NHỮNG KHÔNG GIAN TÂM LINH
His Holiness the Dalai Lama
Tuệ Uyển chuyển ngữ
---o0o---
HAI TRÌNH ĐỘ TÂM LINH
Anh chị em, chúng tôi muốn thuyết giảng về chủ
đề những giá trị tâm linh bằng sự giải nghĩa hai trình độ
tâm linh.
Để bắt đầu, để chúng tôi nói rằng như những
chúng sinh chúng ta căn bản tập trung vào là để có một cuộc
sống hạnh phúc vui vẻ; tất cả chúng ta đều muốn trải qua
kinh nghiệm của hạnh phúc. Đấy là tự nhiên cho chúng ta để
tìm kiếm hạnh phúc. Đây là mục tiêu của đời sống chúng ta.
Lý do thật rõ ràng: khi chúng ta mất đi hy vọng, kết quả là
chúng ta bị chán nản, buồn phiền, hay trì trệ và có thể ngay
cả tự tử. Vì vậy, sự tồn tại thực của chúng ta có gốc rể
một cách mạnh mẻ trong hy vọng. Mặc dù không có gì bảo đảm
cho những điều sẽ mang tới trong tương lai. Đấy là bởi vì
chúng ta có hy vọng rằng chúng ta có thể tiếp tục sống. Vì
vậy, chúng ta có thể nói rằng mục tiêu của đời sống của
chúng ta, chủ tâm của đời sống chúng ta, là hạnh phúc vui vẻ.
Loài người không phải được sản xuất bằng máy móc. Chúng ta
không chỉ là sự kiện, chúng ta hơn thế ấy, chúng ta có cảm
giác và kinh nghiệm. Lý do ấy, chỉ sự thoải mái vật chất
đơn độc không đủ. Chúng ta cần những gì sâu sắc hơn, thâm
diệu hơn, điều mà chúng tôi thường ám chỉ đến như lòng nhân,
hay tình người, hay từ bi thương yêu. Với ảnh hưởng của
lòng nhân, hay tình người, hay từ bi thương yêu, tất cả
những phát triển vật chất mà chúng ta có ở sự xếp đặt, bố
trí, thực hiện của chúng ta có thể rất xây dựng và có thể
sản sinh những kết quả tốt. Tuy vậy, nếu không có lòng nhân
hay tình người, những phát triển vật chất đơn độc sẽ không
làm chúng ta hài lòng, thỏa mãn, hoặc chúng sẽ cũng không
sản sinh trong chúng ta bất cứ không gian nào của tâm linh
hòa bình hay hạnh phúc. Vì vậy, lòng nhân hay tình người,
hay từ bi thương yêu, là chìa khóa đến hạnh phúc của nhân
loại.
TRÌNH ĐỘ TÂM LINH THỨ NHẤT: NHỮNG TÔN GIÁO CỦA
THẾ GIỚI VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA TÔN GIÁO ĐỐI VỚI NHÂN LOẠI
Trình độ tâm linh thứ nhất. cho tất cả loài
người ở mọi nơi, là tín ngưỡng một trong nhiều tôn giáo của
thế giới. Chúng tôi nghĩ có một vai trò quan trọng của cho
mỗi một tôn giáo của đa số tôn giáo thế giới, nhưng để cho
tôn giáo hành hoạt một cống hiến tác động đến lợi ích của
nhân loại từ khía cạnh tôn giáo, có hai nhân tố quan trọng
cần lưu tâm.
Nhân tố thứ nhất là mỗi hành giả của những tôn
giáo khác nhau - đấy là, tự chính chúng ta - phải thực hành
một cách chân thành. Giáo nghĩa tôn giáo là một bộ phận căn
bản thiết yếu của đời sống chúng ta; giáo lý không nên bị
tách biệt với cuộc sống chúng ta. Thỉnh thoảng chúng ta đến
nhà thờ hay chùa viện và dâng lời cầu nguyện, hay phát sinh
một loại cảm giác tâm linh, và rồi thì, khi ra khỏi Phật
đường hay Thánh đường, không có một cảm xúc tôn giáo nào
được duy trì tồn tại. Đấy không là một phương pháp chính
đáng để thực hành-thọ trì. Thông điệp của tôn giáo phải
luôn theo chúng ta bất cứ nơi nào chúng ta đến. Những lời
dạy của tôn giáo chúng ta phải hiện diện trong đời sống
chúng ta như vậy vì thế khi chúng ta thật sự cần hay thỉnh
cầu gia hộ hay nội lực mạnh mẽ, những lời dạy sẽ hiển lộ
ngay nơi ấy ngay cả tại những thời gian như vậy; sự cảm ứng
hiện tiền nơi ấy khi chúng ta trải qua những khó khăn bởi vì
nó hằng hiện hữu ở bên chúng ta. Chỉ khi tôn giáo trở
thành một bộ phận thiết yếu của đời sống chúng ta thì tôn
giáo mới có thể thực sự tác động ảnh hưởng.
Chúng ta cũng cần kinh nghiệm một cách sâu xa
hơn, thâm diệu hơn trong những ý nghĩa và giá trị tâm linh
của truyền thống tôn giáo của chính chúng ta – chúng ta cần
biết những lời dạy này không chỉ trên một cấp độ lý trí
nhưng cũng xuyên qua kinh nghiệm thâm sâu hơn của chính
chúng ta. Thỉnh thoảng chúng ta hiểu biết tư tưởng những
tôn giáo khác nhau ở trình độ quá nông cạn,quá thiển cận hay
quá lý trí. Không có một kinh nghiệm cảm xúc tâm linh chân
thật hơn, sâu sắc hơn, tác động của tôn giáo trở nên giới
hạn. Vì vậy, chúng ta phải thực hành – thọ trì một cách
chân thật, và tôn giáo phải trở nên một phần của đời sống
chúng ta.
SỰ QUAN TRỌNG CUẢ MỘT MỐI QUAN HỆ THÂN HỮU GẦN
GŨI GIỮA CÁC TÔN GIÁO
Nhân tố thứ hai là quan tâm hơn với sự ảnh hưởng
qua lại giữa các tôn giáo khác nhau trên thế giới. Ngày
nay, vì sự thay đổi phát triển kỷ thuật và tự nhiên của kinh
tế thế giới, chúng ta lệ thuộc vào những người khác hơn bao
giờ hết. Những xứ sở khác nhau, những lục địa khác nhau, đã
trở nên hợp tác một cách gần gũi hơn với nhau. Trong thực
tế sự tồn tại của một vùng, một khu vực của thế giới tùy
thuộc vào những vùng và khu vực khác. Vì vậy, thế giới trở
nên thật gần gũi hơn, tùy thuộc liên đới nhiều hơn. Như một
kết quả, có nhiều sự tác động qua lại của nhân loại hơn.
Dưới một tình trạng như vậy, ý tưởng của chủ nghĩa đa phương
giữa các tôn giáo thế giới là rất quan trọng. Trong quá khứ,
khi những cộng đồng sống biệt lập với nhau và những tôn giáo
phát khởi trong sự cô lập liên hệ. Ý nghĩ rằng chỉ có một
tôn giáo rất phổ biến. Nhưng ngày nay tình thế đã thay đổi,
và những hoàn cảnh đã hoàn toàn khác nhau. Bây giờ, vì vậy,
thật là thiết yếu để chấp nhân sự kiện là sự tồn tại hiện
hữu của nhiều tôn giáo khác nhau, để phát triển sự tôn trọng
chân thành giữa các tôn giáo; tiếp xúc thân cận giữa các tôn
giáo khác nhau là căn bản quyết định. Đấy là nhân tố thứ hai
để các tôn giáo thế giới sẽ có thể được tác động ảnh hưởng
đến lợi ích của nhân loại.
Khi chúng tôi ở Tây tạng, chúng tôi không có
tiếp xúc với những người thuộc những tín ngưỡng tôn giáo
khác nhau, vì vậy thái độ của chúng tôi trước những tôn giáo
khác không mấy tích cực. Nhưng khi đã có cơ hội gặp gở với
những người khác tín ngưỡng và học hỏi tử kinh nghiệm và
tiếp xúc cá nhân, thái độ cuả chúng tôi trước những tôn giáo
khác đã thay đổi. Chúng tôi nhân thức sự hữu dụng thế nào
đến với nhân loại của những tôn giáo khác nhau, và khả năng
tiềm tàng nào của mỗi tôn giáo cống hiến cho một thế giới
tốt đẹp hoàn hảo hơn. Trong những thế kỷ gần đây, những tôn
giáo khác nhau đã có những cống hiến vĩ đại trước sự cải
thiện cho nhân loại, và ngay cả hôm nay có một số lượng lớn
những giáo đồ của Ki tô giáo, Hồi giáo, Do thái giáo, Phật
giáo, Ấn giáo v.v…Hàng triệu tín đồ đang được lợi lạc từ tất
cả những tôn giáo này.
Để cho một thí dụ về giá trị của cuộc gặp gở của
những người từ những tín ngưỡng khác nhau, những cuộc gặp gở
của chúng tôi với cố tu sĩ dòng Trappist Mỹ, Thomas Merton
(1915-1968), đã làm cho chúng tôi nhận thấy rõ, một người
tuyệt vời, kỳ diệu thế ấy. Trong một dịp khác chúng tôi đã
gặp gở với một tu sĩ Gia tô giáo ở Monserrat, một trong
những tu viện nổi tiếng của Tây ban nha. Chúng tôi được kể
lại rằng tu sĩ này đã từng sống vài năm như một ẩn sĩ trên
một ngọn đồi chỉ ở sau tu viện. Khi chúng tôi viếng thăm tu
viện, ông đi xuống từ ẩn mật thất một cách đặc biệt để gặp
chúng tôi. Khi cuộc gặp gở xảy ra, tiếng Anh của ông còn
kém hơn ngay cả tôi, và điều này đã cho tôi can đảm hơn để
nói chuyện với ông! Chúng tôi đã duy trì diện đối diện, và
chúng tôi hỏi han: “Trong những năm ấy, tu sĩ đã làm gì trên
ngọn đồi ấy?” Ông nhìn tôi và trả lời. “Thiền định về từ
bi, về yêu thương.” Khi ông nói ít lời ấy, chúng tôi đã
hiểu thông điệp qua đôi mắt ông ta. Chúng tôi thật sự dâng
tràn lòng cảm phục với người tu sĩ này và cho những ai giống
như tu sĩ ấy. Những kinh nghiệm như thế đã giúp củng cố
trong tâm chúng tôi rằng tất cả những tôn giáo thế giới có
khả năng để sản sinh những người tốt, những người có đạo đức,
những người có lòng từ bi lớn, bất chấp những sự khác nhau
về triết lý và giáo nghĩa của tôn giáo. Mỗi truyền thống
tôn giáo có một thông điệp diệu kỳ để truyền đạt.
Thí dụ, từ quan điểm của đạo Phật khái niệm về
một đấng tạo hóa là không hợp lý; bởi vì những phương pháp
mà đạo Phật phân tích về thuyết nhân quả, cho nên nó là một
khái niệm (đấng tạo hóa) khó khăn cho những người Phật tử để
hiểu. Tuy nhiên, đây không phải là nơi để bàn luận về những
vấn đề triết lý. Điểm quan trọng ở đây là cho những người
giáo đồ theo những giáo lý mà trong điều căn bản của tín
ngưỡng là một đấng tạo hóa, điều tiếp cận ấy thì rất ảnh
hưởng. Theo những truyền thống ấy, cá nhân con người được
tạo ra bởi Thượng đế. Hơn thế nữa, như chúng tôi vừa học từ
một trong những người bạn Ki tô giáo, họ không chấp nhận
triết lý tái sinh, vì vậy, không chấp nhận những đời sống
quá khứ hay tương lai. Họ chỉ chấp nhận cuộc sống này. Tuy
nhiên, họ chấp giữ rằng kiếp sống hiện tại này là được tạo
nên bởi Thượng đế, bởi đấng tạo hóa, và ý tưởng ấy phát
triển trong họ một cảm nhận mật thiết với Thượng đế. Lời
dạy quan trọng nhất của họ là do từ ý chí của Thượng đế mà
chúng ta hiện diện nơi đây, tương lai chúng ta tùy thuộc
trên đấng tạo hóa, và bởi vì đấng tạo hóa được xem như là
thánh thiện và tối thượng, chúng ta phải yêu mến Thượng đế,
đấng tạo hóa.
Những điều từ lời dạy này là chúng ta nên yêu
mến những đồng loại chúng sinh loài người của chúng ta – đây
là thông điệp chính ở đây. Lý do là nếu chúng ta yêu mến
Thượng đế, chúng ta phải yêu mến đồng loại loài người của
chúng ta bởi vì họ giống như chúng ta, được tạo nên bởi
Thượng đế. Tương lai của họ, giống như chúng ta, tùy thuộc
trên đấng sáng thế, vì vậy, hoàn cảnh cuả họ giống như chính
chúng ta. Bởi thế, tín ngưỡng của những người nói rằng,
“yêu mến Thượng đế” nhưng tự họ không tỏ ra chân thành yêu
mến trước những người đồng loại là đáng nghi ngờ. Người tin
tưởng ở Thượng đế và trong sự yêu mến Thượng đế phải làm sâu
sắc thêm tính thành khẩn của sự yêu mến của họ đối với
Thượng đế qua tình yêu thương trực tiếp đến những người đồng
loại. Điều tiếp cận này rất mạnh mẽ, có đúng không?
Vì vậy, nếu chúng ta trắc nghiệm mỗi tôn giáo từ
những góc cạnh khác nhau trong cùng một phương phá – không
đơn giản từ chính vị thế triết học của chúng ta nhưng từ một
vài điểm của quan niệm – có thể không nghi ngờ rằng tất cả
đại đa số tôn giáo đều có khả năng phát triển nhân loại.
Điều này là rõ rang. Thông qua sự tiếp xúc thân cận với
những tín ngưỡng khác nhau có thể phát triển một thái độ tư
tưởng khoáng đạt và sự tôn trọng lẫn nhau đến những tôn giáo
khác nhau. Sự tiếp xúc gần gũi với những tôn giáo khác nhau
giúp chúng tôi học hỏi những ý tưởng mới, những sự thực hành
mới, và những phương pháp mới hay những kỷ thuật mới mà
chúng tôi có thể kết hợp với những sự thực hành của chính
chúng tôi. Một cách tương tự, một số các anh chị em Ki tô
hữu của chúng tôi đã tiếp nhận những phương pháp nào đấy của
Phật giáo – thí dụ, sự thực hành “nhất niệm tâm” cũng như
những kỷ năng để giúp phát triển tính bao dung, tâm từ bi,
và lòng yêu thương. Có những lợi ích to lớn khi những hành
giả của những tôn giáo khác nhau đến với nhau cho những sự
trao đổi thế này. Thêm vào sự phát triển hòa hiệp giữa nhau,
có những lợi ích khác cũng gặt hái được.
Những chính trị gia và lĩnh tụ quốc gia thường
nói về “cùng tồn tại” và “đến với nhau”. Cũng với những
người tôn giáo của chúng ta, tại sao không,? Chúng tôi nghĩ
rằng thời điểm đã đến. Tại Assisi vào năm 1987, thí dụ.
những lãnh tụ và đại biểu của những tôn giáo khác nhau trên
thế giới gặp gở và cùng cầu nguyện, mặc dù chúng tôi không
chắc chắn “cầu nguyện” có phải là từ ngữ chính xác để diễn
tả sự thực hành của tất cả những tôn giáo này một cách đúng
đắn hay không. Trong bất cứ trường hợp nào, điều gì là quan
trọng để những đại diện của những tôn giáo khác nhau đến với
nhau tại một địa điểm và , theo từng tín ngưỡng để nguyện
cầu. Điều này đã đang xảy ra rồi và, chúng tôi nghĩ, là
một sự phát triển rất tích cực. Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần
đặt tác động hơn trước trước sự tăng tiến hòa hiệp và thân
cận giữa những tôn giáo thế giới, vì rằng không có những tác
động như thế, chúng ta sẽ tiếp tục trải qua vô số vấn đề đã,
đang và sẽ chia rẻ nhân loại.
Nếu tôn giáo đã là phương pháp cứu chửa duy nhất
để giảm thiểu xung đột của nhân loại, nhưng phương pháp ấy
tự nó trở nên một nguồn gốc khác của sự xung đột, đấy quả là
bất hạnh tai hại thay. Ngày nay, như trong quá khứ, những
xung đột xảy ra nhân danh tôn giáo, bởi vì sự khác nhau của
những tôn giáo, và chúng tôi nghĩ rằng điều này là buồn thật
buồn. Nhưng như chúng tôi đã lưu ý trước đây, nếu chúng ta
nghĩ một cách thoáng đạt rộng rãi, sâu sắc, chúng ta nhận
thấy rằng hoàn cảnh trong quá khứ hoàn toàn khác biệt với
tình thế ngày nay. Chúng ta không còn cô lập nữa nhưng
chúng ta tùy thuộc lien đới với nhau. Ngày nay, vì vậy, rất
quan trọng để nhận thức rằng một sự liên hệ gần gũi giữa
những tôn giáo khác nhau là thiết yếu, vì vậy những nhóm tôn
giáo khác nhau có thể hoạt động gần gũi với nhau và làm một
tác động chung cho lợi ích của loài người.
Vì vậy, tính thành khẩn và tín ngưỡng trong thực
hành tôn giáo trên một phương diện; và tính bao dung và hợp
tác tôn giáo là phương diện khác, bao gồm cấp độ thứ nhất
này của những giá trị thực hành tâm linh đến nhân loại.
TRÌNH ĐỘ TÂM LINH THỨ HAI: TỪ BI YÊU THƯƠNG NHƯ
MỘT TÔN GIÁO TOÀN CẦU
Trình độ tâm linh thứ hai quan trọng hơn thứ
nhất bởi vì, không cần biết bất cứ kỳ diệu thế nào tôn giáo
có thể, nó vẫn được chấp nhận chỉ với một số lượng người rất
giới hạn Đại đa số của năm hay sáu tỉ người trên hành tinh
chúng ta thật sự không thực hành-thọ trì hay quy hướng bất
cứ một tôn giáo nào. Theo quá khứ gia đình, họ có thể tự
minh chứng thuộc về một tôn giáo này hay tôn giáo kia – “Tôi
là người Ấn giáo”, “Tôi là người Phật giáo”, “Tôi là người
Ki tô giáo” – nhưng sâu trong tâm hồn, hầu hết những cá nhân
này không nhất thiết là một hành giả của bất cứ một tín
ngưỡng nào. Điều ấy cũng tốt thôi, cho dù họ là một người
đi theo một tôn giáo hoặc không đi nữa thì đấy là quyền cá
nhân của người ấy. Tất cả những đạo sư vĩ đại thời xưa như
Phật Thích Ca, Mahavira, Giê-su Ki-tô, Mohammed, thất bại
trong việc chuyển hóa tâm linh toàn nhân loại. Sự việc là
không ai có thể làm việc ấy. Cho dù những người không tín
ngưỡng ấy bị gọi là vô thần không thành vấn đề. Thực vậy,
theo những học giả phương Tây, Phật giáo đồ cũng là những
người vô thần, bởi vì họ không chấp nhận một đấng tạo hóa.
Vì vậy, chúng tôi thỉnh thoảng thêm vài từ ngữ để diễn tả
những người không tín ngưỡng này, và đó là cực đoan, chúng
tôi gọi họ là những người không tín ngưỡng cực đoan. Những
người ấy không chỉ không tín ngưỡng mà họ còn cực đoan trong
quan điểm của họ trong điều mà họ cố chấp là tính chất tinh
thần-tâm linh không có giá trị. Nhưng chúng ta phải nhớ
rằng những người ấy cũng là một bộ phận của nhân loại, và
rằng họ cũng giống như tất cả loài người hiện hữu, có khao
khát được hạnh phúc – để có một đời sống vui tươi và hòa
bình. Đây là điểm quan trọng.
Chúng tôi nghĩ rằng cũng chẳng sao để duy trì
những người không tín ngưỡng, nhưng các vị cũng là một bộ
phận của loài người, quý vị cũng là những con người, quý vị
cần tình cảm nhân loại, từ bi yêu thương của nhân loại.
Điều này thật sự là giáo huấn căn bản của tất cả mọi truyền
thống tôn giáo; điểm cốt yếu là từ bi thương yêu, hay tình
cảm con người, lòng nhân đạo. Không có tình cảm con người,
ngay cả những tín ngưỡng tôn giáo có thể trở nên tiêu cực,
không xây dựng, hay tàn phá. Vì vậy, căn bản thiết yếu,
ngay cả trong tôn giáo, là một trái tim tốt, một lòng hảo
tâm. Chúng tôi có ý kiến là tình cảm con người, hay từ bi
bác ái, là tôn giáo toàn cầu. Cho dù một người tín ngưỡng
hay một người không tín ngưỡng, mọi người cần tình cảm loài
người, hay từ bi thương yêu, bởi vì từ bi thương yêu cho
chúng ta sức mạnh nội tại, hy vọng, và sự hòa bình của tâm
hồn. Vì vậy, nó cần thiết cho mọi người.
Hãy để chúng ta, thí dụ, trắc nghiệm lợi ích của
trái tim tốt, hay lòng hảo tâm trong đời sống hằng ngày.
Nếu chúng ta trong một tâm trạng tốt khi thức dậy vào buổi
sáng, nếu có một cảm giác của trái tim ấm áp, tự động cánh
cửa nội tâm của chúng ta được mở ra cho ngày ấy. Ngay cả có
một người không thân thiện bên cạnh, chúng ta không cảm thấy
phiền toái nhiều và có thể chúng ta ngay cả chủ động nói
những lời lịch sự dễ thương với người ấy. Chúng ta có thể
đối thoại với những người không mấy thân thiện và có thể
ngay cả một cuộc nói chuyện đầy ý nghĩa. Nhưng vào một ngày
khi tâm trạng chúng ta kém tích cực và chúng ta cảm thấy cáu
kỉnh, bực dọc, tự động cánh cửa nội tại đóng lại. Như một
hậu quả, ngay cả chạm trán với một người bạn thân, chúng ta
cảm thấy không thoải mái, không tự nhiên. Những thí dụ này
chỉ dẫn làm thế nào những tình trạng và quan điểm nội tại
làm nên một sự khác biệt lớn lao trong kinh nghiệm hằng ngày
của chúng ta. Vì vậy, để tạo nên một không khí vui vẻ dễ
thương trong chính chúng ta, trong gia đình chúng ta, trong
những cộng đồng chúng ta, chúng ta phải nhận thức rằng cội
nguồn căn bản của không khí tươi mát thân thương ấy là trong
mỗi cá nhân, trong mỗi chúng ta – một trái tim tốt, một lòng
hảo tâm, lòng từ bi thương yêu của con người.
Một khi chúng ta tạo dựng một không khí bằng hữu
tích cực, nó tự động giúp chúng ta giảm thiểu sợ hãi, và
không an toàn. Trong cách này chúng ta dễ dàng có thêm bạn
và tạo nên nhiều nụ cười hơn. Xét cho cùng, chúng ta là xã
hội của loài vật hay thế giới hoang dã nếu không có tình
thân hữu nhân loại, không có nụ cười của loài người, đời
sống chúng ta trở nên khốn cùng. Cảm giác đơn côi trở nên
không thể chịu nổi. Nó là luật tự nhiên – điều ấy nói là,
theo luật tự nhiên chúng ta tùy thuộc trên những người khác
để sống. Nếu dưới những tình trạng nào đấy, bởi vì có gì
sai sót, lầm lẫn bên trong chúng ta, thái độ chúng ta đối
với những người đồng loại, trên những người chúng ta tùy
thuộc liên đới, trở nên không thân thiện, làm thế nào chúng
ta hy vọng đạt đến hòa bình của tâm hồn hay cuộc sống hạnh
phúc? Tâm hòa bình – Thế giới thanh bình. Theo căn bản tự
nhiên của loài người hay luật tự nhiên, tình cảm – từ bi yêu
thương – là chìa khóa của hạnh phúc.
Theo y học hiện thời, một trạng thái tinh thần
tích cực, hay một tâm hồn yên bình, thì cũng có lợi ích cho
sức khỏe vật lý. Nếu chúng ta liên tục bị dao động, chúng
ta cuối cùng làm tổn hại sức khỏe của chúng ta. Vì vậy,
ngay cả từ quan điểm của sức khỏe chúng ta, tinh thần tịch
tĩnh, và yên bình thanh thản là rất quan trọng. Điều này
chỉ cho thấy rằng cơ thể vật lý tự nó biết thưởng thức và
đáp ứng đến tình cảm con người, sự yên bình của tâm con
người.
CƠ SỞ TỰ NHIÊN CỦA CON NGƯỜI
Nếu chúng ta nhìn vào cơ sở tự nhiên của con
người, chúng ta thấy rằng tự nhiên của chúng ta thì hiền
lành-thuần thiệp hơn là hiếu động-gây hấn. Nếu chúng ta trắc
nghiệm những thú vật khác nhau, chúng ta chú ý rằng những
loài vật của một tự nhiên thanh bình hơn có một cấu trúc cơ
thể tương ứng, trong khi những con thú săn mồi có một cấu
trúc cơ thể phát triển theo tự nhiên của chúng. So sánh con
cọp và con nai; có một sự khác nhau to lớn trong cấu trúc
vật lý của chúng. Khi chúng ta so sánh cấu trúc cơ thể của
chúng ta với chúng, chúng ta thấy rằng chúng ta giống những
con nai và con thỏ hơn là những con cọp. Ngay cả răng chúng
ta thì giống chúng hơn, có phải không? Chúng không giống
răng của cọp. Móng của chúng ta là một thí dụ khác tốt hơn
– chúng ta không thể bắt một con chuột chỉ với móng tay
người. Dĩ nhiên, bởi vì sự thông minh của con người, chúng
ta có thể phát minh sáng chế và sử dụng những dụng cụ và
những phương pháp để hoàn tất những sự việc, sự vật mà có
thể khó khăn để hoàn thành nếu không có chúng. Vì vậy, như
chúng ta có thể thấy, do bởi điều kiện vật lý của chúng ta
chúng thuộc vào loài vật hiền lành. Chúng tôi nghĩ đây là
cơ sở căn bản tự nhiên của con người như được biểu hiện bởi
cấu trúc cơ bản vật lý.
TỪ BI YÊU THƯƠNG VÀ GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT
Trong hoàn cảnh hiện tại của trái đất chúng ta,
hợp tác là căn bản, đặc biệt trên những phạm vi như kinh tế
và giáo dục (học vấn). Quan điểm cho rằng những khác nhau
là quan trọng không ít thì nhiều đã biến mất, như được chứng
minh bởi sự vận động vì một liên hiệp Âu châu. Chúng tôi
nghĩ, cuộc vận động này thật sự tuyệt vời và thật đúng thời.
Tuy vậy sự hoạt động thân cận giữa các quốc gia này không
phải xảy ra do bởi từ bi yêu thương hay tín ngưỡng tôn giáo,
mà đúng hơn là bởi vì cần thiết. Có một sự lớn mạnh trên
thế giới đối với sự thức tỉnh toàn cầu. Dưới những hoàn
cảnh hiện tại một quan hệ gần gũi hơn với nhau trở nên yếu
tố của sự sống còn hiện hữu của chúng ta. Vì vậy, khái niệm
của trách nhiệm toàn cầu đặt cơ sở trên từ bi yêu thương và
trên một tình cảm anh chị em là thiết yếu bây giờ. Thế giới
đầy những xung đột – xung đột do bởi tư tưởng, do bởi tôn
giáo, ngay cả xung đột trong những gia đình; những xung đột
căn cứ trên việc người này muốn điều này, và người khác muốn
điều khác. Vì vậy, nếu chúng ta xét nghiệm nguồn gốc những
xung đột này, chúng ta tìm ra nhiều nguyên nhân khác nhau,
nhiều nguồn gốc khác nhau, ngay cả trong chính chúng ta.
Tuy nhiên trong lúc ấy, chúng ta có tiềm lực và
khả năng để đến với nhau trong hòa hiệp. Tất cả những việc
khác này là liên hệ. Mặc dù có nhiều nguồn gốc của xung đột,
cùng lúc cũng có nhiều tiềm năng đem đến sự đoàn kết và hòa
hiệp. Thời cơ đã đến để nhấn mạnh hơn trên sự hợp đoàn. Ở
đây một lần nữa phải có tình cảm nhân loại, tình người. Thí
dụ, quý vị có thể có một ý niệm vể tư tưởng hay tôn giáo
khác với những người khác. Nếu quý vị tôn trọng quyền của
những người khác và chân thành biểu lộ một thái độ từ bi
thương yêu đối người ấy, rồi thì không có gì quan trọng cho
dù ý kiến của người ấy có thích hợp với quý vị hay không,
đấy là thứ yếu. Cho đến khi người ấy vẫn còn tin tưởng
trong đấy, cho đến khi người ấy vẫn lợi ích với quan niệm
như vậy, đấy là quyền lợi thật sự, hoàn toàn, và thuần túy
của người ấy. Vì vậy chúng ta phải tôn trọng và chấp nhận
sự kiện là sự tồn tại của những quan điểm khác biệt. Trong
thế giới của kinh tế cũng thế, những người ganh đua cũng
phải nhận một số quyền lợi, bởi vì họ cũng cần phải tồn tại.
Khi chúng ta có một viễn cảnh rộng rãi hơn đặt trên cơ sở
của từ bi yêu thương, chúng tôi nghĩ những sự việc trở nên
dễ dàng hơn. Một lần nữa, từ bi yêu thương là nhân tố chìa
khóa.
GIẢI TRỪ QUÂN BỊ
Ngày nay, tình trạng thế giới chúng ta đã được
làm bớt căng thẳng một cách đáng kể. May mắn thay, bây giờ
chúng ta có thể nghĩ và nói một cách nghiêm chỉnh về giải
trừ quân bị, hay tối thiểu ý tưởng về giải trừ quân bị. Năm
năm về trước, hay có thể ngay cả gần đây như hai năm về
trước, thật khó khăn ngay cả nói về nó, nhưng bây giờ Chiến
tranh lạnh giữa Liên Sô và Hoa Kỳ đã qua rồi. Với sự lưu
tâm đến Hoa Kỳ, chúng tôi luôn nói với những người bạn Hoa
Kỳ của chúng tôi rằng, “Sức mạnh đến không từ vũ khí hạt
nhân nhưng từ ý tưởng cao quý của tổ tiên quý vị về tự do,
giải phóng, và dân chủ”. Khi ở Hoa Kỳ vào năm 1991, chúng
tôi có cơ hội gặp gở cựu Tổng thống George Bush. Lúc ấy
chúng tôi đã bàn thảo về Trật tự thế giới mới, và chúng tôi
đã nói với ông rằng, “Một trật tự thế giới mới với từ bi yêu
thương là rất tốt. Chúng tôi không chắc về một Trật tự thế
giới mới mà không có từ bi yêu thương.” Chúng tôi bây giờ
tin rằng thời điểm đã chin muồi để nghĩ và nói về giải trừ
quân bị. Có những dấu hiệu sẵn sàng về giảm thiểu vũ khí
cho lần đầu tiên, giải trừ quân bị. Từng bước từng bước,
chúng ta đang thấy một sự giảm thiểu quân bị, và chúng tôi
nghĩ mục tiêu của chúng ta nên giải thoát thế giới – hành
tinh bé nhỏ của chúng ta – khỏi vũ khí. Tuy nhiên, điều này
không có nghĩa là chúng ta nên phá hủy tất cả những loại vũ
khí. Chúng ta có thể giữ lại một số, vì luôn luôn có một số
những người và những nhóm tác hại ở xung quanh chúng ta. Để
phòng ngừa và được bảo vệ an toàn đối với những nguồn tác
hại này, chúng ta nên xây dựng một hệ thống của lực lựơng
cảnh binh giám sát quốc tế khu vực, không nhất thiết thuộc
một quốc gia nào nhưng kiểm soát chung và quản lý một cách
căn bản bởi một tổ chức như Liên hiệp quốc hay một tổ chức
quốc tế tương tự như vậy. Bằng cách ấy, không có vũ khí sẵn
sàng, sẽ không có hiểm họa xúng đột quân sự giữa các quốc
gia, và cúng không có những cuộc nội chiến.
Chiến tranh vẫn tồn tại, một cách đáng buồn thảm,
một phần của lịch sử nhân loại cho đến hiện tại, nhưng chúng
tôi nghĩ thời điểm đã đến để thay đổi những nhận thức khái
niệm mà đã dẫn đến chiến tranh. Một số người có ý kiến rằng
chiến tranh là những gì vinh quang; họ nghĩ là thông qua
chiến tranh họ có thể trở nên những anh hùng. Thái độ thông
tục này đối với chiến tranh là rất sai lạc. Gần đây trong
một cuộc phỏng vấn đáng lưu ý đến chúng tôi. “người phương
Tây rất sợ hãi với cái chết, nhưng người phương Đông dường
như rất ít sợ hãi cái chết”. Cho vấn đề ấy, chúng tôi trả
lời nữa đùa rằng: “Dường như đối với chúng tôi là, với tâm
lý phương Tây, chiến tranh và tổ chức quân đội là cực kỳ
quan trọng. Chiến tranh có nghĩa là chết – bằng sự giết
chóc, không phải do nguyên nhân tự nhiên. Vì vậy, nói tóm
lại, dường như quý vị là những người không sợ chết, bởi vì
các vị quá thích với chiến tranh. Trái lại, chúng tôi, đặc
biệt là người Tây Tạng, không thể ngay cả lưu ý đến chiến
tranh, chúng tôi không thể nghĩ đến chiến đấu , bởi vì kết
quả không thể tránh của chiến tranh là thảm họa: chết chóc,
thương tật, và khốn cùng. Vì vậy, khái niệm của chiến tranh,
trong tâm chúng tôi là cực kỳ tiêu cực. Điều ấy có nghĩa là
chúng tôi thực sự sợ hãi chiến tranh hơn các vị. Quý vị có
nghĩ như thế chứ?” Đáng tiếc thay, do bởi những nhân tố như
thế đấy, ý kiến về chiến tranh của chúng tôi thì không đúng.
Vì vậy, thời điểm đã đến để suy nghĩ một cách nghiêm khắc về
giải trừ quân bị.
Chúng tôi đã cảm thấy điều này một cách rất mạnh
mẽ trong khi và sau khi sự cố vùng Vịnh Ba tư (Persian
Gulf). Dĩ nhiên, mọi người quy trách nhiệm cho Saddam
Hussein, và không có câu hỏi rằng Saddam Hussein là một
người tiêu cực – ông ta đã làm nhiều lỗi lầm và hành động
một cách sai lầm trong nhiều cách. Cuối cùng, ông ta là một
nhà độc tài, và một nhà độc tài, dĩ nhiên, có những thứ tiêu
cực. Tuy vậy, nếu không có tổ chức quân đội, không có vũ
khí, Saddam Hussein không thể vận hành như một nhà độc tài.
Ai đã cung cấp vũ khí? Những người cung cấp phải chịu một
phần trách nhiệm. Những quốc gia cung cấp vũ khí cho ông ta
mà không nghĩ đến hậu quả.
Chỉ nghĩ đến tiền, của sự lợi nhuận từ việc bán
vũ khí thì thật là khủng khiếp. Chúng tôi đã một lần gặp
một phụ nữ Pháp, người đã nhiều năm ở Beirut, Li-băng. Bà ta
nói với chúng tôi một cách buồn bả rằng trong thời gian xảy
ra sự cố ở Beirut có những người đã kiếm được lợi nhuận tại
một thành phố do bán vũ khí và cùng ngày ấy đến bán tại một
thành phố khác, những người vô tội khác bị giết với những vũ
khí ấy. Tương tự như vậy, một phía này của hành tinh chúng
ta, có những người hoang phí do lợi nhuận từ việc bán vũ khí,
thì ở phía khác của hành tinh chúng ta có những người vô tội
phải chết vì những viên đạn ấy. Vì vậy, bước đâu tiên phải
dừng bán vũ khí. Thỉnh thoảng chúng tôi đùa với những người
bạn Thụy Điển của chúng tôi rằng: “Ô, quý vị thật là tuyệt
vời. Trải qua những thời điểm cuối cùng của xung đột quý vị
vẫn duy trì trung lập. Và quý vị luôn luôn quan tâm đến việc
quan trọng của nhân quyền và hòa bình thế giới. Thật là tốt.
Nhưng cùng lúc quý vị đang bán rất nhiều vũ khí. Đây có một
chút gì mâu thuẫn, có phải không?”
Vì vậy, từ thời điểm của sự cố Vùng vịnh Ba tư,
chúng tôi tự làm một lời hứa trong tâm rằng – nguyện rằng
cho đến hết cuộc đời của mình, chúng tôi sẽ cống hiến xa hơn
cho một ý tưởng của giải trừ quân bị. Đến khi mà xứ sở của
chính chúng tôi được quan tâm, chúng tôi nguyện trong tâm
mình rằng trong tương lai, Tây Tạng nên được hoàn toàn là
một khu vực phi quân sự. Một lần nữa, trong hành động để
mang đến sự giải trừ quân bị, nhân tố then chốt là lòng từ
bi yêu thương của nhân loại.
KẾT LUẬN: Ý NGHĨA CỦA TỪ BI YÊU THƯƠNG
Chúng tôi đã nói nhiều về từ bi yêu thương mà
chưa giải thích ý nghĩa chính xác của nó. Chúng tôi muốn
kết luận bằng việc giải thích ý nghĩa của từ bi yêu thương,
điều thường bị hiểu sai lạc. Lòng từ bi yêu thương chân
thành không đặt cơ sở trên kế hoạch và dự tính của chính
chúng ta, nhưng đúng hơn là trên quyền lợi của những người
khác không kể là bạn thân hay kẻ thù, cũng như thế người ấy
ao ước cho hòa bình và hạnh phúc, và nguyện ước vượt thoát
khổ đau, và rồi thì trên căn bản ấy chúng ta phát triển sự
quan tâm chân thành cho những vấn đề của họ. Đây là lòng từ
bi yêu thương chân thành.
Thông thường khi chúng ta quan tâm đến một người
bạn thân, chúng ta gọi đây là từ bi yêu thương. Đấy không
là từ bi yêu thương; nó là sự ái luyến, hay vướng mắc (gắn
bó). Ngay cả trong hôn nhân, những cuộc hôn nhân lâu dài vì
không phải do bởi gắn bó ái luyến đơn thuần, mặc dù nó là sự
hiện diện một cách thông thường – nhưng bởi vì cũng có từ bi
yêu thương. Hôn nhân ngắn ngủi do bởi thiếu vắng từ bi yêu
thương, chỉ có tình cảm ái luyến đặt cơ sở trên kế hoạch, dự
tính và cả ảo tưởng (sự trông mong). Khi chỉ có sự quan hệ
ràng buộc giữa những người bạn thân là gắn bó ái luyến, rồi
thì khi ngay cả chỉ có một vấn đề nhỏ có thể làm nguyên cớ
cho những kế hoạch (ảo tưởng) của một người thay đổi. Ngay
khi kế hoach chúng ta thay đổi, sự gằn bó ái luyến liên kết
biến mất – bởi vì sự ái luyến gắn bó ấy đã được đặt cơ sở
đơn thuần trên kế hoạch ,dự tính và cả ảo tưởng (sự trông
mong).
Có thể có một lòng từ bi yêu thương mà không
vướng mắc (ái luyến) – và tương tự, có một sự sân giận mà
không thù hận. Vì vậy, chúng ta cần phải làm sáng tỏ minh
bạch sự khác nhau giữa từ bi yêu thương và ái luyến ràng
buộc, giữa sân giận và thù hận. Sự sáng tỏ rõ ràng như vậy
rất lợi ích trong đời sống hằng ngày và trong ảnh hưởng tác
động của chúng ta với hòa bình thế giới. Chúng tôi lưu tâm
rằng đây là căn bản của những giá trị tâm linh cho hạnh phúc
của toàn nhân loại, không kể dù đấy là một người tín
ngưỡng hay không tín ngưỡng.
Dimensions of Spirituality
http://www.lamayeshe.com/otherteachers/hhdl/dimensions.shtml
Tuệ Uyển chuyển ngữ
05 - 08 - 2008
08-06-2008 11:23:46