PHÁP AN CƯ CỦA CHƯ TĂNG
Thích Thái Hòa
---o0o---
Các Tỳ-kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện
mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A-la-hán. Đời
sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh
tịnh.
Ý Nghĩa và Duyên khởi
Sau khi thành đạo, từ duới gốc cây Bồ-đề, đức
Thế Tôn đến vườn Nai, chuyển vận bánh xe chính pháp Tứ thánh
đế, độ năm anh em Kiều-trần-như (1), từ đó Phật, Pháp và
Tăng hiện hữu đầy đủ cả hai mặt lý và sự trong thế gian, làm
chỗ nương tựa phước đức và trí tuệ cho hai thế giới nhân và
thiên, nhằm hướng đến đời sống giải thoát, giác ngộ.
Giới luật hành trì đầu tiên của Tăng đoàn, theo
Luật Tứ Phần, trong mười hai năm đầu chỉ bao gồm những lời
dạy căn bản như sau:
- “Khéo phòng hộ lời nói, tâm ý tự lắng trong,
thân không làm điều ác, ba nghiệp đạo này tịnh, thực hành
được như thế, là đạo đấng Đại Tiên”(2).
Và sau mười hai năm, kể từ khi thành đạo, đức
Thế Tôn mới dạy nhiều về giới luật và pháp an cư cho Tăng
đoàn. Ngài dạy pháp an cư cho Tăng đoàn, vì những lý do như
sau:
- Do một số cư sĩ than phiền nhóm sáu Tỳ-kheo
luôn luôn du hành trong dân gian, bất luận mùa nào, giẫm đạp
làm chết vô số côn trùng.
- Họ còn than phiền rằng, những du sĩ ngoại đạo,
một năm còn có những tháng ở yên một chỗ để tịnh tu. Ngay cả
những loài vật, chúng cũng còn có những mùa trú ẩn, huống
nữa Tăng sĩ dòng họ Thích, tại sao không có đời sống như
vậy.
Do duyên cớ trên, đức Phật quở trách nhóm sáu
Tỳ-kheo ấy. Và Ngài chế định pháp an cư cho Tăng đoàn (3).
Song, an cư của Tăng đoàn không phải chỉ để
tránh giẫm đạp sâu bọ hay cỏ non, khiến làm thương tổn lòng
từ bi đối với muôn vật hay vì tránh những gì than phiền của
hàng cư sĩ, mà còn có những ý nghĩa và mục đích sâu sắc hơn
nữa, đó là:
- Nhằm trau dồi và nuôi lớn pháp Tam vô lậu học
là giới, định, tuệ, để xứng đáng là “Chúng Trung Tôn” của
bậc Trí, Đức hoàn toàn.
- Nhằm biểu lộ tinh thần thanh tịnh, hòa hợp và
đồng bộ của Tăng đoàn. Và khi nào Tăng đoàn biểu lộ được
tính chất ấy, thì chính pháp của đức Thế Tôn do Tăng đoàn
tuyên dương mới có hiệu quả và chứng nghiệm hiện thực.
- Và nhằm củng cố niềm tin cho hàng đệ tử tại
gia của đức Thế Tôn, đối với ngôi vị thế gian trú trì Tăng
bảo.
- Và an cư là pháp truyền thống để trau dồi
giới-định-tuệ của Tăng đoàn, đệ tử đức Thế Tôn trong ba đời.
Ý nghĩa pháp an cư như vậy, không phải chỉ được
thực hành bởi Thanh Văn Tăng mà còn phải thực hành bởi
Bồ-tát Tăng nữa (4).
Thanh Văn Tăng là Tăng chỉ thọ và hành trì theo
Biệt giải thoát luật nghi, nhằm phòng hộ và giải thoát theo
từng đối tượng cá biệt của các loại phiền não do duyên xúc
và thọ, mà ái, thủ, hữu sinh khởi hay do duyên vô minh và
hành, mà phiền não và các đối tượng của phiền não khởi sinh
làm vẩn đục đời sống giải thoát hay đời sống chính mạng vốn
thiết lập trên nền tảng của Tứ thánh chủng. Tứ thánh chủng
là pháp hành của vị Tỳ-kheo, pháp hành ấy đã được đức Thế
Tôn cụ thể hóa từ bản thể tịch diệt, thanh tịnh của Niết
bàn.
Bồ-tát Tăng, là Tăng không những chỉ hành trì
đầy đủ Biệt giải thoát luật nghi như Thanh Văn Tăng, mà còn
thọ và hành trì Đại thừa Bồ-tát giới, tức là giới làm lợi
ích cho hết thảy muôn loài, lấy bồ-đề tâm làm bản thể và tác
nhân, lấy bồ-đề quả làm định hướng cho bồ-đề nguyện và bồ-đề
hạnh.
Bất cứ xứ sở nào, các Tỳ- kheo cùng nhau tu tập,
cùng nhau hòa hợp để an cư, sống bằng đời sống hòa hợp và
thanh tịnh, thì xứ sở ấy, xem như Phật, Pháp, Tăng, có mặt
đúng ý nghĩa, làm chứng cứ cho niềm tin của chư Thiên và
loài người đối với chính pháp.
Nội Dung Pháp An Cư
Các Tỳ-kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện
mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A-la-hán. Đời
sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh
tịnh, gồm:
- Thanh tịnh về biệt giải thoát luật nghi: Ấy
là hành trì đầy đủ đối với các học giới của một vị Tỳ-kheo
mà pháp và luật đã quy định, khiến cho ngay cả những học
giới quy định những điều nhỏ nhặt như trăm pháp chúng học,
cần phải thực hành bởi một Tỳ-kheo cũng không bị tỳ vết, rạn
nứt và sứt mẻ.
- Thanh tịnh về các căn môn: Vị Tỳ-kheo có đầy
đủ giới hạnh, vị ấy luôn hành trì thanh tịnh đối với các
quan năng nhận thức, khiến cho các quan năng nhận thức luôn
luôn ở trong sự phòng hộ và thanh tịnh. Chẳng hạn, khi mắt
tiếp xúc với sắc, vị Tỳ-kheo có đầy đủ giới hạnh, gồm có
niệm và giác, khiến cho sắc không thể khuấy động tâm ý và
tâm ý không khởi lên các cảm thọ thèm khát và chiếm hữu.
Cho đến tai nghe thanh trần, mũi ngửi hương
trần, lưỡi nếm vị trần, thân xúc với xúc trần và ý tiếp xúc
với pháp trần, đều luôn luôn có niệm và giác, khiến cho các
trần tướng ấy, không thể khuấy động tâm thức qua các quan
năng nhận thức, khiến tâm thức luôn được an trú ở trong sự
thanh tịnh.
- Thanh tịnh về mạng: Thanh tịnh về mạng, chính
là thanh tịnh về sự nuôi dưỡng đời sống, tức là sống theo
Bốn thánh chủng.
Thánh chủng là dòng giống cao quý của các bậc
thánh hay của những bậc giác ngộ. Xã hội Ấn Độ bấy giờ có
bốn giai cấp. Giai cấp Bà-lamôn hay giáo sĩ là giai cấp nuôi
dưỡng đời sống bằng sự tế tự thần linh; giai cấp Vua chúa
nuôi dưỡng đời sống bằng những vũ khí quyền lực và chính
trị; giai cấp Phệ-xá hay thương gia, nuôi dưỡng đời sống
bằng sản xuất, buôn bán cạnh tranh trao đổi hàng hóa và giai
cấp Thủ- đà-la nuôi dưỡng đời sống bằng nghề làm thuê hay nô
lệ.
Đời sống của các đệ tử Thế Tôn, nuôi thân bằng
một bình bát, khất thực ngày một bữa đúng ngọ, ngủ nghỉ qua
đêm dưới gốc cây, nơi rừng vắng hay ở những hang động, che
thân bằng ba y phấn tảo, trị bệnh của thân bằng các dược
liệu của cỏ cây. Sống cuộc đời ít ham muốn, biết vừa đủ để
tinh cần đoạn trừ các dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu ở nơi
tâm, và nuôi tâm bằng các pháp vô lậu, nhằm hướng tới đời
sống ly dục, tịch tịnh tối thắng của Niết-bàn.
- Thanh tịnh về niệm: Thanh tịnh về niệm là
thanh tịnh về chính niệm, tỉnh giác. Nghĩa là vị Tỳ-kheo,
luôn luôn có chính niệm, tỉnh giác trong bốn oai nghi đi,
đứng, nằm, ngồi. Khi bước tới hay bước lui, đứng lại, nằm
hay ngồi, hoặc mọi động tác co duỗi của thân thể, vị ấy đều
có chính niệm tỉnh giác đối với chúng.
Khi ăn, uống, đi, đứng, nằm, ngồi, làm việc các
cảm thọ, các chủng tử tâm, hành, nội pháp và ngoại pháp hiện
khởi và ẩn tàng như thế nào, vị Tỳ-kheo đều biết rõ chúng
đang diễn ra như thế ấy. Và do thực tập niệm thanh tịnh,
khiến cho đời sống của một vị Tỳ-kheo đệ tử của Thế Tôn luôn
luôn ở trong sự thanh tịnh với đầy đủ ba ngàn oai nghi, tám
muôn tế hạnh, có khả năng đoạn trừ tất cả những loại phiền
não thô phù và tinh tế, làm dẫn sinh các thánh quả giải
thoát.
Vậy, pháp an cư của Tăng là cơ hội tốt để cho
các Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni, thực tập bốn sự thanh tịnh nầy
một cách miên mật ở trong chính niệm tỉnh giác hay ở trong
thiền định. Nói cách khác, an cư là để cho các Tỳ-kheo và
các Tỳ- kheo-ni an trú tại một trú xứ nhất định để thực hành
vững chãi đối với bốn sự thanh tịnh.
Nên, kinh Chính pháp Niệm xứ nói rằng:
- “Vào thời kỳ an cư mùa mưa, các Tỳ-kheo ngoại
trừ việc đi đại tiện và tiểu tiện, còn tất cả đều ngồi kiết
già tại chỗ để tu tập thiền định”(5).
Kỳ Hạn Thọ Và Xả Pháp An Cư
Kỳ hạn an cư của Tăng đoàn đệ tử Thế Tôn, ngày
nay không nhất định, vì tùy theo khí hậu và lịch biểu từng
vùng. Tăng đoàn các nước Phật giáo Nam phương như Tích Lan,
Miến Điện, Thái Lan, Lào, v.v… bắt đầu an cư vào ngày mười
sáu tháng sáu, theo lịch Trung Quốc. Và Tăng đoàn Phật giáo
các nước Bắc phương như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên,
Việt Nam,… bắt đầu an cư vào ngày mười sáu, tháng tư theo
lịch Trung Quốc.
Tăng đoàn Phật giáo Bắc phương an cư vào thời
gian trên là do dựa vào bản kinh Vu Lan. Theo kinh này, thì
ngày rằm tháng bảy là ngày Tự tứ của Tăng.
Theo Luật tạng của Thanh Văn Tăng, chỉ qui định
mỗi năm vào mùa hạ là mùa an cư của Tăng và chỉ có một ngày
tự tứ cho Tăng, sau khi đã an cư mà thôi và các Tỳ-kheo lấy
tuổi hạ làm tuổi của giới đức.
Có hai hạn kỳ an cư, gọi là tiền an cư và hậu an
cư. Tiền an cư là an cư vào phần đầu của mùa hạ, tức là an
cư vào ngày mười sáu tháng tư, theo lịch Trung Quốc, cho
Tăng đoàn Bắc phương. An cư từ mười bảy tháng tư đến hết
mười sáu tháng năm theo lịch Trung Quốc gọi là thời kỳ hậu
an cư. Hậu an cư cũng có hai thời kỳ, gọi là trung an cư và
hậu an cư.
Trung an cư bắt đầu từ ngày mười bảy tháng tư,
đến hết ngày mười lăm tháng năm. Hậu an cư là bắt đầu ngày
mười sáu tháng năm.
Thời hạn tiền an cư theo truyền thống Tăng đoàn
Bắc phương là bắt đầu từ ngày mười sáu tháng tư và đến mười
lăm tháng bảy âm lịch là kết thúc.
Nếu hậu an cư, kể từ mười bảy tháng tư thì đến
ngày mười sáu tháng bảy âm lịch là kết thúc. Và nếu an cư
sau ngày mười bảy tháng tư, thì sau đó phải tính đủ chín
mươi ngày để kết thúc pháp an cư(6).
Tác Pháp An Cư
Các chùa hay các tự viện của Tăng, phần nhiều
đều có tác pháp yết-ma kết cương giới của trú xứ, để thuận
tiện cho sự tu học và tiến hành các pháp thuộc về tăng sự
của trú xứ, thì khỏi phải tác pháp yết-ma để kết đại giới
của trú xứ an cư. Nếu trú xứ nào chưa có kết đại giới của
trú xứ, thì khi Tăng an cư phải tiến hành pháp yết ma kết
đại giới của trú xứ an cư, trước khi tiến hành pháp an cư
của Tăng.
Nếu cương giới trú xứ trước đó đã kết quá nhỏ,
nay lượng Tỳ-kheo an cư của Tăng trong trú xứ quá lớn, cần
nới rộng cương giới của trú xứ cho thích hợp, thì Tăng phải
tiến hành tác pháp giải cương giới cũ, sau đó mới tiến hành
tác pháp kết lại cương giới mới rộng hơn. Sau khi nhắc lại
cương giới cũ của trú xứ hoặc tiến hành tác pháp yết-ma kết
cương giới mới của trú xứ, Tăng mới tiến hành tác pháp an cư
như sau:
Tăng tiến hành tác pháp an cư có hai loại:
1- Tác pháp an cư của hàng Thượng tọa.
Tác pháp hàng Thượng tọa không có y chỉ luật sư,
vì hàng Thượng tọa là bắt buộc phải thông hiểu luật và phải
trì luật để làm chỗ y chỉ cho các hàng trung tọa và hạ tọa.
Hàng Thượng tọa tác pháp thọ an cư bằng đối thú.
Nghĩa là vị thượng tọa nầy đối diện với vị thượng tọa kia
hoặc quỳ, hoặc đứng để tác pháp thọ an cư.
Văn tác bạch thọ an cư của hàng Thượng tọa như
sau:
- “Đại đức nhất tâm niệm. Tôi Tỳ kheo,… nay y
(tên của trú xứ an cư) Tăng già-lam, an cư ba tháng đầu của
mùa hạ. Nếu phòng xá có hư hại, sẽ tu bổ”(7) (Bạch ba lần).
2- Tác pháp an cư của đại chúng.
Tác pháp thọ an cư của đại chúng là phải có vị
luật sư cho đại chúng y chỉ, để vị luật sư luôn nhắc nhở,
hướng dẫn cho những Tỳ-kheo ở trong đại chúng chưa thông
suốt luật, phải y luật hành trì đúng theo pháp an cư và xử
trị đối với các Tỳ-kheo an cư không như Thọ an cư đại chúng
theo thứ tự lớn nhỏ, Tỳ-kheo có tuổi hạ lớn nhất trong đại
chúng tác bạch thọ an cư trước, tuần tự cho đến vị Tỳ-kheo
hạ tọa sau cùng. Vị thọ an cư đảnh lễ Thượng tọa y chỉ luật
sư một lạy, rồi quỳ xuống tác bạch, văn tác bạch như sau:
- “Đại đức nhất tâm niệm. Con Tỳ-kheo… nay y nơi
(nói tên của trú xứ) Tăng già-lam an cư ba tháng đầu của mùa
hạ, nếu phòng xá có hư hại, sẽ tu bổ”.
- Thượng tọa nói:
- “Vậy, hãy cẩn thận chớ buông lung”.
Người thọ, đáp:
- “Y giáo phụng hành”.
Thượng tọa hỏi tiếp:
-
“Y vị nào làm luật sư?”.
Người thọ đáp:
-
“Y (nói hiệu của vị luật sư y chỉ) làm luật sư”.
Thượng tọa nói:
-
“Có điều gì nghi ngờ, nên đến hỏi”.
Người thọ đáp:
- “Kính vâng”. Và lễ Thượng tọa ba lễ, lui về
chỗ cũ, đợi những vị khác thọ xong và cùng hồi hướng.
Trong trường hợp có những trú xứ chỉ một
Tỳ-kheo, không có ai để y chỉ, Tỳ-kheo ấy được phép tác pháp
tâm niệm an cư. Vị ấy đến trước hình tượng của đức Phật hay
chính điện, kính Lễ như pháp và tác bạch như sau:
- “Con Tỳ-kheo,… nay y nơi (nói tên trú xứ) an
cư ba tháng đầu của mùa hạ” (bạch ba lần).
Cảm Nhận Và Kế Thừa
Ở trên trời và dưới đất hay bất cứ ở đâu trên
thế gian này, không thể có một ai trồng quýt mà lại thu được
quả cam. Cũng vậy, ở trên trời và dưới đất không một ai có
quyền cho ta hạnh phúc, khi mà ta đã gieo nhân bất thiện và
không một ai có quyền làm cho ta đau khổ, khi ta đã gieo
xuống mảnh đất tâm của ta những hạt giống lành của Bồ-đề và
đại nguyện. Hạnh phúc của ta thực sự chỉ có mặt, khi thân ta
hành thiện, miệng ta nói thiện và tâm ta luôn luôn an trú ở
trong điều thiện của Bồ- đề và đại nguyện ấy.
Giới luật, uy nghi và các pháp hành khác của
Tăng như bố-tát, an cư, tự tứ cũng vậy, chúng có tác dụng
giúp cho các Tỳ-kheo thực hành đời sống xuất gia và sinh
khởi các thiện pháp giải thoát cho họ. Trong Tăng đoàn có
nhiều Tỳ-kheo thành tựu được tâm giải thoát và tuệ giải
thoát là Tăng đoàn vững mạnh, làm chỗ quy tín cho hàng cư sĩ
tại gia và khiến cho ma quân chuyển đổi tà tâm, khởi sinh
chính tín đối với Tăng.
Vì vậy, ở trú xứ nào có các Tỳ-kheo bố-tát, an
cư và tự tứ đúng pháp, đúng luật, đúng thời, thì ở trú xứ đó
có Tăng bảo thường trú, nhằm khẳng định sự có mặt của chính
pháp một cách hiện thực, làm ngọn đuốc soi đường cho thế
gian trong đêm dài tăm tối. Nên, pháp an cư của Tăng không
phải mang một ý nghĩa hình thức, mà đó là một pháp hành,
chuyển tải một nội dung thanh tịnh và trong sáng, đầy đủ các
chất liệu của Giới, Định và Tuệ mà phận sự của các Tỳ- kheo
phải miên mật hành trì, để kế thừa dòng mạch tâm linh cao cả
của chính pháp, khiến cho dòng chảy ấy không bao giờ bị đứt
đoạn giữa thế gian này.
Chú Thích:
1- Phật Thuyết Tam Chuyển Pháp Luân kinh, Tạp,
tr 504, Đại Chính 2.
2- Giới kinh của đức Phật Thích-ca, mười hai năm
đầu, kể từ khi thành đạo, theo Tứ Phần Luật, Đại Chính 22.
3- Tứ Phần Luật 37, An cư kiền-độ, tr. 830b,
Đại Chính 22. Pàli, A, A, ii 97.
4- Phạm Võng Kinh, tr 1008a, Đại Chính 24.
5- Dẫn theo Tứ Phần Luật San Phiền Bổ Khuyết
Hành Sự Sao, tr 58a, Đại Chính 40.
6- Theo Luật Tứ Phần 58, có ba thời kỳ an cư:
-Tiền an cư – Trung an cư –
7- Tứ Phần 37, tr 380, Đại Chính 22. pháp.
Thích Thái Hòa
06-26-2008 10:23:13