ỨNG DỤNG LÝ NHÂN QUẢ VÀO CUỘC SỐNG
Thích Thông Phương
---o0o---
I- XÁC ĐỊNH NIỀM TIN CHÂN THẬT
Nhân quả là một chân lý hiện thực của thế gian,
không do đặt ra, không thuộc riêng một cái gì. Lâu nay người
học Phật thường có hiểu lầm, cho đây là giáo lý phổ thông để
dạy người sơ cơ mới vào đạo, người tu lâu không quan tâm. Sự
thật thì ngược lại, lý nhân quả không phải tầm thường, người
hiểu tột lý nhân quả không phải dễ dàng. Nghĩa là phải thấu
tột bằng chính trí tuệ của mình, không phải chỉ hiểu qua loa
trên chữ nghĩa. Điều quan trọng là, hiểu rõ và ứng dụng sống
được chăng, đó mới là ý nghĩa thiết thực.
Trước khi đi sâu vào vấn đề, mỗi người phải hiểu
nhân quả có đúng là một chân lý để chúng ta tin hay không ?
Và làm sao biết là chân lý ?
Đúng ý nghĩa, chân lý là suốt cả không gian và
thời gian không thay đổi, không phải đúng ở chỗ này không
đúng ở chỗ kia, hoặc đúng ở lúc này không đúng ở lúc khác.
Chúng ta hãy xét xem, nhân quả có tự bao giờ ?
Không thể chỉ ra thời gian mà có thế gian, có chúng sanh là
có nhân quả, từ xưa tới nay mọi vật trong thế gian đều không
thoát ngoài nó. Từ cây cam, cây bưởi, con bò, con trâu, con
trùng, con kiến, con muỗi đều có nhân mới thành quả, không
ngẫu nhiên mà có. Tức nhân cha mẹ, nhân hạt giống… Ngay quả
địa cầu tưởng chừng như có sẵn từ bao giờ, song theo các nhà
khoa học phát minh, nó cũng từ những đám bụi ban đầu quay
nhanh, kết dần mà thành.
Ở đây chủ yếu nhắm vào con người, vì đó là trọng
tâm của cuộc sống. Mọi khổ vui, được mất trên đời là ngẫu
nhiên hay đều có nhân ? Đồng là người tại sao có ngu có trí,
có sang có hèn, có đẹo có xấu… sai khác nhau ? Ngay cùng cha
mẹ sinh ra, cùng một huyết thống cũng có khác, có đứa con
thông minh cũng có đứa con ngu độn, có đứa đẹp có đứa xấu…
Cái gì tạo nên như thế ? Rồi trên trái hàng tỉ người, không
gương mặt ai giống ai hoàn toàn ? Đó là vì sao ? Cái gì lý
giải được những điều đó ? Quả là chỉ có nhân quả mới giải
quyết thông suốt như trong phần “Nghiệp báo sai biệt” đã
giải thích.
Đã xét đúng như thật rồi, từ đó chúng ta mới xác
định niềm tin của mình không lay chuyển, vì đây là niềm tin
đã được chọn lọc, đã suy xét kỹ, từ trí tuệ mà khởi. Phật
cũng không áp đặt bắt buộc phải nhắm mắt tin. Do đó, đi vào
thực tế, muốn biết chữ phải đi học, muốn có phước phải tạo
nhân lành, không cầu quyển sách ước, cây gậy thần, không đổ
lỗi cho may rủi, hên sui. Không phải đem nải chuối cúng Phật
rồi cầu đủ thứ, không được thì bảo Phật không linh. Phật
từng bảo, Ta không phải vị thần ban phước giáng họa. Ngài là
người giác ngộ trước, và từ ánh sáng giác ngộ đó, Ngài chỉ
bày nhân quả rõ ràng cho người, vạch ra cho thấy đâu là nhân
đau khổ, đâu là nhân an vui, muốn được an vui phải tránh tạo
nhân xấu ác mà tạo nhân tốt lành thì sẽ được an vui, được
phúc lạc, còn cứ làm điều dữ, điều xấu không chừa mà cầu
Phật ban phước, Phật làm sao ban ?
Vậy thì phải ứng dụng nhân quả vào cuộc sống như
thế nào ?
II- XÉT QUẢ NGỪA NHÂN
Biết rõ quả hẳn từ nhân mà có, không có chuyện
ngẫu nhiên. Hiện tại khổ hay vui đều nhân quá khứ đã tạo,
muốn không khổ, muốn được an vui, phải tránh nhân xấu, đó là
chân lý thiết thực. Kinh dạy: “Bồ tát sợ nhân, chúng sanh sợ
quả”. Bồ tát có trí tuệ thấy rõ quả vốn từ nhân mà sanh, nên
cẩn thận từ cái nhân, không muốn có cái quả đó thì trước
phải tránh cái nhân đó. Trái lại, chúng sanh vì thiếu trí
tuệ, cái nhân ác cứ tạo rồi khi quả đến thì than van oán
trách, chạy trốn hoặc tự tử… Song trốn làm sao khỏi, khi quả
đã chín tới ? Mình chửi người, mà muốn người đừng chửi lại,
đừng oán hờn mình sao được ? Nếu mình có quyền thế, họ
không dám chửi lại ngay lúc đó, nhưng họ cũng hận trong lòng,
gặp dịp mình thất thế họ sẽ trả lại cho mình.
Phật dạy người Phật tử phải biết giữ gìn năm
giới cấm, chính là ngừa cái nhân dữ, giúp người sống được an
vui đúng pháp. Kinh Pháp Cú có câu:
"Người ngu làm điều ác
Không tự biết lỗi lầm
Khi tội thành, họa đến
Tự thiêu đốt thân tâm."
Người học Phật chân chính phải nắm vững lẽ thật
này để sống khế hợp với Phật pháp.
Hơn nữa người hiểu đạo, biết rõ quả vốn từ nhân
mà có, nên dù gặp quả khổ đến vẫn cứ bình tĩnh trả, không
oán trách than thở. Tổ Bồ Đề Đạt Ma dạy về Hạnh Báo Oán như
sau:
"Người tu hành khi gặp phải cảnh khổ, phải tự
nghĩ nhớ rằng: Ta từ trong vô số kiếp lâu xa, đã bỏ quên gốc
chạy theo ngọn, đành bị trôi nổi lang thang trong các cõi. Ở
trong đó phần nhiều dấy tạo không biết bao nhiêu điều trái
nghịch, oán ghét, hận thù. Nay đây, tuy không có phạm phải,
nhưng đó là họa ương đời trước của mình, cái quả của nghiệp
dữ đã chín muồi, chớ chẳng phải trời, chẳng phải người hay
ai đem đến cho mình, sẵn lòng mà nhận chịu thôi, đều không
sanh tâm oán trách. Kinh nói: “Gặp khổ chẳng lo buồn. Tại
sao ? Vì biết thấu suốt duyên cớ".
Tức là người biết tu, khi gặp cảnh khổ đến, tự
xét rõ, đây là do nhân quá khứ của mình đã tạo, không phải
ngẫu nhiên ai đem đến cho mình. Dù đời này mình không có tạo
nhiều nghiệp ác, song trong quá khứ lâu xa của dòng luân hồi,
mình đã tạo biết bao thứ nghiệp đâu thể nhớ biết, nay quả đã
chín tới thì phải chịu, như có nợ trả xong thì nhẹ nhàng.
Còn nhân lành hiện nay mình đã làm, nó sẽ kết thành quả về
sau không mất đi đâu. Do quán xét như thế nên bình tĩnh
trước cảnh khổ, yến tâm tu hành. Trái lại, người đời không
rõ lẽ nhân quả sâu xa ấy khi gặp cảnh khổ tới thì oán trời
trách đất, tưởng như trời đất bất công, sao cứ đem cảnh khổ
đến cho mình. Không ngờ đó là quả mình đã tạo từ trước, oán
hận, nguyền rủa, càng tạo thêm ni mới, khổ chồng thêm khổ,
không thể hết.
Kinh Pháp Cú có câu chuyện:
Thuở xưa có anh chàng mồ côi cha, sống nuôi mẹ
rất hiếu thảo. Đến tuổi trưởng thành nhưng chàng không chịu
lấy vợ. Thấy con làm việc nhọc nhằn, bà mẹ khuyên chàng nên
lấy vợ để giúp bớt việc nhà. Lần đầu chàng từ chối, nhưng bà
bẹ nói nhiều lần, chàng đành chịu, và bà tìm cưới cho chàng
một cô gái trong xóm. Không may cô dâu này không sinh đẻ, bà
mẹ thì nóng lòng muốn có cháu, nên bà lại bàn với con trai
cưới thêm vợ lẽ. Chàng trai nhất định không chịu. Bà mẹ cứ
khuyên nhiều lần khiến cô vợ nghe được. Cô nghĩ, nếu để bà
đi cưới vợ lẽ cho chồng thì cô sẽ bị xem thường, chi bằng tự
cô đi cưới vợ lẽ cho chồng. Cô tìm được một cô gái trẻ trong
xóm cưới về cho chồng. Nhưng rồi co cũng không an tâm. Cô
dặn người vợ lẽ này khi nào có thai thì cho cô hay để cô
mừng. Cô vợ sau thật thà, khi biết mình có thai bèn báo cho
cô vợ cả. Cô này bèn tìm cách bỏ thuốc phá thai, kết quả cô
vợ sau bị sẩy thai. Lần thứ hai cũng thế. Các chị em hàng
xóm thấy vậy tò mò hỏi thăm và biết là do cô vợ cả hại, bèn
bảo cô này không nên thật thà báo cho cô ấy biết nữa.
Lần thứ ba có thai, cô này im lặng không cho cô
vợ cả biết. Nhưng cô ấy thấy bụng cô vợ sau to dần thì hỏi
đến. Biết được rồi, cô không chịu thua, cũng tìm lúc cô vợ
sau sơ hở, bèn bỏ thuốc phá thai như trước. Nhưng cái thai
đã lớn thành hình nên khiến cho cả mẹ lẫn con đều chết.
Trước khi nhắm mắt, cô vợ sau uất hận thề phải trả thù trong
kiếp sau. Sau khi chết cô ta sanh làm con mèo trong nhà ấy.
Ông chồng biết sự việc, bèn đánh đập người vợ cả, khiến
người này cũng bệnh chết và tái sanh làm con gà mái ở trong
nhà. Mỗi khi con gà mái đẻ trứng thì con mèo đều đến ăn sạch.
Lần thứ ba thì nó bắt ăn luôn gà mái mẹ.
Gà mái chết sanh làm con beo cái. Con mèo sau đó
không lâu cũng chết sanh làm con nai cái. Mỗi khi nai cái
sanh con đều bị beo đến bắt ăn luôn nai cái.
Nai cái chết lại sanh làm quỷ Dạ xoa cái và bao
cái chết thì sanh làm một con gái trong một gia đình tôn quý
ở Xá Vệ. Khi lớn lên cô gái lập gia đình. Một thời gian sau,
cô sanh đứa con đầu lòng, quỷ Dạ xoa bèn biến thành người
bạn thân của cô đến thăm. Người nhà không biết, bèn chỉ cho
Dạ xoa vào phòng con gái. Dạ xoa đi vào phòng và nhanh tay
chộp lấy đứa bé nhai nuốt gọn. Lần thứ hai cũng thế. Đến lần
thứ ba cô vợ bàn với chồng, ở đây có quỷ Dạ xoa đã ăn thịt
hai đứa con trước, lần này định phải trở về nhà cha mẹ để
sinh nở.
Nói về quỷ Dạ xoa, lúc ấy tới phiên phải đi lấy
nước cho vị chúa tể cai quản mình, mấy tháng sau mới hết hạn
trở về. Quỷ Dạ xoa vội vàng tìm đến gặp người vợ trẻ này.
Đến nơi thì được biết cô này đã đi về nhà cha mẹ, nó liền
chạy vào thành tìm.
Lúc này đã đến ngày đặt tên, bà mẹ tắm rửa và
đặt tên cho đứa con xong, bàn với chồng trở về nhà.
Trên đường về, đi ngang qua Tinh xá, đến hồ nước
của Tinh xá, cô giao con cho chồng và xuống hồ tắm. Tắm xong,
cô lên ẵm con cho chồng tắm. Ngay lúc ấy, Dạ xoa chạy tới,
cô vợ hoảng hốt, vội ẵm con chạy thẳng vào Tinh xá. Gặp lúc
Thế Tôn đang thuyết pháp giữa chúng hội, cô đặt đứa bé dưới
chân Thế Tôn và thưa: “Con xin cúng dường Ngài đứa bé này,
xin Ngài cứu lấy nó!”.
Quỷ rượt tới cổng Tinh xá bị thần giữ cổng ngưng
lại. Thế Tôn biết, bèn bảo Tôn giả A-nan gọi vào. Thế Tôn
dạy: “Sao ngươi làm như vậy ? Nếu không gặp một vị Phật như
ta, ngươi sẽ ôm ấp mối hận này đến ngàn đời không khác gì
con rắn và con cáo hay quạ và cú. Sao ngươi lấy oán trả oán
? Chỉ có tình thương mới dập tắt được hận thù. Thế Tôn liề
nói kệ:
"Đời này hận rửa hận,
Muôn thuở chẳng sạch thù.
Từ bi rửa sạch hận,
Là định luật ngàn thu."
Dứt bài kệ Dạ xoa đắt quả Tu-đà-hoàn, và giải
tỏa được mối oan trái hận thù từ nhiều kiếp.
Quả thực nếu không hiểu Phật pháp, rõ thấu lý
nhân quả, cứ đem hận thù kết chặt với hận thù, tạo thành cái
khổ truyền kiếp, cần cởi mở thì nhẹ nhàng và an vui cả hai.
Oán hận nên cởi không nên cột, là điều cần phải nhớ!
Chuyện thứ hai là Ngài Giới Hiền ở chùa Na-lan-đà
sống một trăm hai mươi tuổi, gặp pháp sư Huyền Trang từ
Trung Hoa qua. Ngài hỏi thăm lai lịch xong, bèn xúc động mời
ngồi và bảo để tử là Giác Hiền lúc đó cũng trên bảy mươi
tuổi, thuật lại nhân duyên của Ngài cho chúng cùng nghe.
Ngài Giác Hiền cũng cảm động rơi nước mắt thuật
lại rằng: “Hòa thượng vốn có bệnh phong thấp nặng, thường bị
đau nhức như trăm ngàn mũi dao đâm vào. Ngài chịu đựng mấy
mươi năm. Cách đây ba năm, chịu hết nổi, Ngài định nhịn ăn
cho chết. Đêm đó, Hòa thượng bổng mơ màng thấy ba vị Bồ tát
Quan Âm, Di Lặc và Văn Thù hiện đến bảo Ngài: “Phật dạy chán
thân này nhưng không bảo hủy hoại thân. Ông do đời trước làm
vị quốc vương đem binh đánh giết nhiều người, nay do công
phu tu hành, tội kia đáng lý bị đọa nhưng chuyển lại thành
bệnh hiện đời. Ông hãy nhẫn chịu, đợi ba năm sau có vị tăng
từ Đông độ đến học pháp, ông chỉ dạy pháp Đại thừa cho vị ấy
để truyền bá rộng thêm, bệnh ông cũng sẽ hết”. Nay Hòa
thượng gặp Ngài Huyền Trang đây là đúng duyên đó, nên Hòa
thượng xúc động”. Quả nhiên, từ đó bệnh của Ngài Giới Hiền
cũng hết.
Ban đầu, Ngài Giới Hiền chưa biết rõ nguyên nhân
bệnh khổ nên buồn chán, định nhịn đói cho chết. Khi được
biết rõ nhân quả xưa nay rồi, Ngài có thêm sưa mạnh nhẫn
chịu và làm lợi ích cho Phật pháp nhiều hơn. Hiểu rõ nhân
quả càng giúp ích cho cuộc sống, đó là một lẽ thật.
III- BIẾT NHÂN KHÔNG MÊ QUẢ:
Trên là chiều nghịch, đây là chiều thuận. Nếu
hiện tại mình được quả tốt, phước báo sung sướng nhưng không
mê mờ trong đó mà tự kiêu căng khinh người, biết rõ thảy do
nhân lành đời trước mình đã tạo, không phải tự nhiên mình có.
Nếu không biết vun bồi tiếp, sẽ có lúc tiêu hết. Tổ
Bồ-đề-đạt-ma dạy trong Hạnh Tùy Duyên như sau:
“Chúng sanh vốn không có ngã, thảy do nghiệp
chuyển thành, đồng nhận cả khổ vui đều do duyên sanh. Nếu
người được quả báo thù thắng giàu sang, có tiếng tăm…, đó là
do cái nhân trước kia ở đời quá khứ đã tạo mà cảm nên, nay
mới có được, khi duyên hết cũng trả về không, có gì vui mừng
? Hoặc được, hoặc mất cũng chỉ tùy duyên, tâm không thêm bớt,
gió mừng chẳng làm động, thần thuận với đạo”.
Đây Tổ dạy, người tu hành phải xét như thế để
trừ lòng kiêu căng, tự hào, quên tạo duyên lành tiếp xúc để
dùng về sau. Câu chuyện sau đây sẽ làm sáng tỏ thêm ý nghĩa
này:
Bà Tỳ-xá-khư một nữ thí chủ quan trọng trong
thời Đức Phật. Lúc còn trẻ, bà được gả về làm dâu cho một
gia đình vị chưởng khố giàu sang có tiếng. Hôm ấy, bà đứng
quạt hầu cho ông cha chồng đang ngồi trên một chiếc ghế sang
trọng, ăn món cháo thượng vị với mật đựng trong đĩa vàng.
Lúc đó có một vị Tỳ kheo vào nhà khất thực. Tỳ-xá-khư vội
đứng qua một bên cho ông cha chồng nhìn thấy Trưởng lão,
nhưng ông tuy thấy vẫn giả như không thấy, cứ cuối xuống ăn.
Tỳ-xá-khư liền thưa với Trưởng lão: “Xin cứ đi vì cha chồng
tôi đang ăn thức ăn thiu!” Ông này nghe con dâu mới về dàm
nói như thế, bèn nổi giận bảo dẹp mâm cháo và ra lệnh đuổi
Tỳ-xá-khư ra khỏi nhà. Vì gia nhân và tỳ nữ đều thuộc người
của cô nên không ai dám hé môi, cô liền thưa với cha chồng:
- Thưa cha, lý do đó không đáng để con bị đuổi
đi. Con không phải là cô gái tầm thường ngoài đường, ở một
chỗ tắm nào đó bên bờ sông được cha lượm về. Con gái nhà gia
giáo, có cha mẹ đàng hoàng, không thể rời nhà chồng bởi lý
do đó. Ngoài ra, cha con có giao cho con tám gia chủ bảo hộ,
và khi có lỗi họ có trách nhiệm làm sáng tỏ vấn đề. Xin cha
cho mời tám gia chủ đến phân xử.
Tám vị ấy được mời đến. Ông cha chồng bảo:
- Ngày đại lễ như thế, địa vị của tôi như vầy mà
cô ta lại bảo tôi ăn cháo thiu. Các ông hãy buộc tội cô ta
và đuổi khỏi nhà này.
Các gia chủ kia hỏi:
- Có phải thế không, thưa cô ?
Tỳ-xá-khư đáp:
- Lời tôi nói không đúng hẳn như thế. Số là có
một vị Tỳ kheo đi khất thực dừng hân trước cửa nhà. Cha
chông tôi đang dùng cháo ngon với mật, hoàn toàn không nhìn
đến trưởng lão. Tôi thiết nghĩ ông không có tạo được phước
đức mới hiện đời, chỉ hưởng phước đức cũ của đời trước. Do
đó tôi nói với vị Tỳ kheo là ông đang ăn đồ cũ. Vậy tôi có
lỗi gì ?
Các gia chủ đều đồng ý là Tỳ-xá-khư nói đúng.
Rõ ràng, hiện nay tuy có phước mà có lo hưởng
không tạo thêm nhân mới, giống như ăn cháo thiu ngày hôm qua
chứ gì! Phước đó nó cũng vô thường, không còn mãi, hưởng hết
họa sẽ tới. Ngàn xưa có câu: “Có phước không nên hưởng tận”.
Trong hiện tạo có biết bao người đang sống giàu sang, quyền
thế, bỗng dưng tai nạn đến tiêu tan sự nghiệp, bị tù tội…
đây là một sự thật rất nên nghiệp xét kỹ!
Người học đạo sáng suốt khéo lấy đó tư cảnh tỉnh
m. Gặp khổ đau không buồn trách, gặp vui sướng không kiêu
căng, mà luôn luôn nuôi dưỡng tâm lành, tạo nghiệp lành,
trồng nhân tốt để lo xa về sau. Đốn cây to phải lo trồng cây
nhỏ, đó là sống có hậu.
IV- TRẢ LẠI QUYỀN TỰ CHỦ CHO CON NGƯỜI:
Đã rõ khổ vui là do chính mình tạo, rồi mình
nhận lấy, không ai đem đến, không đổ trách nhiệm cho ai,
không ỷ lại, cầu mong một chiều từ bên ngoài.
Kinh Pháp Cú Phật dạy:
"Tự mình làm điều ác,
Tự mình sanh ô nhiễm.
Tự mình không làm ác,
Tự mình thanh tịnh mình.
Thanh tịnh, không thanh tịnh,
Đều do tự chính mình.
Ai thanh tịnh cho ai ?"
Tự mình làm ác, là mình tạo nhiễm ô, nhơ xấu cho
mình, không ai làm mình nhiễm ô. Cũng vậy, tự mình không gây
tạo điều ác, là tự mình làm cho mình thanh tịnh, lẽ thật là
như vậy, đâu ai khác làm cho mình thanh tịnh, nếu mình không
muốn sống thanh tịnh, tức tránh điều ác! Đây là trả quyền tự
chủ cho tất cả người thế gian. Chính mình có quyền làm cho
mình thanh tịnh, hay làm cho mình nhiễm ô, tự mình định đoạt
lối đi cho mình, không ai chen vào. Mà có đúng vậy chăng ?
Nếu tâm mình cứ tham đắm nhiễm ô thì ai có thể làm cho mình
thanh tịnh ? Mình không chịu tu, ai có thể tu thay cho mình,
làm cho mình giác ?
Trong kinh Lăng Nghiêm, Tôn giả A-nan sau khi bị
nạn Ma-đăng-già làm mê hoặc, trở về gặp Phật liền thưa:
- Con tưởng xuất gia theo Phật, ỷ lại vào oai
thần Phật mà nghĩ, mình không phải nhọc nhằn tu tập, Như Lai
sẽ ban cho con Chánh định. Nay mới biết, tuy học rộng nghe
nhiều mà chẳng tu tập thì cùng người chưa nghe không khác.
Như nói ăn trọn chẳng nghiệp bụng.
Ngài A-nan ban đầu ỷ lại, trông cậy vào Phật, vì
Ngài là em Phật. Sau mới biết, việc tu hành phải chính mình
tự tu mới có khả năng giải thoát cho mình. Câu: “Hãy tự mình
thắp đuốc lên mà đi”, là câu Phật thường nhắc nhở hàng đệ tử.
Có câu chuyện thiền: có một tín đồ đang đứng
dưới thềm nhà tránh mưa, thấy một vị thiền sư cầm dù đi qua
liền gọi to:
- Thiền sư! Hãy độ khắp chúng sanh một phen đi!
Đem con đi một quảng đường thế nào?
Thiền sư bảo:
- Tôi ở trong mưa, ông ở dưới mái hiên không có
mưa, ông chẳng cần đến tôi độ.
Tín đồ liền chạy ra khỏi mái hiên, đứng trong
mưa nói:
- Hiện tại con đang ở trong mưa, xin độ con đi!
Thiền sư bảo:
- Tôi ở trong mưa, ông cũng ở trong mưa, tôi
chẳng bị mưa ướt, nhân vì có dù; ông bị mưa ướt, bởi do
không có dù. Do đó chẳng phải tôi độ ông, mà là dù độ tôi,
ông muốn được độ, mời hãy tự kiếm dù!
Nói xong Thiền sư liền đi!
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Câu chuyện thâm ý nhắc nhở người không thể hoàn
toàn ỷ lại vào bên ngoài. Nhờ dù người, người không cho mình
đành chịu ướt, sao bằng tự mình kiếm cây dù cho mình thì tự
do đi trong mưa. Cũng vậy, tự mình phải tạo một sức công phu
tu hành, để tự có khả năng thắng phục phiền não, vượt thoát
khổ đau. Có ăn mới tự nghiệp bụng, cần nên nhớ!
V- ĐƯA CON NGUỜI ĐẾN VĂN MINH TIẾN BỘ:
Nếu ai cũng chấp nhận theo định luật an bai, sắp
đặt sẵn thì hẳn không có phát minh. Các nhà khoa học không
chấp nhận như thế, mà luôn thắc mắc, nghiên cứu, suy tìm cho
ra nguyên nhân của mọi sự vật. Cái chưa tìm ra, khi bất ngờ
tìm ra, gọi là phát minh. Như bệnh chó dại, bệnh lao, do ông
Pasteur ông Kock chuyên tâm nghiên cứu quyết tìm ra nguyên
nhân của nó, nên cuối cùng tìm ra vi trùng gây bệnh chó dại,
vi trùng lao rồi mới dẫn đến chế thuốc để ngừa, để trị. Tức
nó phải có nguyên nhân gây bệnh, tìm ra nguyên nhân thì sẽ
có cách ngăn ngừa hoặc điều trị. Rồi vật chất, do các nhà
khoa học tìm sâu cái nhân kết thành, mới phát minh ra nguyên
tử, điện tử…
Chính Đức Phật ngày xưa đi dạo các cửa thành,
thấy cảnh người già lụm cụm, người bệnh oằn oại đau đớn,
người chết nằm trơ…, nếu Ngài an phận như mọi người thì đâu
có giác ngộ. Mọi người cho đó là chuyện dĩ nhiên, định luật
đã an bài, từ Tổ tiên, ông bà, cha mẹ mình có sinh ra thì
phải chết, mình cũng vậy thôi, chỉ đành cuối đầu chấp nhận.
Riêng đối với Đức Phật, Ngài không chịu như thế, không thể
là chuyện dĩ nhiên, nó phải có nguyên nhân của nó, nếu tìm
được nguyên nhân thì sẽ có cách giải quyết. Do đó Ngài thắc
mắc, quyết tìm nguyên nhân tại sao ai sinh ra rồi cũng già,
cũng chết, không có cách gì giải quyết vấn đề sanh tử này
sao ? Ngài bèn vượt thành xuất gia tìm đạo. Sau khi tìm học
với các vị tiên thời đó, có vị dạy Ngài tu chứng đến định
phi tưởng phi phi tưởng, một thứ định cao nhất của thế gian,
nhưng Ngài cảm thấy vẫn chưa thỏa mãn, vì vẫn còn trong sanh
tử. Cuối cùng, Ngài từ giả hết, đến cội cây Tất-bát-la ngồi
thiền định bốn mươi chín ngày đêm, phăng tìm nguyên nhân
sanh tử của kiếp người.
Đến đêm bốn chín, khi sao mai mọc, Ngài bừng
sáng lên, giác ngộ thành đạo, thấy rõ chính vô minh ái ngã
là gốc sanh tử luân hồi từ kiếp này sang kiếp khác. Chặt đứt
vô minh ái ngã là giải thoát sanh tử. Từ đây sanh tử đã có
cách giải quyết, không phải cúi đầu, bó tay đành chịu.
Bài pháp đầu Phật thuyết cho năm anh em ông Kiều
Trần Như tại Vườn Nai là giáo lý Tứ Đế, vốn nói rõ nhân quả
thế gian và xuất thế gian.
1- Tập Đế là nhân, đưa đến Khổ Đế là quả, tức
con đường đưa vào sanh tử luân hồi. Cái khổ của kiếp người
có nhân của nó là Tập, tức những phiền não tham, sân, mạn,
nghi, ác kiến…, chừng ào cái nhân ấy còn, là con người còn
phải nhận lấy quả khổ trong đường sanh tử, đó là chân lý
muôn đời, gọi là Đế.
2- Đạo đế là nhân, đưa đến Diệt Đế là quả. Muốn
dứt cái khổ truyền kiếp trên để chứng niết bàn an vui tuyệt
đối là Diệt Đế thì phải tu Đạo đế, như bát chánh đạo: chánh
kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng,
chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, nói rộng là 37 phẩm
trợ đạo, đó là nhân quả của xuất thế gian. Người thấu suốt
hai chiều nhân quả này, và ứng dụng đúng đắn, sẽ đưa đến
giải thoát chân thật, mở sáng con mắt đạo mà từ vô lượng
kiếp bị che mờ. Sao dám xem thường lý nhân quả ?
IV- KHÔNG LẦM NHÂN QUẢ TU HÀNH:
Do nắm vững lý nhân quả để tu hành nên không tu
lầm lẫn. Làm dữ, hại người, hại vật mà cầu Phật ban phước
lành, là chuyện không thể có.
Trong kinh A-hàm Phật có kể câu chuyện:
Có các vị Bà-là-môn đến hỏi Phật:
- Thưa Ngài Cồ Đàm! Đệ tử Ngài sau khi chết,
Ngài có thể cầu nguyện cho họ sanh về cõi lành được jo ?
Phật không trả lời mà hỏi lại:
- Đệ tử các ông chết, các ông có thể cầu nguyện
cho họ sanh về cõi lành được không ?
Các vị ấy đáp:
- Được.
Phật liền dùng thí dụ: như có cái giếng sâu, một
người lăn cục đá lớn để trên miệng giếng, rồi mời vài chục
thầy Bà-la-môn đến hỏi: tôi xô hòn đá này xuống giếng, xin
các thầy cầu nguyện cho nó đừng chìm được chăng ?
Các thầy Bà-la-môn đáp:
- Không được.
Phật hỏi:
- Tại sao ?
Các thầy đáp:
- Vì đá nặng phải chìm tận đáy giếng thôi, dù
cho cả ngàn người cầu cũng không được.
Phật lại dùng thí dụ:
- Như có người đem dầu đổ xuống giếng, rồi yêu
cầu các thầy tới cầu nguyện cho dầu kia chìm tận đáy giếng,
các thầy làm được chăng ?
Các thầy Bà-la-môn đáp:
- Không được.
Phật hỏi:
- Tại sao ?
Các thầy đáp:
- Vì dầu nhẹ nên phải nổi, dù có bao nhiêu người
cầu cho nó chìm nó cũng không chìm.
Phật bảo:
- Cũng vậy, nếu người làm lành, làm đi tốt dù
cho ácc ông cố cầu cho họ đọa địa ngục, họ cũng không đọa.
Còn người làm dữ, tạo quá nhiều tội ác, dù các ông cầu
nguyện mấy, họ cũng không thể sanh cõi lành.
Đây là Phật dạy nhân quả rành rõ, người học Phật
nắm vững tu hành không lầm lẫn thì được kết quả như ý nguyện.
Sâu hợn, nếu người tu giải thoát mà lo luyện cho thân sống
lâu bền chắc thì sao ? Là trái nhân quả, lấy cái vô thường
mà muốn cho thường sao được ? Không khéo lại nuôi dưỡng niệm
ái ngã trở lại, trái xa cái nhân giải thoát rồi. Hoặc tu
Phật mà tưởng cầu thần thông, mong được điểm đạo, là trái
với thể như như, rơi vào trong thức tưởng, có được có mất,
cũng thuộc vô thường, không phải con đường chánh giác.
Trong sử thiền Trung Hoa có nói đến một nhân
duyên của thiền sư Đạo Ưng. Sư cất am nơi Tam Phong, trải
qua tuần nhật không xuống trai đường thọ trai. Hòa thượng
Động Sơn thấy lạ, gặp sư hỏi:
- Mấy ngày nay sao ông không đến thọ trai ?
Sư thưa:
- Mỗi ngày có thiên thần cúng dường rồi.
Động Sơn bảo:
- Ta bảo ông là kẻ vẫn còn kiến giải. Ông rảnh
chiều hãy đến đây!
Chiều sư đến. Động Sơn gọi:
- Am chủ Ưng!
Sư đáp ứng:
- Dạ.
Động Sơn bảo:
- Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác là cái gì ?
Sư trở về am ngồi yên lặng lẽ, thiên thần tìm
mãi không thấy, trải qua ba ngày như thế mới thôi cúng dường.
Theo thông thường, tu được thiên thần cúng dường
là mọi người lễ bái không chán. Song đối trong nhà thiền, đó
là còn có tâm bị thấy, tức chưa được chấp nhận. Huống nữa,
tự mình mong cầu được thế này, thế kia thì càng bị quở.
Nếu đi sâu hơn nữa, hành giả phải thấu tột đến
chỗ vừa khởi niệm liền rơi vào nhân quả rồi! Vì khởi niệm là
động, là sanh, phải có quả là diệt, đây là nhân quả quả sanh
diệt vi tế, người công phu thật sâu mới thấu tột. Đã nhận rõ
đến đây, tỳi công phu tỉnh giác ngay trong từng tâm niệm,
không để lầm theo một niệm nào, dù rất nhỏ nhiệm. LÝ NHÂN
QUẢ đến đây có thể bảo là phổ thông, là chỉ dạy cho người cơ
sở mới vào đạo được chăng ?
VII- TÓM KẾT:
LÝ NHÂN QUẢ là nền tảng đi vào đạo, người tu
Phật phải nắm vững, hiểu kỹ không thể hời hợt thông qua.
Chính hiểu rõ nhân quả sẽ giúp cho người tu học đủ niềm tin
chân chánh không lầm, bình tĩnh trước khổ vui, lấy lại niềm
tự tin để vươn lên, chuyển xấu thành tốt, và không lầm lẫn
thành chê bai chánh pháp. Người đạt đạo cao không phải bác
bỏ nhân quả , mà thấu rõ tường tận nhân quả, tự tại trong
nhân quả.
Ngày xưa trong pháp hội của Tổ Bá Trượng có một
ông già thường theo chúng nghe pháp. Hôm nọ, chúng ra hết
chỉ còn ông già không đi, Sư hỏi:
- Ông là người gì ?
Ông già thưa:
- Con chẳng phải người. Thời quá khứ, thuở Đức
Phật Ca Diếp, con làm tăng ở núi này, nhân học trò hỏi:
- Người đại tu hành có rơi vào nhân quả chăng ?
Con đáp:
- Không rơi vào nhân quả.
Do đó, đến năm trăm đời con bị đọa làm thân chồn.
Nay thỉnh Hòa thượng chuyển một câu nói để con thoát khỏi
thân chồn.
Sư bảo:
- Ông hỏi đi ?
Ông già hỏi:
- Người đại tu hành có rơi vào nhân quả chăng ?
Sư đáp:
- Không lầm nhân quả.
Ngay câu nói ấy, ông già đại ngộ, làm lễ thưa:
- Con đã thoát thân chồn. Con ở sau núi, dám xin
Hòa thượng lấy theo lễ tăng chết mà tống táng con.
Sư vào trong gọi thầy Duy na đánh kẻng bảo chúng
ăn cơm xong đi đưa đám một vị tăng. Đại chúng nhóm nhau bàn
tán: “Đại chúng đều mạnh, nhà dưỡng bệnh không có ai nằm,
tại sao có việc này ?”.
Sau khi ăn cơm xong, sư dẫn chúng đến hang núi
phía sau, lấy gậy khơi lên thấy xác một con chồn vừa chết,
bèn làm lễ thiêu như vị tăng chết.
Trong đây cho thấy, người làm thầy phải hiểu cho
chín chắn, trước chúng chỉ đáp sai một câu phải bị đọa nhiều
kiếp. Đáp “không rơi vào nhân quả”, tức sống ngoài nhân quả,
bỏ lại nhân quả, khiến người dễ bài bác nhân quả. Còn :
“Không lầm nhân quả” tức người tu hành càng cao, càng thấy
rõ nhân quả tường tận, rành rẻ không lầm lẫn, không lờ mờ
nhân quả. Đó là một ý nghĩa thiết thực.
Xưa Đức Phật thành đạo, chứng Vô thượng bồ đề
nhưng còn mang thân này thì cũng già, cũng bệnh, cũng hoại,
song Ngài tự tại trong ấy, không vì nhân quả vô thường đó
làm mờ đi ánh sáng Chánh giác của Ngài.
Các bậc A-la-hán chứng vô sanh nhưng còn mang
thân này, thì cũng phải bỏ lại khi hết tuổi thọ, không phá
bỏ nhân quả vô thường, song các Ngài ra đi tự tại, làm chủ
sống chết, không đồng với người mê.
Tóm lại, một lý nhân quả này, nếu người thấu
triệt rốt ráo, tức đã mở mắt trí tuệ, đâu phải tầm thường,
không nên hời hợt cho là páap thấp, mình tu cao rồi không
cần tới là sai lầm.
Với người Phật tử, đủ niềm tin nhân quả không
thối chuyển, là bảo đảm đi trên đường chánh pháp, không rơi
vào tà kiến. Người tu Phật nên chín chắn chớ xem thường!
Có bài thơ của Hàn Sơn:
"Chẳng hành đạo chân chánh,
Theo tà hiệu Hạnh bà.
Thần, Phật miệng dần ít,
Tật đố chứa hằng sa.
Sau lưng tham cá thịt,
Trước người niệm Phật đà.
Tu thân như thế đó,
Gặp nạn tránh sao qua!"
Nguyên văn:
"Bất hành chân chánh đạo,
Tùy tà hiệu Hạnh bà.
Khẩu tiệm Thần, Phật thiểu,
Tâm hoài tật đố da.
Bối hậu sàng ngư nhục.
Nhân tiền niệm Phật Đà.
Như thử tu thân xứ,
Ứng nạn tỵ nại hà ?"
Thích Thông Phương
(Thiền Viện Thường Chiếu)
04-23-2008 07:23:12