SỨC MẠNH HOÀ HỢP
HT.Thích Trí Quảng
---o0o---
Được sự phân công của Thường trực Hội đồng Trị
sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, chúng tôi hướng dẫn phái
đoàn Trung ương Ban Phật giáo Quốc tể, Ban Hoằng pháp, Ban
Từ thiện xã hội cùng chư Phật tử đạo tràng Pháp Hoa miền Bắc,
miền Nam đi thăm viếng và cúng dường chư Tăng Ni trường hạ
tại các tỉnh miền Trung.
Trải qua năm nhiệm kỳ, 26 năm, tôi nhận trách
nhiệm Trường ban Hoằng pháp và công việc hoằng pháp tại tất
cả các tỉnh thành được tốt đẹp một phần cũng nhờ sự quan tâm
hỗ trợ của chư tôn đức. Hôm nay, tôi chuyển sang công tác
mới mà Giáo hội giao phó là Trưởng ban Phật giáo quốc tế,
nhưng tôi vẫn coi hoằng pháp là công việc của người tu. Vì
vậy, tôi mong qua nỗ lực phát triền ngành hoằng pháp vì Đức
Phật dạy người xuẩt gia chỉ có một việc duy nhất là hoằng
pháp lợi sinh, còn những việc khác đã có Hộ pháp Long thiên
và cư sĩ tại gia đảm trách.
Về phương diện quan hệ Phật giáo quốc tế , song
song với sự phát triển của đất nước theo chủ trương Việt Nam
muốn làm bạn với các nước trên thế giới, giới phật giáo
chúng ta cũng mở tầm nhìn mới đến các nước bạn. Có thể nói
mối quan hệ giữa Phật giáo Việt Nam và Phật giáo cá nước
được xếp hàng đầu mà Giáo hội chúng ta phải quan tâm. Nhận
lãnh trách nhiệm này, kèm theo trách nhiệm Trưởng ban Nội
dung Đại lễ Phật đản năm nay tôi nhận thấy đã có sự thay đổi
lớn lao của vị trí Phật giáo trong thời hiện đại. Thật vậy,
năm 1999, Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc đã công nhận Lễ Phật
đản là ngày lễ của nhân loại, nhưng đến năm 2004, mới có
sáng kiến của Phật giáo Thái Lan tổ chức Lễ Vesak quốc tế
tại nước này. Và đến năm 2006, Lễ Vesak được tổ chức lớn hơn
nữa, quy tụ gần 60 quốc gia, trong đó Đại biểu của Phật giáo
Việt Nam là đoàn đông nhất trong các khách mời với trên 200
người vừa 1à thành viên chín thức vừa là quan sát viên,
khiến bạn bè năm châu tham dự lễ đã có cái nhìn khác về Phật
giáo Việt Nam. Nghĩa là trước kia, họ nghĩ rằng Việt Nam
không có tự do tín ngưỡng, Phật giáo không phát triển được.
Nhưng Đại lễ Phật đản năm 2006, đoàn Phật giáo của chúng ta
đông số lượng và chất lượng học vấn của Tăng Ni cũng vượt
trội, vì đã có một số lớn Tăng Ni trẻ xuất thân từ các học
viện có học vị thạc sĩ, tiến sĩ. Tham luận chính thức của
đoàn, chúng ta còn có thêm năm bài tham luận tại các hội
thảo chuyên đề.
Từ cái nhìn khác về Phật giáo chúng ta, có những
vị đã đến hỏi tôi về sinh hoạt Phật giáo Việt Nam. Tôi giới
thiệu tổ chức của Giáo hội chúng ta hình thành từ năm 1981
đến nay chỉ có một Giáo hội duy nhất trong nước. Điều này đã
làm họ ngạc nhiên, vì theo quan niệm thông thường, hợp nhất
là thu hẹp phân tán mới phát triển được và phân tán càng
rộng, tổ chức phát triển càng nhanh. Nhưng chúng ta đã tạo
kết quả ngược lại từ sự thống nhất, hợp nhất. Thực tế đã cho
thấy trong những thời kỳ sinh hoạt Phật giáo chúng ta phân
tán một cách tự do thì càng phân tán, chúng ta càng không
gặp nhau và càng xa rời cội gốc của đạo pháp, để cuối cùng
dẫn đến không hiểu nhau, chống phá nhau và kết thúc bằng sự
tan rã, một điều mà chắc chắn đệ tử Phật không hề mong muốn.
Đức Phật dạy mỗi người đi hoằng pháp một phương
nhằm phát triển đạo Phật, nhưng cốt lõi phải giữ được sự hợp
nhất. Đệ tử Phật dùng vô số phương tiện cứu độ chúng sinh,
nhưng hương vị giải thoát của đạo Phật không được xa rời;
phải hợp nhất để tìm được chân lý và sống gải thoát. Tuy
nhiên, khi hợp nhất, chúng ta dễ thấy bị ràng buộc, bị cơ
chế làm khó khăn, cảm thấy khó chịu; nhưng sinh hoạt hợp
nhất lâu dần, chúng ta sẽ nhận thấy rõ có lợi hơn là phân
tán, vì học được lẫn nhau những điều hay, thấy được mặt mạnh
để phát huy và mặt yếu để khắc phục, tạo được sức mạnh của
một tập thể hòa hợp, đoàn kết.
Giáo hội chúng ta phát triển được đến ngày nay
nhờ có sinh hoạt hợp nhất và tinh thần hợp nhất này đã từ
trước kia. Thật vậy, năm 1950, sáu tập đoàn Phật giáo của ba
miền Bắc, Trung, Nam đã hợp nhất thành Tổng hội Phật giáo
Việt Nam. Năm 1964 hợp nhất được 11 giáo phái thành lập Giáo
hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Nhưng sinh hoạt Phật giáo
được thống nhất thành một khối mà cha anh chúng ta đã dày
công xây dựng không thể tồn tại lâu dài nếu đất nước không
độc lập, không có chủ quyền, còn bị ngoại bang chi phối.
Chúng ta muốn thống nhất, nhưng các thế lực xấu không muốn
chúng ta thống nhất, không muốn chúng ta mạnh, nên họ đã hỗ
trợ sự chia rẽ, tách rời, để thành lập nhiều Giáo hội riêng
lẻ.
Vì vậy đến năm 1965, thực sự chỉ còn cái tên
thống nhất, vì một tập đoàn như Hội Phật học Nam, Thiền
Tịnh đạo tràng, Phật giáo Nguyên thủy,v.v... cho nên chỉ sáu
tập đoàn trong Giáo hội thời ấy. Đến năm 1966, Đại hội kỳ 2
của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, lại thêm sự phân
hóa trầm trọng diễn ra, tách thành Giáo hội Phật giáo phái
Việt Nam Quốc tự và Giáo hội Phật giáo phái Ấn Quang.
May mắn thay, năm 1975, đất nước chúng ta được
độc lập, thống nhất và đến năm 1981, giới Phật giáo đã đầy
đủ thiện duyên tổ chức thành công Đại hội thống nhất Phật
giáo cả nước. Phải nói đây mới là lần thống nhất thực sự
trọn vẹn trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, hình thành Giáo
hội Phật giáo Việt Nam. Từ đó đến nay, trải qua 27 năm, nhờ
sinh hoạt trong một Giáo hội duy nhất, đã tạo cho Phật giáo
chúng ta sức mạnh của sự đoàn kết, sức mạnh của tập thể và
chính thành quả này làm cho Phật giáo các nước bạn quan tâm
và kính nể Phật giáo Việt Nam.
Khi tôi trình bày như vậy, gợi cho các đại biểu
có suy nghĩ là Giáo hội Phật giáo Việt Nam tập hợp các hệ
phái sinh hoạt chung được, thì Phật giáo thế giới có thể làm
như chúng ta được hay không.
Các tu sĩ truyền bá giáo lý ở khắp mọi nơi đều
tùy duyên mà phát triển và làm lợi ích cho nhiều người. Thể
hiện tinh thần này theo kinh Pháp Hoa, Đức Phật được ví như
người thợ làm đồ gốm, với một thứ đất sét duy nhất, nhưng
tùy theo yêu cầu của người tiêu dùng mà làm thành những món
hàng khác nhau. Cũng vậy, chân lý đạo Phật chỉ có một vị
giải thoát, nhưng sử dụng nhiều phương tiện khác nhau để
thích ứng với văn hóa, phong tục, tập quán của từng nơi,
từng lúc khác nhau. Vì vậy mà Phật đưa ra vô số pháp môn tu.
Nhà truyền giáo nương pháp phương tiện giảng dạy, nhưng
không chấp phương tiện là cứu cánh để giữ được cuộc sống
giải thoát.
Kinh nghiệm của Phật giáo Việt Nam là thống nhất
tổ chức và lãnh đạo thống nhất ý chí và hành động; nhưng
pháp môn biệt truyền không trái Chánh pháp vẫn được tôn
trọng. Giáo hội chúng ta đặt trên nền tảng thống nhất sinh
hoạt như vậy, quyền tự do tu hành của từng hệ phái không bị
xâm phạm, nên mọi người dễ dàng chấp nhận, lại có lợi hơn
nữa là tạo được sức mạnh của một tập thể đoàn kết.
Từ sự hiểu biết đúng đắn về Phật giáo Việt Nam,
bạn bè các nơi đã chấp nhận tư tưởng mới của chúng ta, dẫn
đến năm 2007, họ đề nghị Việt Nam nên tổ chức Lễ Vesak quốc
tế nhằm giúp Phật giáo các nước học hỏi kinh nghiệm thống
nhất của Giáo hội chúng ta để có thể thống nhất Phật giáo
thế giới, từ đó cùng chung sức với nhau đóng góp cho sự tiến
bộ văn minh và tình người cho cộng đồng nhân loại.
Trên nền tảng tốt đẹp như vậy, đến năm 2008,
chúng ta đã tổ chức thành công Đại lễ Phật đản quốc tế lớn
nhất mà từ trước chúng ta chỉ mơ ước, chưa bao giờ thực hiện
được. Không những chúng ta tổ chức Đại lễ Phật đản tại Mỹ
Đình, Hà Nội, mà tại Huế, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh...
hầu như khắp các tỉnh thành trong cả nước đều tổ chức Lễ
Phật đản tại địa phương mình thật trang nghiêm long trọng.
Riêng Phật giáo Thừa Thiên-Huế đã tổ chức được một Lễ Phật
đản mang đậm nét văn hóa tiêu biểu của Phật giáo cố đô. Đó
là một niềm danh dự của Phật giáo tỉnh nhà. Điều này đã
khiến cho bạn bè khắp nơi đến Việt Nam nhận thấy được thực
lực của Phật giáo chúng ta.
Hôm nay, có duyên thăm chư tôn đức Ban Trị sự và
chư Tăng Ni tỉnh nhà, tôi không còn được gặp các bậc tôn túc
ngày nào; nhưng qua sinh hoạt của chư Tãng Ni gọi cho tôi
suy nghĩ rằng các anh em đều có niềm hãnh diện về những gì
của tiền nhân để lại. Và những điều tốt đẹp ấy thể hiện
trong suy nghĩ, trong hành động của anh em đã nói lên được
tinh thần của những người đi trước truyền lại cho anh em,
gọi là vô tận đăng theo kinh Duy Ma.
Vô tận đăng là ngọn đèn vô cùng tận được mồi từ
Đức Phật sang chư Tổ, cho đến chúng ta và chúng ta tiếp nối
ngọn đèn trí tuệ đó để truyền lại cho thế hệ mai sau. Nhận
thấy đạo tràng trang nghiêm thanh tịnh hôm nay, tôi tin
tưởng Phật giáo Việt Nam nói chung và Phật giáo tỉnh nhà nói
riêng sẽ thắp sáng mãi ngọn đèn Chánh pháp lan rộng khắp năm
châu bốn biển.
Cũng trên tinh thần đó, tôi có suy nghĩ rằng đạo
Phật phát xuất từ Đức Phật Thích Ca tại Ấn Độ và trải qua
một thời gian dài, tư tưởng của Đức Phật đã được truyền bá
khắp các châu lục; nhưng Phật giáo đến nơi nào cũng đều hội
nhập với xã hội tại nơi đó. Và hội nhập xã hội thì đương
nhiên chịu ảnh hưởng văn hóa, phong tục, tập quán của từng
dân tộc khác nhau, qua những thời kỳ khác nhau. Vì vậy, sinh
hoạt Phật giáo ngày nay thường có tính chất đa dạng.
Vì sinh hoạt ở nhiều hình thức khác nhau ở các
quốc gia khác nhau đã làm cho giới Phật giáo đôi khi có suy
nghĩ lệch lạc, thường chấp vào pháp môn phương tiện của Phật
mà để cho phiền não, nghiệp chướng nổi lên, lại cứ ngỡ lầm
rằng mình đúng, mình là chánh thống của Phật giáo, còn những
người tu pháp môn khác là sai lầm. Từ sự hiểu biết lệch lạc
như thế sẽ rơi vào tăng thượng mạn, coi thường những tổ chức,
những sinh hoạt Phật pháp khác mình; như vậy, chính lòng
mình cũng bất an.
Khi tự nghĩ mình đúng, nhưng chưa chắc đúng;
thật ra mình đúng ở điểm nào và người sai điểm nào. Vì trên
lập trường Đại thừa Phật giáo, có hai chữ "Phương tiện" mà
chúng ta cần suy nghĩ. Phương tiện là tùy từng chỗ khác nhau,
tùy từng lúc khác nhau, mà chúng ta có những pháp môn khác
nhau để thích ứng với hoàn cảnh, giúp cho mọi người được
giải thoát; đó mới là điều quan trọng mà người học Phật phải
thấy biết.
84.000 pháp Phật chỉ có một vị giải thoát. Cho
nên người chấp pháp chắc chắn không được giải thoát, vì đã
rơi vào biên kiến và sẽ cảm thấy nặng lòng. Thuở xưa, còn
ngồi ghế nhà trường, tôi từng rơi vào tâm trạng này, nên tôi
muốn chia sẻ kinh nghiệm này với Tăng Ni trẻ. Bao giờ tâm
hồn chúng ta thanh thản, không vướng mắc với bất cứ điều gì,
mới có thể đi vào dòng thác trí tuệ Như Lai; còn phương
tiện thì mỗi người có pháp khác nhau để hành đạo.
Tôi nhớ Hòa thượng Trí Thủ khi còn sinh tiền đã
dạy rằng trong thời kỳ Phật pháp suy đồi, tên Phật còn không
có, thì một ông thầy ở thôn quê đi cúng đám bấy giờ cũng trở
thành số một. Lúc đó, tuổi còn trẻ, nghe vậy, đương nhiên
tôi không bằng lòng, vì chỉ tôn trọng người đồng chơn nhập
đạo, khó chấp nhận người bán thế xuất gia, làm sao chấp nhận
ông thầy đi cúng, không hiểu đạo lý. Nhưng khi tuổi đạo lớn
hơn, tôi có suy nghĩ khác, mới nhận thấy lúc Phật giáo suy
đồi, không có các bậc cao tăng, thì chính những ông sư đó
vẫn giữ được hình bóng của đạo Phật, cho nên chúng ta cần
trân trọng những vị này. Đương nhiên, lúc Phật pháp hưng
thạnh, với sự hiện hữu của các bậc cao tăng thì hoàn cảnh đã
đổi khác, sinh hoạt phải trở nên tốt đẹp. Điều này gợi nhắc
chúng ta tập nhìn sự vật đúng như thật của nó, đừng mang
định kiến mà chê trách người khác.
Trong Đại lễ Vesak năm nay, tôi vô cùng hoan hỷ,
vì có dịp gặp gỡ các nhà nghiên cứu, các học giả, các vị cao
tăng thuộc các pháp môn khác, dân tộc khác. Tôi cảm nhận mỗi
người là một hóa thân của Phật. Dĩ nhiên hóa thân Phật không
phải là Phật; nhưng đệ tử Phật hành đạo ở các nơi đều tạo
được sự hài hòa với đời sống và phong tục, tập quán nơi đó,
nên Phật giáo ở mỗi nơi đã thể hiện những sắc thái khác nhau.
Mặc dù Phật giáo mỗi nước có hình thức khác nhau, suy nghĩ
khác nhau vì ảnh hưởng những nét văn hóa khác nhau, giới
Phật giáo trên khắp các châu lục vẫn có thể chấp nhận nhau
trên lộ trình giác ngộ, giải thoát, làm cho Phật giáo mỗi
ngày thêm hưng thạnh.
Thật vậy, nếu giới Phật giáo không chấp nhận
nhau, chắc chắn Phật giáo phải suy yếu. Ngay trong một quốc
gia như Việt Nam chẳng hạn, chúng ta thấy ở miền Tây Nam bộ
có Phật giáo Nam tông Khmer hoàn toàn khác với chúng ta;
nhưng nếu không có hình thức Phật giáo này, chưa chắc Phật
giáo phát triển được trong đồng bào dân tộc Khmer. Để có
được thành quả này, điều quan trọng là Phật giáo Khmer có
thể hiểu và chấp nhận chúng ta; muốn như vậy, chúng ta phải
hiểu và chấp nhận họ trước.
Tôi còn nhớ 30 năm trước, người tu Bắc tông ăn
chay nên thường có sự phân biệt và chê trách những nguời tu
ăn mặn. Nhưng khi sang Thái Lan, tôi thấy Phật giáo Thái Lan
rất kỵ việc chư Tăng ăn chiều. Như vậy đã có cái nhìn khác
biệt trong Phật giáo chúng ta.
May mắn trong giới Phật giáo chúng ta có Hòa
thượng Minh Châu xuất thân từ Phật giáo Bắc tông, nhưng ngài
đã khoác áo Nam tông để tạo mối thân thiện gần gũi với các
Hòa thượng Thái Lan. Họ thấy ngài giống họ ở chiếc y và
giống ở tư duy về Phật pháp, vì ngài cũng dịch kinh Pàli. Từ
đó, Hòa thượng trở thành gạch nối giữa Phật giáo Việt Nam và
Phật giáo Thái Lan. Xa hơn nữa, có thể nói qua trí tuệ của
Hòa thượng mà Phật giáo Thái Lan đánh giá Phật giáo Việt Nam
một cách đúng đắn hơn, không phải nhà sư chỉ biết đi cúng
đám, điển hình là Hòa thượng đã thể hiện rõ nét tư cách của
một nhà học thuật đã đóng góp những công trình nghiên cứu
Phật pháp có giá trị. Vì vậy, Viện Đại học Phật giáo Hoàng
gia Thái Lan Mahachulalongkorn đã trao bằng Tiến sĩ Danh dự
cho Hòa thượng về công trình phiên dịch kinh tạng Pàli ra
tiếng Việt. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng, vì Đại
học Phật giáo Hoàng gia Thái Lan công nhận Hòa thượng là học
giả cống hiến rất nhiều cho nền văn học Pàli và đặc biệt Hòa
thượng là nhà sư ngang tầm với các nhà sư cao đức của Thái
Lan. Điều đó cũng có nghĩa là họ gián tiếp công nhận Phật
giáo Việt Nam, giữa Phật giáo Việt Nam và Phật giáo Thái Lan
đã có điểm chung.
Từ đó mới dẫn đến sự kiện Phật giáo Việt Nam tổ
chức Lễ Vesak quốc tế năm nay. Lần này Đại lễ Vesak ở nước
ta có một sự khởi sắc quan trọng, được nhiều quốc gia tham
dự hơn (hơn 75 nước) với sự hiện diện của nhiều người tu các
pháp môn khác nhau. Đặc biệt là trong cuộc gặp mặt lần này,
tất cả hành giả nhìn nhau trong sự cảm thông sâu sắc, thể
hiện tinh thần phân thân Phật trong kinh Pháp Hoa.
Thật vậy, trong các Lễ Vesak trước ở Thái Lan,
thành thật mà nói những người tham dự còn cảm thấy bỡ ngỡ;
nhưng trong Đại lễ Phật đản quốc tế tại thủ đô Hà Nội, các
đại biểu gặp gỡ nhau trong tình thân thiện hơn và chấp nhận
nhau thật nhẹ nhàng. Đặc biệt là Phật giáo Thái Lan đã có
cái nhìn thoáng hơn, chấp nhận màu áo của Phật giáo Bắc tông,
chấp nhận các pháp môn tu khác.
Điều này nói lên sự thật rằng nếu chúng ta tập
họp lại theo tinh thần Phật dạy để cùng nhau chia sẻ những
kinh nghiệm hành đạo, những kiến thức Phật pháp là chúng ta
đã thực hiện đúng Chánh pháp. Còn tập hợp mà nghi ngờ, không
chấp nhận nhau là không đúng ý nghĩa của đạo Phật.
Tinh thần hòa hợp của đạo Phật rất quan trọng.
Phật giáo Việt Nam tồn tại và song hành cùng dân tộc trong
suốt chiều dài lịch sử của đất nước chính là nhờ cái nhìn
phóng khoáng, mới ứng dụng được sự hòa hợp nhuần nhuyễn với
sinh hoạt tín ngưỡng nhân gian. Thật vậy, Phật giáo Việt Nam
phát triển mạnh nhờ biết phát huy hình ảnh ban vui cứu khổ
của Bồ tát Quan âm, một vị Bồ tát vô cùng cần thiết cho nhân
dân Việt Nam luôn phải đối đầu với muôn vàn hiểm nguy của
giặc ngoại xâm. Đó là một vị Bồ tát mang hình thức cư sĩ mà
Phật giáo Nam truyền không thể chấp nhận. Ngoài ra, tư tưởng
giải thoát theo Phật giáo Nam truyền là sống cách ly cuộc
đời chắc chắn khó tồn tại trong nhân dân Việt Nam mang nặng
lòng yêu nước. Bất cứ người nào được kính trọng trong xã hội
Việt Nam cũng phải có những đóng góp nhất định cho sự tồn
tại của đất nước và dân tộc. Vì vậy từ thời kỳ dựug nước,
giữ nước, giới Phật giáo đã có sự dấn thân, sự đóng góp
không nhỏ cho xã hội tồn tại và phát triển, cho nên Phật
giáo Việt Nam mới có được vị trí tốt đẹp ngày nay, không
phải một sớm một chiều tự nhiên được vinh danh. Phong tục,
tập quán của nhân dân Việt Nam như thế, nhu cầu của nhân dân
Việt Nam như thế, tất yếu Phật giáo Việt Nam phải như thế.
Kinh Pháp Hoa dạy rằng muốn truyền bá Chánh pháp, chúng ta
phải quán sát nhân duyên, tùy duyên mà làm đạo, xem mọi
người nghĩ gì, muốn gì, cần gì, làm được gì chúng ta giúp đỡ.
Nói theo kinh điển là khai ra tất cả pháp môn phương tiện để
thích ứng với hoàn cảnh của quần chúng, đáp ứng được yêu cầu
của nhiều người, Phật giáo mới tồn tại và phát triển. Tinh
thần này được kinh Pháp Hoa diễn tả rằng thế gian tướng
thường trụ, nhà truyền giáo bằng mọi phương cách gieo Phật
pháp vào lòng người, giúp họ ứng dụng được trong cuộc sống,
không phải chỉ nói suông.
Thể hiện tinh thần hòa hợp sâu sắc Lễ Phật đản
quốc tế năm nay đã tập hợp được tất cả các giới Phật giáo tu
các pháp môn khác nhau ở các quốc gia khác nhau, cùng cảm
thông, cùng học hỏi, chia sẻ hiểu biết và kinh nghiệm hành
đạo cho nhau. Đó chính là ý nghĩa của sự hòa hợp, của sự tập
trung phân thân Phật theo kinh Pháp Hoa.
Tôi mong tất cả quý vị luôn hòa hợp trong ánh
sáng từ bi, trí tuệ của Đức Phật, để xây dựng Phật giáo tỉnh
nhà ngày càng vững mạnh, cùng hòa hợp trong ngôi nhà chung,
Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Có như vậy, Phật giáo chúng ta
mới phát triển và hội nhập trong cộng đồng nhân loại ở thế
kỷ 21.
(Viếng thăm và nói chuyện tại trường hạ chùa
Từ Đàm, Huế và trường hạ chùa Phổ Đà, thành phố Đà Nẵng,
ngày 6 và 7-8-2008)
Nguồn: Báo Giác Ngộ số 445
Người gửi bài: Tịnh Tú (phatphap.wordpress.com &
phatphapnhiemmau.com)
08-14-2008 14:23:46