cảm tạ lòng từ bi hướng dẫn của Ngài cho tôi kết nhiều
nhân duyên. Nhớ một hôm, trời rất nắng, Ngài đem tặng tôi
một cái mũ kiểu Nã Phá Luân để che nắng. Mãi đến hôm nay,
tôi vẫn xét không thấu huyền cơ trong lòng Lão Hoà thượng.
Tôi cũng từng làm trợ biên Từ Hàng Pháp Sư Toàn
Tập, và nhiều lần đến thăm viếng pháp sư Từ Hàng, được Ngài
từ bi che chở, tiếp đãi thân thiết. Ngài tuy là bậc trưởng
bối của tôi, nhưng mỗi lần viết thơ đều gọi tôi là Vân đệ,
có thể nói vô cùng thương mến. Bất hạnh là lúc sáu mươi
tuổi, đúng như người ta nói: "Thuyền từ dừng lúc hải triều
xuống về đêm". Tôi vì chưa thể được gần gũi lâu dài, được
Ngài lãnh đạo, đến nay nghĩ lại, rất tiếc mình duyên mỏng.
Do mấy lần chưa thể được người lãnh đạo trường
kì như nguyện, chỗ nói "Trong đất Thục không có đại tướng,
Liêu Hoá làm tiên phong", dưới tình huống bất đắc dĩ, tôi bị
thanh niên Phật tử từ từ đẩy lên địa vị người lãnh đạo. Từ
năm 1953 về sau, tôi đều đảm nhiệm những chức vụ trụ trì,
hội trưởng, hiệu trưởng, viện trưởng, sở trưởng… lại càng
thể hội ra "Bị người lãnh đạo là điều may mắn, lãnh đạo
người khác là điều cay đắng".
Một con đường đi này, tôi tuy chưa từng kiếm
được người lãnh đạo vừa tầm mắt mình, nhưng nhân vì tôi cam
chịu tùy duyên, bị người lãnh đạo, chẳng những ngộ ra một
phương pháp lãnh đạo, lại thầm thầm cảm được câu "Chim hay
lựa cây mà đậu, trung thần chọn chúa mà hầu", thật là lời
chí lí vang dội, càng lâu càng mới.
Nói cách khác, một người bị lãnh đạo đúng đắn
nếu như kiếm được danh chúa, ắt có thể vui lòng tùng phục,
buông hết dục vọng "thượng, trung, tiền" (thỉnh khách ngồi
địa vị trên, chụp ảnh ngồi ở giữa, đi đường đi đằng trước),
dẹp hết kiến chấp riêng mình, luôn luôn nhớ đứng vai trò phụ
tá giỏi, không những chẳng nên phê bình người lãnh đạo, lại
không nên bán đứng người lãnh đạo để cầu vinh cho chính
mình. Một người thuộc hàng con cháu bị người lãnh đạo, không
được lợi dụng danh tiếng của người lãnh đạo, mà phải nên
khéo thể hội lí niệm của người lãnh đạo, siêng năng chấp
hành chỉ thị của người lãnh đạo. Lạc Nghị thời đại Xuân Thu
nói: "Quân tử tuyệt giao, không nói ra tiếng ác, trung thần
bỏ nước, chẳng trong sạch thanh danh của mình". Như Lưu Dung
ngay thẳng không dua nịnh, tận trung giữ chức; Hoà Thân thì
khôn ngoan xảo quyệt, chỉ lo tự lợi. Hai loại người bị lãnh
đạo mà hình thái bất đồng, kết quả người trước lưu tiếng
thơm trăm đời, người sau để tiếng thối vạn năm, thật đủ cho
người đời sau suy nghĩ sâu xa mà chọn lựa.
Đối với đồ chúng, tôi chẳng tự cho mình ở chỗ
người lãnh đạo, mà đều nương dùng lời khéo dẫn dụ, quán xét
căn cơ để dạy dỗ. Đại đa số đệ tử đều cam tâm tình nguyện,
hết lòng phục tùng lãnh đạo, trên cương vị công tác siêng
năng tinh tấn, nhưng cũng có một số đệ tử bề ngoài thì thuận
theo, trong lòng lại còn kiến chấp sâu dày. Đối với loại
người này, tôi cũng chỉ đành giả điếc giả câm, nhịn đau mà
nhìn họ chịu vấp váp về sau hối hận biết vậy chẳng làm. Có
lúc, tôi cũng để cho một số đệ tử gặp được cơ hội làm người
quản lí cho tôi, để họ trong lòng cao hứng một chút. Do đó,
có lúc đi đường, nghe thiện ý của họ muốn tôi tiến tới, lui
sau, tôi đều tuân thủ hết, có lúc ăn cơm, nghe họ hảo tâm
muốn tôi ăn món này món nọ, tôi cũng đều nghe lời… cho đến
lúc khai hội, đệ tử đưa ra ý kiến hay, tôi đều "tùng thiện
như lưu". Lúc làm việc, đồ chúng có kế sách tốt, tôi cũng
tùy hỉ tiếp nạp. Cũng cho là vì tôi có sẵn tính cách "bị
người lãnh đạo" này, do đó có thể dung hợp ở chung với đệ
tử, hoà hợp không ngăn cách.
Đến như Phật Quang Hội do tôi thiết lập, hội
trưởng, cán bộ… của các địa phương, các phân hội phần nhiều
là những vị tinh anh trong xã hội, có sự nghiệp thành đạt,
mọi người ở dưới sự tín ngưỡng Phật giáo nhân gian của
Phật-đà mà đoàn kết hợp tác, do đó tôi đối với việc lãnh đạo
họ cũng chỉ giới hạn ở sự chỉ điểm trên tín ngưỡng, ngoài ra
như những vấn đề tình cảm, sự nghiệp, hữu nghị, hôn nhân,
tôi đều né tránh khỏi can dự. Do nhận rõ ranh giới kia đây,
do đó có thể tụ họp cùng hiểu biết, phát huy lực lượng.
Trong tùng lâm, trụ trì tuy quý vì làm chủ một
chùa, nhưng hễ tiến ra đạo tràng đều phải tuân thủ quy củ
khách đường, việc trước tiên phải báo cho tri khách xếp chỗ,
sư huynh xuất gia trước dù cho tuổi tác già cả, cũng phải
tuân theo luân lí công tác, phục tùng sư đệ có cấp bậc cao
hơn lãnh đạo làm việc. Đây chính là Trưởng lão của giới Phật
giáo, người đảm nhiệm và người bị lãnh đạo, lấy pháp chế làm
sự tôn trọng, không kể danh vị, nhìn khắp cổ kim, có thể nói
là rất hợp với luân lí công tác, rất hợp với nghệ thuật làm
người.
Xem kinh điển, Bồ Tát Quán Thế Âm vốn đã chứng
ngộ Phật quả trước vô lượng kiếp, tên Chánh Pháp Minh Như
Lai, lại cam chịu cỡi ngược thuyền từ, tiếp nhận sự lãnh đạo
của Phật A-di-đà, tại thế gian theo tiếng cầu xin mà cứu
khổ, do đó uế độ Ta-bà được có quang minh. Bồ Tát Di-lặc và
Phật Thích-ca vốn là đạo hữu đồng tham học, nhưng do người
trước thích làm Bồ Tát bổ xứ, tiếp nhận sự lãnh đạo của
người sau, khiến cho Phật tử đời sau có may mắn được độ toàn
bộ ở ba hội Long Hoa. Chư Phật Bồ Tát còn như thế, chúng ta
là phàm phu tục tử càng nên buông hết quan niệm tôn ti lớn
nhỏ, lấy hạnh phúc của chúng sanh, an lạc của thế giới làm
trọng.
Xem lại sử sách, Chu Công phò tá Chu Thành
Vương, người sau chẳng những khen ngợi lòng nhân từ yêu dân
của Thành Vương, mà đối với sự liêm chính hiền đạt của Chu
Công càng thêm thán phục. Nguỵ Trưng phụ bật Đường Thái
Tông, người sau chẳng những ca ngợi Thái Tông biết nhận lời
hay, mà còn cảm động không thôi vì lòng tận trung với nước
của Nguỵ Trưng. Như Gia Cát Khổng Minh phò tá A Đẩu ngu
muội, cha của A Đẩu là Lưu Bị tuy chỉ rõ Gia Cát Lượng có
thể thay người khác, nhưng Gia Cát Lượng vẫn một lòng vì
chúa, cúc cung tận tuỵ đến chết mới thôi. Lưu Bá Ôn giúp
Minh Thái Tổ được thiên hạ, lại cam chịu làm một mưu thần
dưới trướng, cống hiến kế sách hay…, những chuyện này đều
thành những giai thoại đẹp đẽ, truyền tụng đến nay. Nhân
đây, người bị lãnh đạo tuy bề mặt địa vị hơi thấp, nhưng chỉ
cần chịu ẩn giấu tài năng, hàm dưỡng nhân cách, giữ vững
cương vị, hết lòng phụ giúp, đến khi thành tựu, cũng đủ được
khen ngợi bằng với người lãnh đạo. Tại Trung Quốc thường gọi
vợ là hiền nội trợ, thời đại nam nữ bình quyền ngày nay,
hiển lộ người nữ bị thấp một bậc, nhưng suy cho kỹ, trên
thực tế trong một gia đình nếu như không có mẹ, vợ thì làm
sao thành nhà? Do đó một người hiền nội trợ chân chánh phải
đủ điều kiện hiền huệ, cần lao, đảm đang, thân thiện. Tại Âu
Mĩ, bên cạnh nhân vật trọng yếu đều có rất nhiều trợ lí giúp
họ thu xếp công việc, xã hội Trung Quốc một bề gọi là bí
thư. Bất kể là trợ lí cũng tốt, bí thư cũng tốt, so với yếu
nhân, dường như đều ở địa vị bị lãnh đạo thấp kém, nhưng tất
cả việc quan trọng nếu không có sự thúc đẩy của trợ lí, bí
thư thì không cách gì xong việc.
Do đó thân làm một thuộc hạ bị người lãnh đạo,
trừ điều kiện phải xem trước ngó sau, kế hoạch công việc đầy
đủ, giao tiếp dung hoà với người, siêng năng chịu khó ra,
lại cần phải có đức tính tốt đẹp như trung thành không đổi
dạ, thông đạt tình lí, biết tiến lùi, không vượt quá phận
mình. Kị nhất là chỉ thấy lợi gần, dối trên gạt dưới, tiếp
đón phan duyên, cong queo tà vạy. Chỗ nói "Thế sự thông đạt
đều học hỏi", nhân gian có chỗ nào không phải là tấm gương
cho chúng ta học tập. Anh xem, hoa hồng cần phải có lá xanh
kề cận, mới có thể hiển lộ vẽ mĩ cảm hoàn chỉnh, trăng sáng
cũng cần có những ngôi sao tô điểm, mới có thể biểu hiện sự
mĩ lệ giữa trời đêm. Bị lãnh đạo là một môn học vấn lớn
nhất, người bị lãnh đạo có thể làm được đúng quy củ trong
chức vụ của mình, đem chính mình dung nhập người khác, nhập
vào khắp trong Đại ngã, cũng là thành tựu chính mình trong
tự kỉ rộng lớn.